Hơn mười năm trước, tôi gặp cụ ở Lễ Hội chùa Sùng Nghiêm
Diên Thánh. Âu cũng là một cơ duyên không hẹn trước. Hôm ấy
khi xuống phủ Mẫu, tôi nh́n thấy một tấm vải đỏ treo trước
phủ viết bằng mực nho bốn chữ “Mẫu nghi thiên hạ” (Mẹ của
muôn dân). Tôi tṛn mắt ngắm nh́n, sao đẹp quá ta! Ai viết
mà đẹp và có hồn vậy? nét bút rắn rỏi dứt khoát…một bút lực
mạnh mẽ phóng khoáng! Tôi hỏi một anh bạn trong làng:
- Ai viết bốn chữ Nho này thế?
- Cụ Toàn Mai ở xóm Thừa. Rồi anh chỉ về dăy ghế dưới gốc
cây nói:
- Cụ Toàn Mai đang ngồi kia ḱa.
Trước mắt tôi là một cụ già ngoại tám mươi, da hồng hào có
đôi mắt cười rất hiền. Mái tóc trắng lơ thơ rủ xuống vầng
trán cao. Cụ mặc bộ quần áo pizama kẻ sọc, chiếc ô để bên
cạnh. Tôi nghe tên cụ từ lâu, nhưng ít khi về làng nên chưa
được gặp.
Anh Toàn con cả của cụ kém tôi dăm tuổi. Làng tôi có tục gọi
tên người khá độc đáo: Con gái lấy chồng bị mất tên gọi, mà
gọi theo tên chồng: anh Ất, chị Ất. Khi chưa có con gọi là
anh nhiêu Ất, chị nhiêu Ất. Có con trai gọi là anh c̣ Ất,
chị c̣ Ất. Có con gái gọi là anh hĩm Ất, chị hĩm Ất. Tên bố
được gắn sau tên con đầu ḷng để phân biệt với các nhà khác.
Cụ tên là Mai, con đầu là Toàn nên làng gọi là ông Toàn Mai.
- Con chào cụ.
Ông ngước nh́n tôi ngạc nhiên vẻ thăm ḍ
- Con là Phong. Con ông Đạt ở cuối xóm Hà, bố con ngày trước
đi buôn bè ấy mà!
- Chào anh Phong, ai chứ ông Đạt tôi biết; cả làng này biết
trước ông buôn bè, từ khi lấy bà kế, ông chuyển sang nghề
nấu nước mắm.
- Vâng ! hồi ở nhà con vẫn gánh nước mắm cho mẹ kế đi chợ
Bút bán !
Ông cười hiền nghe tôi, rồi nói:
- Ông Đạt có chú em tên là Công, hồi trước học chữ Nho với
ông cụ nhà tôi. Hai đứa chúng tôi chơi thân lắm, Công sáng
dạ, đọc thuộc làu làu các bài trong “Ấu học ngũ ngôn thi”
không sót chữ nào. Chữ viết rơ ràng chỉ cái là bị xước gẫy.
Ông cụ nhà tôi bắt chép lại nhiều lần…Ông ngước mắt nh́n xa
xăm ch́m vào hồi ức.
- Tôi thành phần địa chủ khổ đă đành, ông Công thành phần cơ
bản mà khổ suốt một đời. Những năm làm ăn HTX, c̣n chạy lên
tận Kim Tân - Thạch Thành buôn sắn, củ từ rồi hoa quả các
loại… đói vẫn hoàn đói.
Ông nhắc tới người bạn học tṛ, một thời cửa Khổng sân
Tŕnh, làm tôi nhớ tới ông chú. Chú tôi là thế hệ cuối cùng
học chữ Nho vào những năm ba mươi của thế kỷ trước. Bấy giờ
làng tôi có tới trên dưới hai mươi thầy đồ, phần lớn dạy cho
con em trong làng. Cũng có vài ông ra tận kinh bắc dạy học
rồi an cư lập nghiệp luôn. Họ Nguyễn nhà ông Lư Thao có tới
hai ông thành dân Từ Sơn Bắc Ninh. Hai thầy đồ có tiếng và
đông học tṛ trong làng là ông Hương Hoan và ông Lư Thao.
Chú tôi học với ông Hương Hoan là thân sinh của cụ Toàn Mai.
*
* *
Cuối những năm chín mươi, dân ta nổi lên phong trào phục hồi
văn hóa cổ…làng xă th́ trùng tu, tôn tạo đ́nh chùa miếu mạo;
ḍng họ th́ sửa sang hoặc làm nhà thờ, lục t́m gia phả dịch
ra cho con cháu biết cội nguồn…
Khổ nỗi, biến cố long trời lở đất trong CCRĐ 1954 – 1955,
bọn đế quốc phong kiến đă thành mây khói bay đi mất cả. Nhà
nào có sách chữ Tây và chữ Nho, gia phả đều bị tịch thu hết,
tập trung về cây đa chùa Chung, dưới sự chỉ huy của đội phó
đội CCRĐ và bí thư Thanh, các anh chị thanh niên cứu quốc
châm lửa đốt hết các sách chữ Nho, chữ Tây, các văn tự trích
lục ruộng đất, gia phả ḍng họ. Dưới nắng hè, ngọn lửa thiêu
càng bén nhanh, gió thổi bốc lên cao những tàn giấy trắng
bạc rơi lả tả như những cánh bướm rụng xuống trắng mặt cỏ.
Mọi người như nhập đồng, men say càng ngấm, mắt đỏ đọc ḷng
đầy căm thù càng gào to lên: “Đả đảo đế quốc phong kiến!
Nông dân vùng lên!” Đội thiếu nhi chúng tôi được dịp thẳng
tay phang trống cà rùng. Không gian bị vỡ vụn ra bởi tiếng
trống, tiếng hô khẩu hiệu vang vọng cả một vùng từ cánh đồng
Cửa, đồng Ao, ruộng Hào… từ bờ giếng ngoài qua giếng Quai
tới khu ruộng bờ giếng trong vào làng, làm mọi người đổ ra
ngơ đồng, nghển cổ trông ra đám khói đen mù mịt ở cây đa
chùa Chung.
Cuối những năm chín mươi, trong cuộc họp họ, các bác các
chú, các o các d́ cũng đă sang tuổi “xưa nay hiếm” đều có
tâm nguyện phải viết lại gia phả. Các ông bà rất tự hào v́
cụ Trưởng chi từng làm chánh tổng. Lúc đương chức, cụ làm
nhà gỗ lim bảy gian với năm bậc thềm. Như vậy là phạm
thượng, quan huyện sức về bắt hạ nền và thu lại c̣n năm
gian. Ngôi nhà thờ ấy nay là một trong những ngôi nhà cổ c̣n
sót lại của làng. Các cụ nói: làng tôi khi ấy có hai đám ma
to nhất cả vùng: đám ma cụ Đồ và đám ma ông Cai Thừa. Quan
tài quàn lại suốt ba tháng tế lễ, khi đưa ma làm nhà trạm để
nghỉ và tế!
Nhắc lại chuyện xưa các ông bà tự hào lắm, tôi thầm nghĩ nếu
cụ tổ sống thời kỳ CCRĐ, cầm chắc sẽ bị bắn v́ là địa chủ
cường hào gian ác, tay sai của đế quốc phong kiến!
Cuối cùng các ông bà giao cho tôi trọng trách chấp bút gia
phả. Quả là đáy bể ṃ kim, tôi gặp các cụ cao niên t́m hiểu
về quê hương bản quán… Tôi lục cái tráp đen bố tôi để trong
góc tủ. Không hiểu sao bố tôi vẫn giữ được các bản trích lục
ruộng đất ghi bằng ba loại chữ: chữ Pháp, chữ Nho và chữ
Việt. Th́ ra nhà tôi có bảy sào ruộng, toàn loại thượng đẳng
điền, bố tôi buôn bè nên có tiền đều mua ruộng…May là dưới
một mẫu, nên không bị quy lên địa chủ, chỉ là thành phần
trung nông thôi. Bảy sào ruộng ấy, cùng với cày bừa nông cụ
phải nộp cho HTX làm ăn tập thể; để rồi cuối vụ được chia
theo công điểm chẳng được bao nhiêu, quanh năm không thoát
cảnh đói ăn, phải chạy chợ t́m thêm nghề phụ kiếm sống. Mọi
người tự hào thành dân vô sản…Mang lí lịch thành phần trung
gian và tiểu tư sản học sinh, nên đường đi của tôi luôn lận
đận…
Trong tập trích lục, có bản văn tự bằng chữ nho do chú Công
viết ghi lại việc phân chia đất hương hỏa cho ba anh em
trong họ. Chữ chân rơ ràng, nhưng nét bị gẫy xước. Người ta
nói nét chữ nết người, phải chăng nét chữ phản chiếu cuộc
đời chú tôi long đong khổ sở như cụ Toàn Mai nói?
