Nguồn gốc tiền An
Pháp Nguyên Bảo
Lục Đức Thuận
Copyrights by the
Author and VietAntique.com
" Mạc thị sở chú tiểu gián hữu Thái B́nh An
Pháp đẳng tự lưu nhập Thuận Hoá ", ( Họ Mạc
đúc tiền gián nhỏ có chữ Thái B́nh An Pháp được
lưu hành vào hạt Thuận Hóa) , lời ghi chú duy
nhất về tiền An Pháp của Lê Qúy Đôn trong sách
Phủ Biên Tạp Lục đă gây ra nhiều tranh luận về
nguồn gốc của đồng tiền. Có ư kiến cho rằng tiền
An Pháp do Mạc Thiên Tứ đúc, ư khác lại cho
người đúc là con cháu của Mạc Đăng Dung và c̣n
có giả thuyết muốn gán ghép nguồn gốc của đồng
tiền vào thời vua Lê Lợi kháng chiến chống giặc
Minh. Tóm lại chúng ta có thể phiền trách người
xưa sao quá keo kiệt, không ghi thêm vài chữ họ
tên cho con cháu ngày nay ít hao tốn công sức
tranh luận với nhau.
Từ xưa, sự kiện lịch
sử không có sử liệu minh bạch có thể được giải
thích theo cách nào cũng được, nhưng phải có
những luận cứ kèm theo để hổ trợ cho đường hướng
đó. Công luận sẽ dựa trên những luận cứ mà suy
xét sự hữu lư của đường lối giăi thích. Có thể
một quan điễm xưa sẽ bị đánh đổ bởi một quan
điễm mới một khi người ta dựa vào những khám phá
cận đại hơn. Người ta đă chẳng từng cho trái đất
h́nh vuông là ǵ? Nhân dịp gần đây, vài di vật
khảo cổ được t́m thấy trong khi đào móng xây
dựng cửa hàng Bách Hóa của phố Tràng Tiền ở Hà
Nội, tôi mạn phép đề cập lại nguồn gốc của đồng
tiền An Pháp, tóm luận những giăi thích từ ngày
xưa đến nay và chia xẻ cùng độc giả vài nhận xét
thô thiển về vấn đề này.
VUA
lê lợI đúc trong thờI gian kháng chiến giặc minh
Trước hết tiền An Pháp được một
số cổ tiền gia xếp loại vào khoảng thời gian
cuối triều Trần và trước triều Hậu Lê. Đó là
khoảng thời gian mà vua Lê Lợi phất cờ khởi
nghĩa đánh đuổi quân Minh sau mười năm kháng
chiến gian truân. Luận cứ này đă được phần lớn
các cổ tiền gia Tây Phương ủng hộ. Vào cuối thế
kỷ 19, Edward Toda đă cho rằng tiền An Pháp do
vua Lê Lợi đúc, cùng với những đồng Chính Pháp
nguyên bảo, Trị Thánh nguyên bảo, Trị Thánh b́nh
bảo, Thái Pháp b́nh bảo và Thánh Quan thông bảo.
(1) Toda không cung cấp luận cứ nào cho
cách xếp loại của ông. Năm 1900, cùng ư kiến với
Toda, Lacroix Désiré c̣n đưa thêm đồng Trị Pháp
b́nh bảo vào thời gian này. Luận cứ của ông cho
rằng, tiền đúc trong những giai đoạn kháng chiến
thường nhỏ và có những chữ B̀NH, chữ PHÁP trong
giai đoạn khởi nghĩa và chữ THÁNH khi sắp thành
công. (2) Luận cứ này khá phong phú,
nhưng không thấy Lacroix giăi thích v́ sao về
những loại tiền nhỏ khác cũng có chữ B́nh, Pháp,
Thánh như Tường Thánh, Tường Pháp, Thiên
Thánh....lại không được ông xếp loại như trên.
