| |
|
|
Cây
bần ven sông.
Ảnh: DUY KHÔI(Rag Chu) |
-
-
Hình ảnh cây bần trong ca dao
-
-
Ca dao Nam bộ là một bộ
phận có ý nghĩa quan trọng trong ca dao người Việt nói riêng
và Văn học dân gian nói chung. Ca dao thấm nhuần trong tâm
hồn con người bằng cái tình quê dung dị, hiền hòa. Với ngôn
ngữ dân gian của xứ sở “muỗi kêu như sáo thổi, đĩa lềnh tựa
bánh canh”, người dân Nam bộ đã góp nhặt những tiếng nói ân
tình cho tâm hồn người Việt bằng những hình ảnh quen thuộc
mang tính biểu trưng của vùng sông nước Cửu Long.
-
-
Nổi bật ở vùng đồng bằng
châu thổ Cửu Long là sự có mặt của hình ảnh cây bần, một
loại cây rất gần gũi với bà con Nam bộ. Cây bần là loại cây
đặc thù ở vùng đất bồi lắng phù sa này. Cây bần còn gọi là
cây thủy liễu, thường mọc ven các kênh rạch hay xen lẫn
trong những đám lá dừa nước. Là loại cây sống trong môi
trường bùn nước, bần có rễ phụ mọc nhô lên khỏi mặt bùn. Cây
bần có chức năng giữ đất rất tốt, gỗ chủ yếu dùng làm chất
đốt. Hoa bần màu trắng pha chút hồng phấn, rất đẹp, cho trái.
Trái bần có vị chua của phần thịt, chát của phần hạt rất thú
vị. Đây cũng là món ăn “độc quyền” của bà con Nam bộ:
-
- Muốn ăn mắm sặc bần
chua
- Chờ mùa nước nổi ăn
cho đã thèm
-
-
Bà con Nam bộ đã dành cho
cây bần một tâm tình ưu ái.
Trong các câu ca dao, họ mượn hình ảnh cây bần để thổ
lộ tấm lòng của mình với nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau,
từ đó tạo nên nhận thức thẩm mỹ khá mới lạ về loài cây này.
-
-
Xuất phát từ cái tên nghe
quá đói khổ- “bần” mà người Nam bộ đã đặt câu đố về nó:
-
- Giống chi toàn là
giống đực
- Thiếu tứ bề cam cực
chung thân ?
-
-
Từ kiếp bình sinh “thiếu tứ
bề” ấy mà tác giả bình dân đã mượn trái bần để nói lên số
phận hẩm hiu của người phụ nữ:
-
-
Thân em như trái bần trôi
-
Sóng dập gió dồi biết tắp
vào đâu?
-
-
Hình ảnh “sóng dập gió dồi”
thật hay vì cây bần cho trái chín vào mùa nước nổi. Vì vậy
nước tràn ngập lung bàu làm cho trái bần trôi dạt theo dòng
nước mà không biết sẽ về đâu.
-
-
Là thế đấy, cây bần mang số
kiếp thật hẩm hiu, bị phũ phàng:
-
- Cây bần kia hỡi cây
bần
- Lá xanh bông trắng
lại gần không thơm
-
-
Nhiều lúc cây bần trở nên
mạt hạn, tầm thường trong thể hiện của người bình dân:
-
- Cảm thương ô dước,
bời lời
- Cha sao mẹ sến, dựa
nơi gốc bần
-
-
Cây bần còn là cái để người
ta so sánh sự sang hèn:
-
- Không thương em
hổng có cần
- Trầm hương khó kiếm
chớ đước, bần thiếu chi
-
-
Tuy nhiên, người Nam bộ
không chỉ nhìn cây bần dưới con mắt bi quan như thế. Bằng
cái nhìn hào sảng và lối sống phóng khoáng, lạc quan, cây
bần còn là điểm tựa cho tình yêu đôi lứa:
-
- Làm thơ anh dán đọt
bần
- Dán cho hai họ
Nguyễn Trần gặp nhau
-
-
Hy vọng để rồi khi tình
duyên bị ngăn trở, bần lại là nơi cha mẹ phạt vạ con cái:
-
- Phụ mẫu đánh anh
quặt quà quặt quại,
- Đem anh treo tại
nhánh bần
- Rũi đứt dây mà rớt
xuống,
- Anh cũng lần mò
kiếm em.
-
-
Cái tình của người dân Nam
bộ là thế, yêu “xả láng”, đánh chết cũng thương. Cây bần còn
là biểu vật của sự nhớ thương, là mật hiệu của tình yêu:
-
- Chiều chiều xuống
bến ba lần
- Trông em không thấy
thấy bần xơ rơ
-
-
Hay
-
- Lẻ đôi em chịu lẻ
đôi
- Hoa tàn em cũng đợi,
bần trôi em cũng chờ
-
-
Nhưng nhiều lúc những cô
Hai, anh Sáu lại nghi ngại, đặt vấn đề về chuyện cưới xin:
-
- Neo ghe vô dựa gốc
bần
- Em thương anh nói
vậy
- Chớ biết mình đặng
gần hay không
-
-
Hay khi đã không thành
duyên nợ thì:
-
- Bần gie, bần liệt,
diệc đau chờ mồi
- Anh với em duyên nợ
hết rồi
- Đi tìm chỗ khác
đừng ngồi kế em
-
-
Không chỉ vu vơ trách móc
thế thôi, với cách nói như tát nước, người Nam bộ cũng mắng
nhiếc:
-
- Mồ cha thằng đốn
cây bần
- Không cho ghe cá
đậu gần ghe tôm
-
-
Nhưng đôi lúc cũng cảm
thông:
-
- Bần gie đóm đậu
sáng ngời
- Lỡ duyên tại bậu
trách trời sao nên
-
-
Dựa vào trường liên tưởng
sự vật, người dân Nam bộ đã thổi vào cây bần một luồng sinh
khí có sức sống đến kỳ lạ, nó hiển hiện dạt dào trong lòng
người đọc tạo nên giá trị biểu đạt phong phú. Từ đó nó tạo
nên cảm hứng thẩm mỹ cho người thưởng thức.
-
-
Ngày nay, cây bần vẫn còn
chiếm vị trí khá lớn bên dòng sông nước Nam bộ. Nó có một ý
nghĩa lớn trong tâm hồn của người dân nơi đây. Trải bao
thăng trầm của thiên nhiên, nhu cầu kinh tế, và cả tác động
của con người, cây bần vẫn sừng sững trong tâm thức của
người dân, gợi nhớ về một thời khai hoang vùng đất “vượn hú
chim kêu” của ông cha - giúp chúng ta hiểu thêm về nền văn
minh miệt vườn, nền văn hóa sông nước trù phú và ngọt ngào
như lời ru từ lòng mẹ, để chúng ta sẽ thấy mình có trách
nhiệm hơn với quê hương.
Đặng Duy Khôi |
|
|