Cụ Toàn Mai dịch rộng chỗ cho tôi ngồi cạnh. Tôi mừng thầm
v́ có một cụ cao niên thâm nho c̣n sót lại của làng. Mấy năm
trước, cũng không có việc ǵ liên quan tới chữ nho, nên tôi
không mấy để ư. Các cụ biết chữ nho trong làng lần lượt ra
đi cả: cụ Quưnh, cụ Phú Bường, cụ Tuân Suốn…Tôi đă nhờ cụ
Tuân Suốn đọc và giải thích mấy bài vị của ḍng họ, v́ thế
mới biết ngày sinh ngày mất của các cụ. Lần này gặp được cụ
Toàn Mai tôi mừng lắm.
- Thưa cụ! bốn chữ “Mẫu Nghi Thiên Hạ” (Mẹ của muôn dân) cụ
viết đẹp lắm, con rất thích. Bút lực khỏe, dáng bay thanh
thoát chẳng kém ǵ nhà thư pháp Lê Xuân Ḥa ở làng Phú Khê.
Cụ nh́n tôi thăm ḍ:
- Anh cũng biết chữ nho?
- Dạ! Con cũng vơ vẽ dăm ba chữ hồi học phổ thông.
- Ra vậy! Nhà trường dạy chữ Trung Quốc lối mới gọi là bạch
thoại. Chúng tôi học lối Văn Ngôn của các cụ xưa. Người học
Văn Ngôn th́ hiểu bạch thoại, c̣n người học bạch thoại không
thể dịch được văn ngôn.
- Vâng thưa cụ, anh bạn tôi nói chuyện nhà có một sắc phong
từ thời Hồ Quư Ly, giao cho đứa cháu cử nhân tiếng Trung
dịch. Nó không dịch được, tôi xem hiểu nghĩa nhưng dịch
không chính xác, phải lên Thanh nhờ cụ Uông dịch, mới biết
công tích cụ tổ đă hiến kế và tổ chức cứu thuyền Hồ Quư Ly
thoát cạn, được nhà vua phong tướng.
Cụ cười sảng khoái, tâm đắc với câu chuyện tôi kể.
- Thưa cụ! Con hiện không ở làng, thỉnh thoảng có việc mới
về rồi lại đi ngay. Được gặp cụ con mừng lắm! Xin cụ cho
phép con đến học, được cụ chỉ vẽ cách viết chữ nho.
Cụ tṛn mắt nh́n tôi ra chiều ngạc nhiên, thời này c̣n có kẻ
dở hơi ta! Cụ cười lớn làm mọi người chung quanh quay lại
nh́n, nhưng cụ cười càng to hơn:
- Anh nói thật hay dỡn tôi vậy?
- Thưa cụ con đâu dám dỡn. Con thật ḷng mà. Chả là con
thích xem các câu đối, hoành phi đại tự, trong các đ́nh
chùa… Con loay hoay vẽ chữ bằng ch́ trước rồi mới tô mực
sau. Vẽ xong con phải vứt đi v́ xấu hổ, lỡ ai xem họ cười
chết mất!
- Anh vứt đi là đúng đấy, viết câu đối hay đại tự phải dùng
bút lông lớn, thấm vào nghiên mực lựa cho vừa đủ viết một
chữ. Đặt bút lên giấy viết liền một mạch, th́ chữ mới có
hồn, thể hiện được cái tâm của người viết. Anh nói vậy, tôi
sẵn ḷng giúp anh.
Được cụ nhận lời, tôi mừng lắm. Những tưởng cụ từ chối,
không ngờ cụ xởi lởi và gần gũi đến vậy. Mới gặp lần đầu mà
tôi thấy t́nh cảm thân thiết ông dành cho tôi, như thầy giáo
dành cho học tṛ.
(C̣n nữa…)
Nguyễn Quư Phong
CỤ ĐỒ NHO CUỐI CÙNG CỦA LÀNG TÔI (Phần 2)...
Đúng lời hẹn, tôi có mặt để bái Thầy làm sư phụ. Đó là một
ngày cuối thu, đă bảy giờ rồi, mà sương mai c̣n giăng mắc
một màu lam mờ mịt khắp cả xóm làng. Tiết trời se se lạnh.
Thấy tôi đẩy xe đạp vào cổng, cụ ra sân đón với nụ cười đôn
hậu:
- Tôi vừa pha ấm trà sen đợi anh!
- Dạ ! Tối hôm qua con về đă muộn, nên chưa lên thăm cụ ngay
được.
Chiêu ngụm trà sen hương thơm vị đậm, tôi nhận ra ngay mùi
vị nước ao sen làng không lẫn đi đâu được. Cụ cho biết : nhà
có hẳn một bể nước mưa bốn khối, nhưng cụ không bao giờ dùng
pha trà, nước nhạt thếch mất vị trà. Giếng cả làng đều nước
gạch cua, nhưng lạ một điều là nước ao sen luôn trong veo,
vị ngọt và không “cứng”. Ao sen đào từ năm 1118 cùng với
việc trùng tu chùa Sùng Nghiêm, sau chuyến tuần du phương
Nam của vua Lư Nhân Tông về làng Duy Tinh, thị sát trấn
Thanh Hoa (tỉnh Thanh Hóa) do Chu Nguyên Hạo làm trưởng trấn.
Đă ngàn năm tuổi rồi mà nước ao sen vẫn vậy. Bây giờ nhiều
nhà có bể nước mưa, nhưng vẫn không ít nhà gánh nước ao sen
về làm nước uống. Ở góc thềm nhà cụ có chiếc chum sành đựng
nước ao sen.
Tôi ngạc nhiên nh́n cụ phe phẩy chiếc quạt nan trước miệng
hỏa ḷ, than củi hồng lên đỏ rực. Chiếc siêu trà bằng đồng
lớn hơn cái bát ăn cơm, cán khảm trai là tay cầm; từ ṿi ấm
phun ra một làn hơi nước với tiếng reo nho nhỏ.
- Thưa cụ! để con lấy phích nước pha cho tiện…
- Ấy đừng, phích ấy tuy là nước sôi, nhưng làm sao bằng được
nước sôi gịn trên hỏa ḷ.
Cụ rót nước vào ấm trà xong, lại đặt siêu lên hỏa ḷ rồi
dùng ca múc nước lạnh đổ vào. Bộ nhị ẩm của cụ bây giờ là
của hiếm: một chiếc ấm, một cái tống và hai chén con để
trong một chiếc đĩa phẳng ḷng, thành cao khoảng một phân.
Bộ nhị ẩm bằng đất nung màu gan gà, tất cả được bịt đồng
xung quanh vành miệng vàng chóe. Dưới đít có khắc ch́m hai
chữ “nội phủ” (Đồ dùng trong cung vua). Cụ thong thả rót trà
ra cái tống, rồi từ tống cụ san đều cho hai chén.
- Rót trà cho hai chén như thế này mới đều nhau chất lượng.
Quả là ẩm thực cũng lắm công phu, chẳng thế mà Nhật Bản có
Trà đạo. Từ việc đơn giản là uống trà, tới cách pha, rồi
nghi thức thưởng thức trà được đúc kết thành “Trà đạo”.