Francois Thierry, cổ tiền gia
đương thời, dè dặt hơn cho rằng có nhiều loại
tiền An Pháp và vài dạng có thể được xếp loại
vào thời gian sau Trần trước Hậu Lê nhưng không
xác định là do ai đúc. Luận cứ của ông ta rằng,
-
chữ
Nguyên viết triện trong tiền cổ Việt Nam xuất
hiện đầu tiên từ tiền Nguyên Phong, Thiệu Phong
đời Trần. (3) Do đó, An Pháp không thể
được đúc trước những tiền này.
-
Theo
lời Đinh Phúc Bảo, dẫn theo Đại Việt Sử Kư,
Nguyễn Bổ làm loạn vào cuối Trần (1391-1392)
xưng vương với niên hiệu Hi Nguyên. Francois
Thierry cung cấp chi tiết Nguyễn Bổ xưng vương
được ba năm từ 1379 đến 1382 (4) . Tiền
Hi Nguyên được Đinh Phúc Bảo, Toda, Lacroix
Desire, Miura Gosen và Thierry xếp vào cuối Trần
1392 do Nguyễn Bổ đúc.
Toda, Miura và Lacroix chỉ nói
về Nguyễn Bổ nhưng không dẫn chứng tài liệu từ
đâu. Đinh Phúc Bảo, theo Thierry, dẫn chứng từ
Đại Việt Sử Kư về Nguyễn Bổ với niên hiệu Hi
Nguyên.
Từ suy luận tiền Hi Nguyên do
Nguyễn Bổ với niên hiệu Hi Nguyên, các tác giả
có lư do xếp một loạt những đồng có chữ Nguyên
viết triện theo kiểu tiền Hi Nguyên vào cuối
thời Trần trước Hậu Lê như Thiên Thánh nguyên
bảo do Phạm Sư Ôn đúc (?), Thiên Phù nguyên bảo,
Tường Nguyên thông bảo, rồi những loại tiền có
chữ Thánh, B́nh, Pháp vào thời gian kháng chiến
để giải phóng tổ quốc (5). Chỉ có họ Đinh
xếp tiền An Pháp vào thời Mạc Thiên Tứ. Lư do
xếp đặt này có đứng vững hay không, tôi xin đào
sâu thêm để t́m hiểu.
Đối với cách xếp loại này,
tôi xin đưa ra một vài nhận xét mà tôi đă thu
thập được.
1.
Ba bộ chính sử của Việt Nam là Đại Việt
Sử Kư Toàn Thư, Khâm Định Việt Sử Thông Giám
Cương Mục và Đại Việt Sử Kư Tiền Biên, cũng như
Việt sử Tiêu Án hoàn toàn không nói đến Nguyễn
Bổ có niên hiệu Hi Nguyên. Chính sử chỉ ghi rằng
Nguyễn Bổ làm loạn, bị giết chết vào tháng 8 năm
1379. Không biết Đại Việt Sử Kư nào đă nói đến
niên hiệu Hi Nguyên của Nguyễn Bổ, cũng như
Nguyễn Bổ xưng vương trong ba năm ? (6)
2.
Các tiền Thiệu Phong, Đại Trị , Đại Định
chính thống của nhà Trần chỉ trước đó một thời
gian ngắn, cũng như những đồng Thiên Khánh,
Thuận Thiên nguyên bảo sau đó vài năm th́ ngày
nay lại tương đối ít thấy. Trong khi các thứ
tiền Thiên Thánh, An Pháp, Tường Phù, Hi
Nguyên...do phản loạn đúc trong vài năm hay vua
Lê Lợi đúc th́ hằng ngày có thể t́m thấy trên
thị trường tiền cổ. Ở Việt Nam, nắm một nắm tiền
cổ trong tay từ những nơi mua bán, tôi chắc chắn
sẽ t́m thấy một đồng An Pháp, Thiên Thánh hoặc
Tường Phù.
3.
Đọc lại trang sử mười năm kháng chiến
gian khổ của vua Lê Lợi, ' tháng 2, 1418, vua
hết lương, không c̣n ǵ nổi lửa ... tháng 12,
1422, quân lính hết lương, hơn 2 tháng, chỉ ăn
rau củ và măng tre mà thôi, vua giết 4 con voi
và cả ngựa của ḿnh cưỡi để nuôi quân sĩ ...
tháng 1,1425 vua mang quân đến Nghệ An...bấy giờ
quân lính đă ba ngày chưa được ăn ', (7)
tôi thắc mắc với cuộc chiến nguy hiễm và khó
nhọc, làm sao vua Lê Lợi có thể đúc qúa nhiều
thứ tiền với số lượng lớn c̣n lưu lại đến ngày
nay như thế ?
4.
T́nh trạng thiếu đồng, thiếu tiền ngay
sau khi vua Lê LợI lên ngôi đă được Phan huy Chú
nói rơ trong Lịch triều hiến chương loại chí "
Năm thứ 2 sai các quan trong ngoài hội bàn
phép tiền. Tờ chiếu nói: Tiền là huyết mạch của
dân, không thể không có. Nước ta vốn có mỏ đồng,
nhưng đă bị rợ Hồ tiêu hủy, trăm phần chỉ c̣n có
một. Nay dùng vào việc quân việc nước thường bị
thiếu thốn; thế mà muốn cho có đủ tiền để tiêu
dùng lưu thông, thuận tiện cho dân th́ chẳng khó
lắm sao? ". (8). Ông c̣n bàn
rộng: " Xét hồi đầu nhà Lê mới khai sáng, khi
bị quân Minh chiếm cứ, sản vật dưới đất bị mất
cả, đồ dùng của dân đều thiếu thốn, nên bây giờ
lo làm sao cho có đủ dùng, mới bàn đến việc
tiền, muốn đúc thêm ra th́ khổ nỗi không có
đồng, muốn dùng tiền giấy th́ lại sợ khó tiêu.."
(9)
5.
So sánh các đồng tiền mà Toda và Lacroix
cho rằng vua Lê Lợi đúc với những đồng Thiên
Khánh và Thuận Thiên nguyên bảo mà sử sách đă
ghi vua đúc chỉ trong ṿng 5 năm sau đó, tôi
không thấy thư pháp, kim loại của những tiền này
tương tự các đồng An Pháp, Thiên Thánh.. ǵ cả.
6.
V́ sao Lê Qúy Đôn không nói đến thứ tiền
An Pháp của vua khai tổ nhà Hậu Lê là triều đại
ông đang phục vụ, mà lại viết về tiền An Pháp
của Mạc thị, nếu vua Lê Lợi thật sự đă đúc tiền
An Pháp ?
Nhà mạc ở cao bằng đú
Kế đó là tiền An Pháp c̣n được Thierry xếp loại
vào thời con cháu nhà Mạc ở Cao Bằng đúc trong
thời gian chiến tranh với nhà Trịnh. Thierry đă
có một mẫu tiền An Pháp với nét chấm cuối của bộ
Thủy của chữ Pháp đá lên không cao và cho rằng
mẫu tiền này có thể do nhà Mạc ở Cao Bằng đúc
(10) . Hầu hết các đồng An Pháp t́m thấy đều
có đặc tính nét chấm cuối đá lên thật cao. Li
Tana cũng cho rằng có thể một số tiền An Pháp
của nhà Mạc ở Cao Bằng đúc được lưu hành ở Đàng
Trong trong những ngày đầu thời chúa Nguyễn.
(11)
Luận cứ cho
cách xếp loại này dựa vào sách Phủ Biên Tạp
Lục của Lê Qúy Đôn dẫn bởi câu đầu tiên
trong bài viết này. Sách Phủ Biên Tạp Lục thuật
chuyện chúa Trịnh, chúa Nguyễn trong triều Hậu
Lê nên bàn đến chuyện con cháu Mạc Đăng Dung
cũng như nói đến chuyện Mạc Cửu, Mạc Thiên Tứ
được chúa Nguyễn cho dung thân ở đất Hà Tiên.