Nh́n cụ pha trà, tôi nhớ lại khi c̣n học lớp Năm; khoảng giờ
Dần bố tôi đánh thức tôi dậy học bài. Ông bảo học lúc này
mau nhớ mau thuộc. Bấy giờ phải học thuộc ḷng các bài thơ,
đoạn văn và các định lư, công thức…Trong khi tôi gào to:
“rắn là một loài ḅ…sát không chân…” th́ bố tôi quạt hỏa ḷ
pha nước trà tàu uống. Bố tôi có bộ độc ẩm màu gan gà, ấm
nhỏ xíu bằng quả quưt với cái chén to bằng mắt trâu. Bây giờ
thỉnh thoảng tôi vẫn đem ra ngắm…Cứ dăm bữa tôi lại ra hiệu
tạp hóa đầu phố mua gói trà “Chính Xuân”. Lượng trà khoảng
30 gam, gói trong hai lớp giấy thành một h́nh lập phương. Cả
sáu mặt đều trang trí hai chữ “Chính Xuân” bằng chữ Việt và
chữ nho rất đẹp.
Tôi soạn mấy thứ để thắp hương, trong đó có các thứ học cụ:
Một gam giấy A4, một hộp bút lông 12 chiếc và một lọ mực tàu
pha sẵn của Trung Quốc. Cụ đưa tôi vào thư pḥng, đó là một
gian lồi có cửa đi ra thềm. Cụ ở một ḿnh trong ngôi nhà
ngói ba gian. Gian giữa để thờ và tiếp khách. Gian bên cạnh
kê giường ngủ của cụ. Phía trong gian lồi là buồng. Sân rộng
trên hai mươi mét vuông lát gạch bát, trước sân là một
khoảnh đất nhỏ có hai cây cau và mấy bụi hoa lan, hoa hồng;
đi ṿng ra phía sau nhà là một bể nước mưa 4 khối. Một không
gian yên tĩnh làm cho ta thư thái và an nhiên tự tại…
- Thưa cụ, cụ ở có một ḿnh?
- Phải! nhưng cũng không phải…cụ chậm răi cho tôi biết: Nhà
cháu cụ đối diện bên kia đường, hàng ngày đứa chắt trai sang
học bài, tối ngủ với cụ. Ăn uống tôi sang nhà cháu, bữa nào
mưa gió nó mang cơm sang cho tôi…
Ra vậy! Nh́n cơ ngơi và cách sống, tôi thầm ước: giá như tôi
cũng được ở như thế, để tránh xa sự ồn ào nơi thị thành…
Thư pḥng của cụ là gian lồi khoảng chín mét vuông. Một cửa
đi ra thềm, một cửa thông với buồng, c̣n cửa sổ nh́n thẳng
ra ngoài sân. Tôi ngạc nhiên hơn, biết đây c̣n là nơi cụ bốc
thuốc bắc. Một tủ thuốc với nhiều ngăn kéo ta thường thấy ở
hàng thuốc bắc, bên cạnh là cái giá nhiều ngăn bày đặt các
thứ, từ sách vở đến các dụng cụ thường dùng. Chiếc bàn kê
ngay dưới cửa sổ, trên bàn có con dao cầu, một vỏ lon sữa
cắm bút lông, một chồng sách, cái bàn tính và một tờ sớ đang
viết dở… góc trong chân bàn là cái thuyền gang nghiền thuốc.
- Thưa cụ! cụ c̣n có nghề bốc thuốc bắc?
- Ngày trước tôi được cụ thân sinh dạy thêm về y lư, cuối
những năm 50 tôi học thêm cụ chủ cửa hàng thuốc bắc Tế Sinh
Đường ở thành phố Nam Định. Khi tôi ra đấy kiếm sống, chuyện
đời c̣n dài rồi tôi sẽ kể cho anh nghe sau…
Trên tường cụ treo đầy các chữ nho do chính tay cụ viết:
Phúc - Lộc - Thọ - Khang - Ninh - Tâm - Đức - Nhẫn - Trí…
Tôi đặc biệt chú ư tới bốn bức tranh chữ, viết về bốn mùa
Xuân - Hạ - Thu - Đông. Đây là một bài thơ ngũ ngôn cổ, nói
về thú tiêu dao của tao nhân mặc khách, thưởng lăm vẻ đẹp
đặc trưng của từng mùa.
春遊芳草地,Xuân du phương thảo địa
夏賞綠荷池,Hạ thưởng lục hà tŕ
秋飲黃花酒,Thu ẩm hoàng hoa tửu
冬吟白雪詩. Đông ngâm bạch tuyết thi.
Vơ vẽ chút ít về quảng cáo và hội họa, tôi nhận ra sự tinh
tế trong bố cục, quy luật viễn cận hài ḥa, điểm nhấn mạnh
làm cho người xem đầy cảm súc. Bốn mùa xuân hạ thu đông,
được cụ viết to và nổi bật nhất; bốn thú chơi tao nhă được
cụ viết nhỏ hơn một chút; c̣n lại ba chữ đặc trưng của bốn
mùa cụ viết thành một ḍng bên trái. Nét bút mạnh mẽ dứt
khoát, nhưng mềm mại bay bướm, tao nhă và phóng khoáng. Tôi
như được dẫn dắt và thưởng lăm vẻ đẹp của từng mùa…
- Ta bắt đầu anh Phong nhỉ!
- Dạ!
Tiếng nói của cụ đưa tôi trở về với thực tại. Tôi soạn giấy
bút và đổ mực ra cái đĩa.
- Trước hết tôi hướng dẫn anh cách cầm cây bút lông. Có
nhiều cách cầm bút lông, nhưng cách cơ bản là NGŨ CHỈ CHẤP
BÚT: Đây là cách cầm bút thông dụng và phổ biến nhất. Giữ
thân bút bằng ba ngón tay: ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa.
Đầu ngón tay cái áp sát vào thân bút. Ba ngón trỏ, ngón giữa,
ngón đeo nhẫn áp sát vào thân bút. Ngón út không chạm vào
thân bút mà tựa nhẹ vào ngón áp út. Bút phải vuông góc với
mặt giấy, khi viết các ngón tay và cổ tay thoải mái không
gồng cứng. Lưng thẳng, vai luôn ngang và thả lỏng.
Tôi loay hoay gần nửa tiếng, thao tác nhiều lần. Cụ nh́n tôi
cười hiền, ra chiều thông cảm với anh học tṛ già, đă tṛn
một ṿng hoa giáp 60 tuổi. Cụ chuyển qua hướng dẫn viết sáu
nét cơ bản: ngang, sổ, phẩy, mác, chấm và hất. Tôi mải miết
như anh thợ cày. Buổi học đầu tiên làm tôi mệt bă người ra…
Một tuần được cụ dạy bảo rồi cũng qua. Một thầy một tṛ nên
cũng tiện, có ǵ chưa rơ được Thầy trực tiếp bảo. Nh́n chữ
tôi viết cụ chỉ cười, tôi biết chắc là không đạt. Ngày cuối
cùng tôi nạp “ống quyển” và mạnh dạn hỏi cụ:
- Thưa cụ, cụ cho con mấy điểm?
Cụ cười to thông cảm.
- Sáu điểm! Nhưng nể anh là học tṛ già lại chịu khó, nên
thêm cho anh một điểm!
Nghe cụ nói tôi rất vui, v́ tôi chỉ mong sao biết được những
điều cơ bản. Muốn viết đẹp c̣n phải luyện nhiều. Cụ đă ngoại
tám mươi rồi mới viết được như vậy. Tôi tự an ủi một tuần
được như thế là khá rồi!
Cụ thường xuyên có khách: khi là con bệnh đến khám và bốc
thuốc, khi là mấy ông bạn già trong làng đến chơi…Những lúc
ấy, tôi phải mang giấy bút ra ngồi bệt ngoài thềm tập viết…
(C̣n nữa)
Nguyễn Quư Phong
CỤ ĐỒ NHO CUỐI CÙNG
CỦA LÀNG TÔI (Phần 3)....
Nhiều hôm hai thầy tṛ
ngồi nói chuyện cả buổi. Cụ coi tôi là người bạn vong niên.
Cụ kể cho tôi nghe nhiều chuyện làng xă. Chuyện cuộc đời ba
ch́m bảy nổi…Cụ ch́m vào kư ức với giọng trầm đều:
- Bố tôi là hương bạ của làng, cụ bỏ tiền ra mua để khỏi
phải đi phu phen tạp dịch. Việc chính của cụ là dạy học và
bốc thuốc. Mẹ tôi lam làm, ngoài công việc đồng áng c̣n chạy
chợ. Nhà tôi cũng có đồng ra đồng vào, nên mua được gần hai
mẫu ruộng. Đó là chỉ tiêu đủ và thừa, để nhà tôi bị quy lên
địa chủ hồi CCRĐ.