Nếu chú ư đến nguyên bản chữ Hán th́ độc giả
nhận rơ Lê Qúy Đôn viết hai chữ Mạc khác nhau để
phân biệt hai ḍng họ trên. Chữ Mạc, khi viết về
Mạc Đăng Dung, Lê Qúy Đôn dùng chữ Mạc thông
dụng; trong khi chữ Mạc viết về Mạc Cữu được
viết với dạng đặc biệt. Theo giáo sư Trần Kính
Ḥa trong bài Họ Mạc và chúa Nguyễn ở Hà Tiên
đăng trong tạp chí Văn Hóa Á Châu, họ Mạc chỉ có
một chữ viết, nhưng v́ để phân biệt họ Mạc chiếm
ngôi vua, Lê Qúy Đôn đă thêm bộ Ấp vào bên phải
của chữ Mạc mà dùng cho Mạc Cữu, để tránh lầm
lẩn và phân biệt họ Mạc tốt với họ Mạc làm
chuyện soán nghịch. Lê Qúy Đôn đă dùng chữ Mạc
theo lối Mạc Cữu trong câu Mạc thị....
Một vài nhận xét của tôi về cách
xếp loại An Pháp vào nhà Mạc ở Cao Bằng:
1.
Tiền An Pháp với bộ Thủy của chữ Pháp có
nét đá thật cao xuất hiện qúa nhiều,nhất là ở
Nam Bắc. Chắc hẳn độc giả đều đồng ư rằng không
thể nào nhà Mạc đúc tiền này với số lượng lớn
như thế, trong thời gian dung thân trên mảnh đất
nhỏ bé ở Cao Bằng.
2.
Tiền An Pháp của nhà Mạc ở Cao Bằng có
thể lưu lạc vào xứ Đàng Trong khi con cháu họ
Mạc chạy vào Thuận Hóa xin chúa Nguyễn cho chỗ
dung thân, khi Cao Bằng thất thủ vào tay chúa
Trịnh trong năm 1625. Và chắc hẳn tiền này không
có nhiều, bởi nhà Mạc chỉ dung thân trong vùng
đất Cao Bằng hạn hẹp.
Mạc
thiên tứ ở hà tiên đúc
Phải hỏi rằng Đinh Phúc Bảo đă không chú ư đến
hai dạng chữ Mạc khác nhau hay sao, nên tác giả
đă xếp loại tiền An Pháp vào thời Mạc Thiên Tứ,
con của Mạc Cửu, Đô đốc trấn Hà Tiên. Đinh Phúc
Bảo cũng không tŕnh bày luận cứ cho cách xếp
loại của ông.
Một số người nghiên cứu về tiền
cổ đương thời như Tạ Chí Đại Trường trong bài
Tiền đúc ở Đàng Trong: phương diện, loại h́nh và
tương quan lịch sử nhiều lần nhắc đến tiền
An Pháp và mặc nhiên xem như Mạc Thiên Tứ đă đúc
tiền này. Nguyên văn của tác giả viết " Lê
Qúy Đôn nói Mạc Thiên Tứ đúc Thái B́nh, An Pháp"
(12) , hoặc " Tiền An Pháp
được các nhà cổ tiền học viện dẫn tiêu biểu cho
thứ "An Nam đúc" chứng tỏ số lượng tiền đúc ra
rất lớn. Nói cách khác, sự phồn thịnh, tầm mức
giao thương rộng răi của Hà Tiên chứng tỏ nơi
đồng An Pháp. Lê Qúy Đôn đă chứng kiến việc tiền
An Pháp theo thuyền buôn chạy cả vào Thuận Hóa.
Tiền An Pháp thấy rộng răi ở Miền Bắc hẳn cũng
có lư do v́ số lượng lớn. An Pháp nguyên bảo là
tiền của Hà Tiên"(13) . Theo
tôi hiểu, ư của tác giả nói rằng Hà Tiên phát
triển mạnh, Thiên Tứ đúc An Pháp rất nhiều, đến
nổi khi nói đến tiền An Pháp th́ cổ tiền gia
phải ghi "An Nam đúc" (14) , số lượng An
Pháp quá nhiều nên tiền chạy ngược lên miền Bắc
để rồi lại chạy xuôi vào Thuận Hoá.
Cũng theo kiểu luận
cứ "mặc nhiên công nhận", Nguyễn Anh Huy trong
bài Những phát hiện mới về Họ Mạc đúc tiền
nhận là đă truy lục từ nhiều thư tịch cổ và
cho rằng "Sau rất nhiều năm t́m hiểu, chúng
tôi đă có đủ các chứng cứ để khẳng định tiền An
Pháp nguyên bảo là do Mạc Thiên Tứ đúc tại Hà
Tiên"(15) . Tuy nhiên suốt
trong bài, tôi không thấy tác giả tŕnh bày
những chứng cứ nào cả. Tác giả c̣n ghép 42 thứ
tiền khác vào danh sách tiền do Mạc Thiên Tứ
đúc.
Không hiểu nguyên
nhân chính của việc xếp loại tiền An Pháp vào
đời Mạc Thiên Tứ là do sự hiểu lầm câu viết của
Lê Qúy Đôn hay chăng, khi không có bản nguyên
văn chữ Hán của Phủ Biên Tạp Lục ? Gần đây sách
của Li Tana được dịch sang tiếng Việt với tên
Xứ Đàng Trong, lịch sử kinh tế - xă hội Việt Nam
thế kỷ 17 và 18 do nhà xuất bản Trẻ vào năm
1999, nhưng không hiểu v́ lư do ǵ mà các tiểu
chú ở cuối trang sách trong chương Tiền Tệ và
Thương Măi lại không đầy đủ như trong nguyên
bản Anh ngữ của Đại Học Cornell xuất bản năm
1998, cho nên tiểu chú về cách viết hai chữ Mạc
khác nhau đă không được in trong bản dịch tiếng
Việt, khiến vấn đề Mạc thị .. vẫn chưa
được sáng tỏ với một số nhà khảo cứu tiền cổ
Việt Nam?
Tôi xin tŕnh bày vài nhận xét về cách phân loại
tiền An Pháp vào thời Mạc Thiên Tứ:
1.
Chắc chắn rằng câu viết của Lê Qúy Đôn đă
nói về nhà Mạc ở Cao Bằng dựa trên sự khác biệt
của hai chữ Mạc viết bằng Hán Văn.
2.
Trong những di chỉ khảo cổ t́m thấy ở
miền Bắc ngày nay vẫn thường xuyên có thứ tiền
An Pháp "đá lên cao" này. Và tiền An Pháp được
t́m thấy nhiều ở miền Bắc hơn miền Nam.
3.
So với Đàng Ngoài và Đàng Trong vào thế
kỷ 17, Hà Tiên là một nơi phụ thứ đang khai phá
trong miền Nam. Do đó tôi vẫn không t́m được câu
giăi đáp v́ sao An Pháp do Mạc Cữu đúc lại nhiều
đến nổi lan tràn ở miền Bắc để rồi xuôi ḍng
xuống Thuận Hóa ?
k
Nhân dịp đọc bản tin
về việc đào nền móng cũ tại phố Tràng Tiền ở Hà
NộI để xây dựng cửa hàng Bách Hoá Tổng Hợp vào
đầu tháng 5 năm 2000 trong báo Giáo Dục và Thời
Đại và t́m thấy di chỉ khảo cổ cùng các đồng
tiền An Pháp dưới ḷng đất; tôi xin tổng hợp
những ǵ về tiền An Pháp, xưa và nay, cổ tiền
nói riêng và khảo cổ nói chung để tŕnh bày một
trong những khúc mắc trong ngành cổ tiền học
Việt Nam với độc giả, hầu chúng ta t́m được một
giăi đáp thích hợp.
Bản tin cho biết ngành Văn Hóa Hà Nội cho ngừng
công tŕnh xây dựng và cho đào một hố lớn với
diện tích 115 mét vuông gần góc ngă tư Tràng
Tiền và phố hàng Bài vào ngày 19-5 và sau đó
thêm hai hố nhỏ nâng diện tích khai quật lên 175
mét vuông. Hố một có tầng văn hóa thứ nhất sau
mặt đất 0.5m chứa di vật thời Nguyễn và hiện
đại. Tầng thứ hai ở độ sâu 0,5m - 1,3 m có di
vật gốm men Trung Quốc và Việt Nam (Bát Tràng,
Phố Hiến) chủ yếu là thế kỷ 17-19, c̣n có sứ
Nhật Bản và 3 mảnh bát vẽ lam của nhà Mạc. Tầng
thứ ba với độ sâu 1,3m -3,6 m cũng có đồ gốm
Việt, Trung Quốc, Nhật vào thế kỷ 17 cùng mấy
đồng tiền An Pháp của nhà Mạc từ thế kỷ 15...