Lên bảy tuổi tôi bắt đầu học chữ nho, mười lăm tuổi tôi đă
được bố dạy, “Kinh Thi”, “Kinh Thư” và “Kinh Lễ”…Bố tôi bắt
học thuộc một số bài thơ Đường nổi tiếng của Lư Bạch, Bạch
Cư Dị, Đỗ Phủ và Vương Bột… Bố tôi c̣n kèm cho học nho y qua
các sách: “Hồng Nghĩa Giác Tự Y Thư”, “Nam Dược Thần Hiệu”
của Tuệ Tĩnh… Nhà tôi hiện c̣n bộ “Khang Hy Tự Điển” 32
quyển, hồi CCRĐ tôi dấu vào chum đem chôn ở chuồng ḅ. Măi
đến sau năm 1975 tôi đào lên, may vẫn c̣n nguyên vẹn. Anh
Nguyễn Thiện Phúc con cụ giáo Nậm - Hiệu phó Trường Đại Học
Bách Khoa Hà Nội, đến thăm tôi và xem bộ Tự Điển này!
Cụ đưa tôi vào buồng, mang bộ Tự Điển ra xem. Bộ Tự Điển này
gồm 12 tập lớn, theo thứ tự thập nhị địa chi, mỗi tập lớn
gồm 3 quyển Thượng - Trung và Hạ. Hai thầy tṛ ngồi đối diện,
nh́n bộ Tự Điển chồng cao giữa bàn nước.
Đây là điều làm tôi vô cùng bất ngờ và ngạc nhiên. Bộ sách
này in lần đầu ở Trung Quốc đời Khang Hy thứ 25 (1716). Thế
mà một vùng quê xa xôi như quê tôi, cụ vẫn tầm mua được bộ
Tự Điển quư hiếm này. Mới biết làng tôi xưa, có nhiều người
hiếu học. Thật là niềm tự hào cho quê hương, không hổ danh
với tên gọi “Duy Tinh!” mà các vị tiền nhân đă đặt ngàn năm
trước.
Cụ ngồi bất động như pho tượng đá, đôi mắt nh́n ra khoảng
trời xa xăm trước nhà. Tôi biết, cụ đang trở về những hồi ức,
vui buồn đan xen của một thời quá văng. Bỗng cụ cất lên
tiếng nói trầm uất, sắc lạnh; tôi có cảm giác là tiếng vọng,
tiếng thét, của một thời đầy băo tố:
- Năm 1955, cuộc sống làng ta đang yên b́nh, bỗng đảo lộn
lên khi đội CCRĐ về. Làng ta có hai người: đội phó Đáp và
đội viên Na. Họ vào các nhà xâu chuỗi bắt rễ, sau một tuần
phát động nông dân: “Có khổ nói khổ, nông dân vùng lên”.
Thoạt đầu là các nhà bà Tổng, ông Lư Cảnh, bà Lư Thao, ông
bạ Bát, ông giáo Chúc, ông giáo Tước, bà bát Chén quy lên
thành phần địa chủ. Mấy hôm sau là các nhà: bà hương Can,
ông hương Lư, bà phó Hai, nhà tôi, ông kiểm Thêu, ông phó
Quưnh, bà hương Mởn…c̣n mấy nhà nữa tôi không nhớ hết. Anh
tính, làng ta bấy giờ có 5 xóm, mà có tới gần hai chục địa
chủ. Xóm Hàng nhà anh là xóm nhiều ruộng nhất làng, đă có
gần một chục địa chủ.
Cuộc đấu tố địa chủ liên miên cả đêm và ngày. Địa chủ bị
giam ở đ́nh nghè và điếm canh. Con cái địa chủ, có việc ra
ngoài th́ len lét như rắn mồng năm; gặp Đội phải khoanh tay:
Con chào ông! Con chào bà! Gặp các ông bà nông dân, th́ nép
vào lề đường cúi mặt không dám nh́n… Những người thân cũng
không dám gần, v́ bị quy là liên quan tới địa chủ.
Địa chủ bị tịch thu ruộng đất, rồi tịch thu cả nhà cửa, đồ
dùng vật dụng trong nhà… gọi là “quả thực” để chia cho nông
dân. Hôm đưa cơm cho bố tôi bị giam, ông dặn:
- Họ sẽ tịch thu mọi thứ con ạ. Cái quư nhất là bộ Tự Điển
và mấy cuốn sách thuốc, con về cho vào chum chôn đi. Sau này
sẽ giúp con kiếm sống đấy.
Hôm chia “quả thực” cả nhà tôi dậy thật sớm, không biết mẹ
tôi có dấu được ǵ? Tôi cũng không biết nữa. Tôi nói với mẹ
và các em: chọn quần áo lành mặc cả vào người. Riêng tôi
chọn mặc ba bộ áo quần đẹp chỉ dành vào dịp Tết.
Chưa đến bảy giờ sáng, dân quân đă kéo vào sân nhà tôi. Đi
đầu là đội viên Na, rồi bí thư Thanh. Tiếp đến các ông bà
nông dân được chia “quả thực”, đông kín từ sân ra ngơ. Đôi
viên Na dơng dạc hô:
- Mụ Hoan, vợ chồng thằng Mai…mọi người ra cả ngoài sân!
Chúng tôi len lét bước ra sân, ai cũng mặc hai ba bộ áo quần;
nên đi lại hơi khó khăn, không thoát khỏi những cặp mắt soi
mói. Bỗng đám đông hét lên nhao nhao:
- Chúng nó ngoan cố, mặc nhiều quần áo, ăn cắp “quả thực”
ḱa! Bắt chúng cởi ra! Cởi ra!
Từ trong đám đông, một tiếng thét vang lên:
- Đả đảo bọn địa chủ cường hào ngoan cố! Đả đảo! Đả đảo! Đả
đảo!
Mọi người như ngấm men say, há hốc mồm ra gào thật to:
- Đả đảo! Đả đảo! Đả đảo!
Ba cái nong ở giữa sân đựng đầy các thứ, dân quân vào nhà có
ǵ thu nhặt hết. Giường tủ, bàn ghế, áo quần, chăn bông, nồi
đồng mâm thau, bát đũa ấm chén… Cả cái cối, con lăn bằng đá,
quạt lúa… rồi cày, bừa, cào cỏ, kẹp lúa, con dao, cái
liềm…cả hoành phi câu đối, không sót thứ ǵ.
Dân quân bắt từng người trong gia đ́nh tôi đứng im, họ lột
hết áo quần; chỉ cho mỗi người một bộ sờn rách. Mẹ tôi mặc
cái áo bông trần hạt lựu rất đẹp, đều có thể trở mặc được cả
hai mặt, họ bắt cởi ra. Mẹ tôi sụp xuống:
- Lạy các ông các bà, tôi già rồi cho tôi xin cái áo bông.
- Không được! Đừng có nhiều lời
Đội viên Na đứng trên thềm dơng dạc tuyên bố:
- Số “quả thực” này chia cho bần cố nông, những gia đ́nh cố
nông vào nhận trước, rồi đến gia đ́nh bần nông. Nhà cửa cũng
tịch thu, chờ Đội xem xét để chia cùng với việc chia ruộng
sắp tới. Từ nay mụ Hoan và con cái cho ở nhà bếp và cái
chuồng ḅ.
Đám đông nhào vô như đám người hôi cá tát ao, chen lấn, la
hét; cả giành giật nhau những vật dụng mà họ ưng ư. Ông bần
nông K… vào chậm, chỉ c̣n đôi câu đối dựng ở thành bể cạn;
ông vác lên vai, vừa đi vừa lẩm bẩm: mang về ngăn chuồng lợn
cũng được đây!
(C̣n nữa…)
Nguyễn Quư Phong
CỤ ĐỒ NHO CUỐI CÙNG CỦA LÀNG TÔI (Phần 4).......
Nh́n khuôn mặt đôn hậu hiền từ của cụ, ai bảo cuộc đời cụ
đầy băo tố? Thật ra nỗi khổ những ngày CCRĐ chỉ là khúc dạo
đầu, trong bản tổng phổ nhiều bè, với nhiều cung bậc thăng
trầm mà cụ từng nếm trải. Tôi nắm tay cụ, t́m sự thông cảm
chia sẻ. Cụ lắc mạnh tay tôi, với giọng nói trầm uất từ sâu
thẳm vọng về:
- Trận đói cuối năm 1954 kéo dài sang năm 1955, cả tỉnh, cả
huyện, cả làng đói ră họng. Cuộc CCRĐ như một trận băo đánh
bồi và đánh nhồi thêm, làm cho làng ta càng xơ xác. Đồng
trên băi dưới, toàn thấy người cuốc rau má, hái rau lang,
rau đậu. Chuối trong vườn chưa ra buồng cũng chặt, bóc bớt
bẹ, thái ra làm thức ăn. Đào củ chuối gọt vỏ, thái nhỏ luộc
lên ăn với muối.
Trông cảnh bố mẹ già, vợ và hai đứa con gày tong teo; mặt
xanh nanh vàng, ḷng tôi như xát muối. Tôi đành bỏ nhà, bỏ
làng đi kiếm ăn. Đúng ra là tôi trốn, v́ con cái địa chủ
không được ra khỏi làng. Đó là giữa mùa thu, quá nửa đêm tôi
dặn vợ: đừng cho bố mẹ biết. Từ nhà lên ga Nghĩa Trang 5 cây
số, may không gặp dân quân du kích. Lên được tàu, coi như
tôi thoát!
Xuống ga Nam Định trời c̣n chưa sáng, tôi lần ṃ cứ đi đại,
qua không biết bao nhiêu dăy phố: nào hàng Mắm, hàng Gà,
hàng Ruợu, hàng Thiếc, hàng Đàn... qua chợ Rồng th́ tôi dừng
lại. Người tôi mệt bă ra, tối qua ăn mấy củ khoai lang với
hàng chục quả cà mặn; bây giờ mới thấy khát nước. Vặn ṿi
nước máy, uống lấy uống để. Nước mát lạnh làm tôi tỉnh
người. Tiếng nói chuyện lao xao của người đi chợ Rồng ngày
một đông. Tôi ngồi bệt xuống chân cột đèn. Hàng phở sáng
trưng, thùng nước rùng khói bốc lên nghi ngút, mùi thơm lan
tỏa làm tôi càng thêm đói. Trong túi chỉ c̣n lại ba hào, có
lẽ cũng được bát phở! Đói là vậy, tôi đâu dám hoang phí. Tôi
cứ ngồi như thế, đôi lúc thiếp đi.
Chiếc xe ba gác chở hàng vấp ḥn đá, loạng choạng làm hàng
đổ xuống mặt đường. Tôi choàng tỉnh và vội đứng lên, giúp
anh phu kéo thu dọn. Trời sáng bửng, đă hơn bảy giờ. Các nhà
hàng đều mở cửa. Tôi thử vận may của ḿnh: đi xin việc làm!
Tôi chậm răi đi suốt dọc con phố, quan sát và lượng tính nhà
nào có thể cho ḿnh việc làm. Tôi không dám vào ngay, mới
sáng mai không khéo bị người ta đốt vía. Tôi nhắm một cửa
hàng bán vật liệu xây dựng. Hai chiếc xe ba gác trước cửa,
mấy người đương bốc xi măng và gạch lát nền. Thầm nghĩ, công
việc này tôi làm được!
Chờ đến hơn chín giờ, hai chiếc xe ba gác đi rồi, tôi mới
mạnh dạn bước vào. Một bà to béo phốp pháp đang đếm tiền,
thấy tôi bà liền hỏi:
- Anh mua ǵ đấy? mời anh vào, chỗ tôi toàn hàng tốt cả.
- Dạ thưa! Tôi ngần ngại trước cái nh́n xét nét của bà. Tôi
lấy hết can đảm:
- Dạ không! Thưa bà! Tôi xin bà có việc ǵ cho tôi làm!
Bà liếc xéo, nh́n từ chân lên đầu tôi, như xem xét đánh giá
một món hàng, rồi từ chối:
- Chỗ tôi đủ người làm rồi! Với lại vóc dáng học tṛ như
anh, làm sao kham nổi công việc bốc vác?
- Dạ tôi làm được ạ! Ở quê - tôi làm mọi thứ từ nhổ mạ, gánh
phân, tát nước rồi cày bừa tôi làm được cả mà!
- Đă bảo chỗ tôi đủ người rồi, anh đi đi.
Tôi lủi thủi quay ra, vào tiếp gần chục cửa hàng nữa, nhưng
đều bị từ chối. Tôi thất vọng, lại tự trách ḿnh: giá như
tôi to béo, bặm trợn có khi lại được việc. Xế trưa rồi,
“nắng tháng tám rám trái bưởi” có khác. Trời oi bức và ngột
ngạt, bụng đói cồn cào. Vào quán nước chè, tôi mua hai cái
bánh rán 5 xu. Ăn xong c̣n tḥm thèm, v́ bụng vẫn đói. Ra
ṿi nước máy làm một hơi “ễnh bụng”, thế là xong một bữa!
Tôi ngồi dựa lưng vào cột đèn, ngủ thiếp đi trong cái nắng
trưa. Choàng tỉnh dậy, có lẽ đă sang chiều. Ra ṿi nước rửa
mặt và chỉnh đốn lại “trang phục”. Tôi cầu khấn: Lạy trời,
chiều nay xin được việc làm! Không hiểu sao, tôi nhớ tới quy
luật tuần hoàn: sinh - lăo - bệnh - tử, được vận dụng nhiều
trong việc làm nhà. Vậy ta thử vận may này xem sao! Tôi đi
ngược dăy phố. Nhà đầu tiên tôi đặt cung sinh, đến nhà thứ
năm cung sinh lặp lại. Tôi dừng và quan sát: Đây là một hiệu
thuốc bắc, cơ ngơi khá lớn. Mặt phố hơn tám mét, với hai
pḥng rộng và cái sép nhỏ bên trái đóng kín. Tấm biển hiệu
viết ba chữ nho: “Tế sinh đường”, hàng chữ Việt ở dưới:
“Chuyên xem mạch - kê đơn - bốc thuốc”.
Tôi mạnh dạn bước vào. Cụ già ngoại bảy mươi tuổi, đang chăm
chú ghi chép vào cuốn sổ. Tôi lễ phép thưa:
- Con chào cụ!
Cụ ngước lên nh́n tôi:
- Chào anh! Anh đến xem mạch? Mời anh vào!
Tôi bước hẳn vào trong cửa hàng, ngồi xuống ghế:
- Dạ thưa! Con có việc muốn thưa chuyện…
Cụ dừng tay viết, với ánh mắt thân t́nh.
- Có ǵ anh cứ nói
- Dạ ! Con quê ở Thanh Hóa, hiện nay trong con đói to. Bố
mẹ, vợ con ở nhà khổ lắm. Con ra đây kiếm việc làm, trước
hết là kiếm cơm ăn, sau nữa là kiếm tiền gửi về quê…(Tôi
không dám nói là con địa chủ).
Cụ ái ngại nh́n tôi ra chiều thông cảm.
- Tôi cũng nghe trong Thanh đang đói, nhưng ở đây chẳng việc
ǵ hợp cho anh làm.
Tôi vội vàng tŕnh bày:
- Dạ! việc ǵ con cũng làm được. Ở nhà con lao động quen
rồi, nặng nhọc mấy con cũng kham được.
Từ quầy thuốc gian bên, người phụ nữ đang bốc thuốc bỗng
dừng tay nói:
- Ông à! Hoàn cảnh cậu ấy đáng thương, hay là ông cho cậu ấy
vào làm tạm mấy ngày, thay cho ông Vách nhà bếp về quê chịu
tang bố.
Mừng ơi là mừng! C̣n hơn bắt được vàng. Thế là tôi đă có
việc làm. Bà chủ đưa tôi xuống bếp hướng dẫn tỷ mỷ mọi việc.
Bà xởi lởi:
- Có ǵ chưa rơ cậu cứ hỏi, đây ra chợ Rồng cũng gần và tiện
lắm.
Nhà chỉ có hai ông bà và đứa cháu trai đang học cấp 2. Con
cái cụ đều sinh cơ lập nghiệp ở Hà Nội và Hải Pḥng. Công
việc cũng chẳng có ǵ mệt nhọc, ngoài đi chợ và nấu ba bữa
ăn, giặt giũ quần áo, quét tước dọn dẹp nhà cửa. Nhiều khi
rảnh rỗi, tôi lân la lên cửa hàng xem hai ông bà bốc thuốc,
giúp ông bà các việc lặt vặt. Tôi thấy nhiều nhăn ghi tên
thuốc, dán ở các ô ngăn kéo bị rách và mờ đi nhiều. Tôi nói
với cụ ông:
- Cụ để con viết lại các nhăn thuốc cho rơ.
Cụ tṛn mắt nh́n tôi:
- Tên thuốc bằng chữ nho anh viết được à?
- Vâng! con cũng biết dăm ba chữ do bố con dạy.
Tôi dọc giấy, lấy bút lông viết gần 200 nhăn. Cụ giở sổ đọc
tên các vị thuốc. Cụ nh́n kỹ, kiểm tra xem có viết sai
không. Cụ ngạc nhiên thấy tôi viết đều đúng cả. Việc này khi
ở nhà, tôi đă viết tủ thuốc của bố tôi rồi.
Một hôm, tôi nói với cụ:
- Tấm bảng hiệu nhà ta đă lâu, sơn tróc cả rồi. Cụ mua sơn
về con viết lại cho mới.
Biết tôi viết chữ nho đẹp, cụ đồng ư liền.
- Thế th́ hay quá, mai ta làm.
Sau hai ngày chờ sơn khô, tôi chia khoảng căn hàng, viết ba
chữ nho lớn “TẾ SINH ĐƯỜNG”. Tôi viết ngay ở thềm cửa hàng.
Nhiều người đứng lại xem khá lâu. Ông chủ hiệu tạp hóa bên
kia phố sang xem nói:
- Cậu này viết chữ nho quá đẹp, nét thoáng mạnh mẽ, khí
phách. Hàng chữ Việt vuông thành sắc cạnh, xem rơ ràng. Biển
hiệu phải như thế này mới được.
Ông hỏi ông chủ của tôi, muốn nhờ tôi viết lại biển hiệu nhà
ông. Ông chủ tôi đồng ư liền. Không ngờ, sau biển hiệu của
ông chủ hiệu tạp hóa, có mấy cửa hàng trong phố cũng nhờ tôi
viết biển mới.
Ông chủ thấy tôi có duyên viết quảng cáo liền bảo:
- Anh Mai này! Anh là người có tài, để anh làm bếp núc thật
là phí. Cũng là lúc ông Vách vừa lên. Tôi cho anh mượn gian
xép bên cạnh, mở hiệu quảng cáo mà làm ăn.
Tôi quá mừng, duyên trời cho tôi gặp được người tốt nhân từ.
- Thưa cụ! con cảm tạ tấm ḷng tốt của cụ. Ơn này con ghi
ḷng tạc dạ suốt đời.
- Anh đừng nói vậy! Sông có khúc, người có lúc. Tôi giúp
anh, rồi anh lại giúp người khác. Chúng ta “tích đức phùng
thiện” mà!
Tôi cũng không ngờ, từ một anh xin việc làm thuê; bỗng chốc
thành chủ một cửa hiệu quảng cáo. Nhà cửa mặt bằng không
phải thuê, tôi chỉ mua mấy hộp sơn, mấy cây bút, thước mét,
com pa… là có thể hành nghề.
Ơn trời! Tôi có việc thường xuyên, thu nhập tuy không dư dả,
nhưng cũng có đồng ra đồng vào. Cứ cuối tháng tôi lại lên
tàu về quê; chờ đến khuya tôi mới dám về nhà thăm bố mẹ, vợ
con. Rồi lại đi ngay khi trời chưa sáng. Nhờ thế cuộc sống
gia đ́nh đỡ phần cơ cực.
Nhưng…cuộc đời sao lại có nhữ nhưng kia chứ? Tôi có ngờ đâu
một tai họa sắp giáng xuống đầu tôi…
(C̣n tiếp…)
Nguyễn Quư Phong
CỤ ĐỒ NHO CUỐI CÙNG CỦA LÀNG TÔI (Phần 5 và HẾT)....
Một hôm, tôi đang lúi húi kẻ biển hiệu: “CỬA HÀNG BÁCH HÓA
PHỐ HÀNG NÂU”. Hàng chữ lớn màu đỏ cao 40 phân đă xong, đến
phần kẻ bóng, tôi tỉa tót đậm nhạt từ trong ra ngoài cho nổi
bật hàng chữ chính. Thỉnh thoảng tôi lùi ra xa ngắm nghía để
điều chỉnh cho hợp lư. Tôi bỗng nghe tiếng nói từ phía sau:
- Này các bà! Ai như thằng Mai con lăo Hoan địa chủ ở xóm
Thừa ḱa!
Tôi giật ḿnh quay lại, th́ ra là mấy bà phố chợ Phủ, ra chợ
Rồng cất hàng về bán. Tôi tái mặt, biết không thể trốn nên
vội vàng nói:
- Chào các bà ạ! các bà đi chợ Rồng cất hàng?
- Không dám! Chào anh Mai. Anh dạo này làm ăn khớ nhỉ! Có
hẳn một cửa hiệu kia đấy!
- Dạ đâu có! Tôi chỉ làm thuê cho người ta thôi ạ!
Mấy bà, người lườm kẻ nguưt với ánh mắt lạnh tanh, rồi đi
luôn không một lời nói. Họ không tin lời tôi giải thích, cái
biển hiệu treo ghi rơ: “TOÀN MAI - NHẬN KẺ BIỂN”. Tôi biết
sẽ có điều chẳng lành. Tối hôm đó, tôi nói rơ mọi việc cho
ông bà chủ biết. Hai cụ thông cảm và ái ngại cho tôi lắm.
- Thưa hai cụ! Hoàn cảnh con như vậy, thế nào họ cũng bắt
con về. Chỉ nay mai thôi! Nhờ ơn hai cụ cho con làm, nên bố
mẹ vợ con con cũng đỡ vất vả. Hiện tại con có hơn chín trăm
đồng, con nhờ hai cụ giữ tám trăm. Con có mang cả, họ cũng
tịch thu mất! Tôi biết chắc chẳng có dịp trở lại, gửi hai cụ
chút tiền nhỏ, gọi là sự tri ân của tôi, đáp lại tấm ḷng
nghĩa hiệp của hai cụ.
Đúng như tôi dự đoán, mới chín giờ sáng ngày thứ ba; một tốp
ba người xuất hiện trước cửa hiệu. Tôi nhận ra ông Bằng
trưởng công an xă và hai dân quân làng Mỹ Điện. Ông Bằng
quát lên ra lệnh:
- Anh Mai! Anh bị bắt v́ tội trốn khỏi địa phương! Hai đồng
chí canh chừng, để tôi sang nói chuyện với chủ nhà.
Không biết ông Bằng nói những ǵ, chỉ nghe hai ông bà “dạ”
rồi “vâng” liên tục. Tôi biết chắc, ông ta đem điều nọ luật
kia ra đe dọa chủ nhà, đă “bao che” con cái địa chủ. Rồi ông
ta đi sang bên này ra lệnh:
- Hai đồng chí giải nó về!
Tôi mặc vội chiếc áo cánh và khoác cái túi vải lên vai.
- Thưa các ông, cho tôi chào ông chủ nhà.
Họ ngần ngừ ư không cho, nhưng mặc kệ, tôi chạy sang ông
chủ:
- Con chào cụ. Hai cụ giúp con thu dọn. Cái biển hiệu của
cửa hàng bách hóa con đă làm xong. Họ đến lấy cụ nhận cho
120 đồng!
Hai cụ đứng lặng nh́n tôi, họ cũng không hiểu điều ǵ đang
xẩy ra. Cụ bà quay vội vào trong, kéo vạt áo lau nước mắt.
Họ dong tôi ra ga, lên tàu về quê.
Con tàu chợ ậm ạch như sâu róm ḅ, xuống ga Nghĩa Trang đă
hơn 6 giờ chiều. Lại đi bộ 5 cây số nữa… Trưởng công an Bằng
bực bội cáu gắt:
- V́ mày mà bọn tau vất vả. Quân địa chủ ngoan cố!
Họ tống tôi vào gian kho trụ sở ủy ban, rồi khóa lại.
Từ hôm trốn nhà ra đi, đến nay đă hơn 6 tháng. Đang là cuối
mùa Xuân, trời c̣n lạnh lắm. Tôi lấy cái áo sợi mặc thêm,
nhưng vẫn rét. Bụng đói cồn cào, sáng nay tôi chỉ ăn cái
bánh mỳ lót dạ. Ḷng ngổn ngang trăm mối, không sao nhắm mắt
được.
Cũng là sự may, nhờ đi trốn mà nhà tôi mới qua cơn đói. Tết
vừa rồi tôi sắm cho bố mẹ, vợ con áo quần chu tất. Nh́n các
con mặc áo mới chơi Tết, tôi mát ḷng.
Chín giờ sáng hôm sau, dân quân đưa tôi lên pḥng chủ tịch
xă. Vừa trông thấy tôi, chủ tịch Hương đập bàn quát:
- Tội anh nặng lắm đấy! dám trốn khỏi sự quản lư của địa
phương! Anh biết không?
- Dạ thưa ông con biết! Mong ông đánh chữ đại xá, tha cho
con. Từ nay con không dám thế nữa.
Ông cho dân quân kiểm tra tư trang. Chiếc tủi vải bị lộn ra,
chỉ có hai bộ quần áo, miếng xà pḥng, ba cái kẹp tóc tôi
mua cho vợ và bốn cuốn vở học tṛ cho con. Chủ tịch không
hài ḷng với các thứ nh́n thấy, ông dằn giọng:
- C̣n ǵ trong người bỏ hết ra!
Tôi móc túi lấy ra: một chùm ch́a khóa, chiếc mùi xoa in
hoa, hai tờ giấy biên nhận cho khách hàng và 156 đồng tiền
mặt. Số tiền này bằng 2 tháng lương chủ tịch huyện bấy giờ.
Nh́n thấy tiền, ông chủ tịch tuyên bố chắc nịch như đinh
đóng cột:
- Cho anh 6 đồng, c̣n lại 150 đồng chi vào việc hôm qua ra
bắt anh! Cho anh về, từ nay ra khỏi địa phương phải tŕnh
báo! Nghe chưa?
Được thả, tôi mừng quên cả cái đói. Tôi lếch thếch bước vào
nhà trước sự ngạc nhiên của mọi người. Biết chuyện, bố tôi
bảo:
- Thôi con ạ! C̣n là may không bị giam như bố hồi trước.
Tôi bắt đầu một cuộc sống khác. Làng xóm vào HTX, làm ăn
theo hiệu lệnh của tiếng kẻng. Mọi người hăng say trong
không khí tiến lên CNXH. Cuối vụ, chia thóc theo công điểm,
nhà nào cũng thiếu ăn! Nhưng ḷng yêu nước của dân lên cao
chưa từng có. Tinh thần “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm
lược” là thước đo nhân phẩm. “Thóc không thiếu một cân, quân
không thiếu một người”. Nhiều người tuổi ngoài 30 cũng lần
lượt nhập ngũ. Tôi cũng muốn đi lắm, vừa đỡ miệng ăn, vừa
được thể hiện ḷng yêu nước! Nhưng ai cho con địa chủ vào bộ
đội. Bọn này dễ quay súng phản bội.
Trong làng lực lượng lao động thưa dần, đây là điều thuận
lợi cho tôi. Tôi làm thuê mọi việc, từ đào đất đóng gạch,
cày bừa, rồi dọn vườn, đào ao, đào giếng… họ gọi tôi làm
tất. Tôi c̣n theo các ông thợ nề, thợ cối xay rong ruổi khắp
vùng trong tỉnh.
Sau giải phóng, tôi học mấy anh lính, cũng “ba lô lộn ngược,
nhảy tàu bắc nam”. Tôi vào Huế - Đà Nẵng rồi Sài G̣n, buôn
đủ thứ miễn là có lăi. Chuyến được, chuyến mất…nhưng có c̣n
hơn không.
Đầu những năm 80, sau chiến tranh biên giới; đời sống càng
khó khăn. Ngăn sông cấm chợ khắp nơi. Ấy là lúc: “Đầu đường
đại tá vá xe - Giữa đường trung tá bán chè đậu đen”. Tôi
cùng anh Tuân Tiện, đi Hanoi mua tạp hóa về bán cất ở phố
ta, phố chợ Dầu. Nhiều chuyến bị tài chính, thuế vụ tịch thu
mất trắng. Tôi vào Nam học nấu xà pḥng, chế biến sơn, rồi
in lưới…Nhưng không có vốn liếng, đành chịu!
Như một tấm bọt biển, tôi bị nhồi xuống, hất lên trong bao
cơn sóng gió. Tôi vẫn cố gắng chống chọi, để sống v́ cái gia
đ́nh nhỏ bé của tôi. Trong những ngày ấy có một chuyện làm
tôi không bao giờ quên.
Ấy là thời kỳ tôi theo ông Binh Lại đóng cối xay. Làng ta có
nhiều nghề lắm, ngoài dạy học ra; c̣n có các nghề: thợ rèn,
thợ mộc, thợ xây, thợ bạc, thợ đóng cối xay… Riêng đóng cối
xay có gần chục thợ cả. Nghỉ hết tháng Giêng, các toán thợ
đều lên đường, tung hoành khắp tỉnh. Mỗi toán thợ thường có
hai người, một thợ cả và một thợ phụ. Lần ấy anh thợ phụ của
ông Binh Lại bị ốm, nên tôi mới được thế chân. Thợ phụ gánh
dụng cụ, đồ nghề; công việc cũng đơn giản phụ việc cho thợ
cả. Bí quyết của nghề đóng cối xay là: làm sao chia tám múi
dăm của hai thớt trên - dưới, đều nhau, ăn khớp và phẳng.
Cối xay quay thuận chiều kim đồng hồ, lúa chín đều không bị
vỡ nát. Mỗi cối xay đóng hai ngày xong, ít khi đến ba ngày.
Chủ nuôi cơm rượu, tiền công quy thóc hai mươi cân.
Dọc theo bờ sông Mă, chúng tôi qua các huyện Hoằng Hóa,
Thiệu Hóa, Yên Định, Vĩnh Lộc, Cẩm Thủy…qua Bá Thước rồi lên
Quan Hóa, Mường Lát. Lần đầu tiên tôi đặt chân lên miền núi
cao. Bốn bề là núi rừng, hoang vắng thật là buồn.
Chị chủ nhà tuổi ngoài ba mươi, tiếp đăi thầy tṛ chúng tôi
rất chu đáo. Tôi ngạc nhiên ở giữa núi rừng, sao chị biết
nấu những món ăn vùng xuôi khá ngon. Nhất là món chân gị
nấu giả cầy. Hương thơm của xả, vị chua của mẻ và miếng
giềng ḍn sừn sựt, cay cay; làm tôi không sao quên được món
bún thịt chó ở chợ Rồng Nam Định. Chỉ thiếu vị mắm tôm, nên
không thể bằng món “hàng hiệu” được. Tôi đùa:
- Bà chủ à! Bà đăi thầy tṛ tôi món ngon quê nhà, thật là
tuyệt! Nhưng c̣n thiếu một vị đặc trưng, bà chủ có biết là
ǵ không?
Chị chủ nhà nh́n chúng tôi cười rất tươi, rồi xởi lởi nói:
- Em biết! Có phải là mắm tôm không ạ? Hai bác tính, giữa
vùng núi cao này đào đâu ra mắm tôm? Khi c̣n ở quê có đủ gia
vị, em nấu cầy thật chứ không giả cầy như thế này.
Thật bất ngờ ! khi mới gặp chị, với bước đi nhanh nhẹn, nói
năng lưu loát, tôi băn khoăn tự hỏi: chị này có phải người
dân tộc không? Mặc dù trên người chị là bộ áo quần dân tộc
Mường. Bây giờ th́ đă rơ. Tôi tự nhủ, phải t́m hiểu cho tận
tường.
Ở vùng cao trời tối rất nhanh. Ông Binh Lại hơi qúa chén v́
món giả cầy ngon. Ông vào sạp nằm ngay, đang cần mẫn kéo gỗ.
Bà cụ - mẹ chồng chị ngoại 70 tuổi, cũng đă trùm mền ở góc
cuối nhà sàn. Tôi ngồi bên bếp uống nước, nh́n đứa con gái
10 tuổi của chị ḅ trên sạp, mải mê với cây bút và cuốn vở.
Chị chủ nhà c̣n bận dọn dẹp ở dưới gầm nhà sàn. Tôi lại gần
cháu gái, nó đang vẽ con gà mẹ và mấy chú gà con. Đường nét
nguệch ngoạc thật đáng yêu.
- Cháu vẽ đẹp lắm! Gà mẹ phải xơa cánh ra, để che cho các
con chứ!
- Cháu vẽ măi không được, chú vẽ cho cháu.
Tôi cầm tay hướng dẫn cháu vẽ, đôi cánh gà hiện ra, bao bọc
mấy chú gà con.
Con bé cười to thích thú:
- Chú vẽ đẹp quá! Chú giỏi thât! Cháu vẽ đàn gà để gửi cho
bố.
- Thế bố cháu ở đâu?
- Bố cháu đi bộ đội.
Tôi lật cuốn vở, cháu đang viết dở: “Con ǵ ăn cỏ, đầu có
hai sừng…”
- Cháu học lớp mấy rồi?
- Cháu không đi học, mẹ cháu dạy đấy!
Lại một bất ngờ nữa! Tôi xoay người, chạm vào chị đang ngồi
phía sau, xem hai chú cháu vẽ. Tôi vội dịch chỗ và nh́n chị
- một giọt nước mắt lăn trên g̣ má. Giọng chị nghẹn lại:
- Bác tính, ở nơi hẻo lánh này làm ǵ có trường. Con em mấy
nhà trong bản đều mù chữ cả. Tôi cố gắng dạy cháu biết đọc
biết viết, biết cộng trừ nhân chia thôi.
Chị dục con bé cất vở đi ngủ. Tối ấy, tôi không sao ngủ
được. Phần th́ ông Binh Lại ngáy to quá, phần th́ câu chuyện
dở dang của chị chủ nhà, có cái ǵ ẩn khuất. Tiếng sạp nhà
sàn cọt kẹt, mỗi khi có người cựa. Tiếng con nai tác ngoài
rừng…Gần sáng, tôi chợp đi trong mộng mị.
Ngày hôm sau, tôi như kẻ lơ đăng. Nhiều lúc không tập trung
vào công việc. Ông Binh Lại cứ phải nhắc nhở…
Xong bữa cơm trưa, chị chủ nhà nói với tôi:
- Bác Binh Lại cho em biết, anh là con địa chủ. Em cũng là
con địa chủ đây. Tối nay em kể cho anh nghe. Chị chủ nhà gọi
tôi là anh và xưng em, như anh em thân t́nh lâu ngày gặp
nhau.
Trăng mười sáu sáng quá chừng, chiếu tận gầm nhà sàn. Cái
cối xay vừa hoàn thành khi chiều, hiện rơ mồn một. Mủng lúa
xay thử đầy vun, tôi bốc lên xem: lúa chín đều, hầu như
không có hạt gạo gẫy. Quả là tay nghề ông Binh Lại giỏi.
Tôi ngồi tựa lưng vào cột nhà sàn. Bốn bề vắng lặng, không
khí liêu trai thấm đẫm. Tôi có cảm tưởng ḿnh đang lạc về
thời hoang sơ. Chị chủ nhà ngồi xuống bên cạnh tôi. Im lặng!
Sự im lặng dồn nén, báo hiệu một sự bùng nổ dữ dội! Chị gục
đầu vào vai tôi nức nở. Chị khóc, như chưa bao giờ được
khóc. Nước mắt ướt đầm vai áo tôi. Một lúc sau, chị kéo vạt
áo lau nước mắt…Rồi chị kể cho tôi nghe quăng đời của chị:
- Làng em ở ven đường 13 huyện Nga Sơn. Bố em làm nghề bốc
thuốc, ông bỏ tiền mua chức phó lư, gọi là có danh phận.
Nhưng thực ra, là cơ sở hoạt động của Việt Minh. Sau cách
mạng, ông là bí thư đảng bộ. Hồi CCRĐ ông là chủ tịch xă.
Khi Đội về, ông bị quy lên địa chủ phản động, tay sai của đế
quốc phong kiến. Thế là, ông bị tuyên án tử h́nh. Sau khi
bắn, bố em chưa chết…Họ lấy xẻng đập tiếp vào đầu bố em cho
đến chết. Hai anh trai sợ quá bỏ làng chạy trốn, đến nay em
cũng không biết các anh ở đâu, sống hay chết?. Ở nhà c̣n lại
hai mẹ con em, nửa tháng sau mẹ em chết đói. Đang học lớp 4,
em phải bỏ để đi ăn xin. Theo đường 13, qua Lèn, rồi dọc
theo đê lên Hà Sơn. Khi tới đền cô Bơ ở ngă ba Bông, em lả
đi trước cổng. Ông chủ đ̣ dọc qua đây, lên thắp hương đền cô
Bơ cầu may. Khi ra, thấy em nằm trước cổng. Ông bế em xuống
thuyền. Hai ông bà xoa dầu đánh cảm, rồi đổ cháo cho em. Em
trở thành con ở của ông bà. Em chịu khó làm mọi việc: từ bốc
hàng, xếp chỗ cho khách; đến nấu ăn giặt giũ rồi chèo
thuyền. Hơn một năm, em đă quen luồng lạch từ Hàm Rồng ngược
miền tây Thanh Hóa. Ông chủ đă nhiều lần cưỡng hiếp em, em
không dám chống cự. Một hôm sau khi trả khách, đêm ấy thuyền
về xuôi. Ông chủ lại cưỡng hiếp em, bà chủ bắt được. Bà đánh
em tới tấp, chửi rủa em không tiếc lời. Rồi bà đuổi em lên
bờ trong đêm, bơ vơ giữa rừng. Em vừa khóc, vừa chạy như bị
ma đuổi. Chạy đến con suối, em ngă vật ra mê man bất tỉnh.
Khi tỉnh dậy, em thấy ḿnh nằm trong nhà sàn, bà mế ngồi bên
chăm sóc. Bà cho biết: tối qua con trai bà đi rừng về, thấy
em nằm bên bờ suối liền bế về. Thế là em thành con dâu của
bà. Con gái em 6 tuổi, th́ bố nó đi bộ đội. Anh ấy vào Nam
chiến đấu, đă 4 năm rồi chưa có tin tức ǵ…
Tôi vỗ vỗ vào vai chị chủ nhà, như an ủi một đứa em gái.
Hoàn cảnh chị sao khổ đến thế. Tôi đă khổ, chị ấy c̣n khổ
hơn. Tôi kể cho chị nghe cuộc đời tôi, rồi động viên:
- Ḥa b́nh thống nhất, thế nào anh ấy cũng về. Lúc ấy, hai
vợ chồng về thăm quê, nhớ ghé tôi chơi.
*
* *
Cụ Toàn Mai kể cho tôi nghe những chuyện về cuộc đời cụ. Tôi
biết c̣n nhiều điều cụ chưa kể hết. Nhưng với tôi, như thế
cũng đă quá sức chịu đựng, cho một số phận mỏng manh của một
đời người.
Mừng cho cụ, cuối đời có cuộc sống thanh nhàn. Ngoài việc kê
đơn bốc thuốc, các ngày rằm mồng một hàng tháng; rồi những
dịp lễ hội, cụ ra chùa viết sớ. Nhiều người từ xa đến, nhờ
cụ viết đại tự, hoành phi, câu đối…
Cụ chưa một ngày dạy học, cũng chẳng có học tṛ. Nhưng chỉ
có và chỉ có duy nhất ḿnh tôi, là học tṛ của Thầy Toàn Mai
- CỤ ĐỒ NHO CUỐI CÙNG CỦA LÀNG TÔI.