Tuy nhiên sau khi
tiếp xúc với giáo sư Đỗ văn Ninh, Viện Nghiên
Cứu Sử Học, Hà Nội, người đă giúp định danh
những đồng tiền cổ rỉ sét ở hố số một là tiền An
Pháp, tôi được giáo sư cho biết đó là những đồng
An Pháp loại bộ Thủy có nét đá lên cao. Ông Ninh
cũng cho biết những tầng văn hóa trên không phân
biệt rơ ràng và các di vật có thời đại lẩn lộn,
không thứ tự. Tuy những tiền An Pháp t́m được
không có đặc điểm ǵ, nhưng đă nói lên một hiện
tượng thường thấy ở miền Bắc là tiền An Pháp lưu
hành rộng răi ở đất Bắc Hà xưa kia. Giáo sư Ninh
cũng xác nhận rằng tiền An Pháp rất thường được
t́m thấy trên đất Bắc.
Ngày nay, hai miền Nam Bắc thống nhất, chúng ta
biết rơ hơn về thực trạng của tiền An Pháp qua
nhiều cuộc khai quật trên cả hai miền. Tiền An
Pháp có nguồn gốc từ đâu ? Giả thuyết vua Lê Lợi
đúc không có chứng cớ nào, lại dựa vào một giả
thuyết gán ghép khác từ nguồn gốc tiền Hi Ninh
và chữ Nguyên giống nhau khiến cho giả thuyết
vua Lê LợI không có luận cứ vững vàng. Giả
thuyết về họ Mạc vững chắc hơn nhờ vào sách Phủ
Biên Tạp Lục. Vả lại, hai họ Mạc, Cao Bằng và Hà
Tiên, thời gian họ sống cũng không xa nhau lắm
và chỉ trong ṿng một thế kỷ. Ngoài ra hai họ
Mạc c̣n có những liên hệ qua chúa Nguyễn như nhà
Mạc Cao Bằng về sau chạy vào Đàng Trong t́m chỗ
dung thân và chúa Nguyễn cho phép Mạc Thiên Tứ
đúc tiền trên lảnh thổ của ḿnh. Tuy nhiên, nói
rằng chỉ có Mạc Thiên Tứ đúc tiền An Pháp th́
không đúng với lư lẻ ở trên. Và kết luận rằng
chỉ có nhà Mạc ở Cao Bằng đúc th́ cũng không
đúng v́ số lượng tràn ngập của tiền. Ngoài ra,
vào khoảng thời gian này của thế kỷ 17, dân
chúng xứ Đàng Trong cũng được phép đúc tiền
riêng đến nổi gây ra loạn tiền kẽm. Phải chăng
đây là một nguồn đúc khác của tiền An Pháp ? Có
thể hay không tiền An Pháp được con cháu nhà Mạc
ở Cao Bằng đúc trước, rồi sau này Mạc Thiên Tứ
đúc theo mẫu tiền nhà Mạc ? Thêm vào đó, dân
Đàng Trong có thể tự đúc lấy ? Điều khó nhất là
làm sao giải thích được hiện tượng tiền An Pháp
có nhiều trên miền Bắc ? Tuy nhiên dù có cùng
đặc điểm chấm cuối bộ Thủy đá cao, nhưng tiền An
Pháp cũng có nhiều mẫu với chi tiết và trọng
lượng rất khác nhau. Đây có phải là điễm quan
yếu mà chúng ta cần nghĩ về tiền An Pháp có thể
do nhiều nguồn đúc khác nhau, từ thời Lê Trung
Hưng trở lại ?
Tài liệu trích đăng: