|
Lễ hội Làng Đăm
Làng Đăm nay là xă Tây Tựu, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Tây Tựu trước kia thuộc
phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông. Đây là một làng cổ có truyền thống văn hoá và sản
xuất từ lâu đời . “Bơi Đăm, rước Giá, hội Thầy" hay “ Làng La canh cửi, làng Đăm
đua thuyền" là những câu ca dao quen thuộc vang đến tận kinh thành Thăng Long
xưa.
Từ Cầu Giấy, theo đường Hà Nội - Sơn Tây, đến Nhổn rẽ tay phải, chỉ đi vài cây
số là tới làng Đăm. Vào mùa xuân khi đến dịp hội làng, từ đằng xa du khách đă có
thể nhận biết bằng màu sắc của cờ hội nổi bật trên một thảm xanh của những ruộng
rau, dưa đủ các loại đang độ kết trái đợi mùa thu hoạch. Rau và dưa Tây Tựu đă
quá quen thuộc với đất Hà Thành .
- Hoa Làng Đăm
Hội làng Đăm
diễn ra trong ba ngày, từ mồng 9 đến l l tháng ba âm lịch. Xưa kia
hội kéo dài tới năm ngày và cứ năm năm mới tổ chức đua thuyền, bởi để chuẩn bị
cho một cuộc đua đ̣i hỏi sự tốn kém không ít thời gian, tiền của và sức lực con
người. Theo các cụ già cao tuổi cho biết hội được tổ chức lần cuối vào năm 1940.
Kể từ đó không mở hội nhưng đội thuyền đua làng Đăm vẫn luôn được mời về dự đua
trong những dịp lễ hội lớn của đất nước tại hồ Thuyền Quang, hồ Gươm, hồ Bảy Mẫu.
Khoảng những năm 1972- 1973 làng có tổ chức bởi nhân đón Quốc trưởng Cămpuchia
sang thăm nước ta, những cuộc đua đó chưa phải là hội. Những năm gần đây xu thế
khôi phục dần dần những truyền thống xưa đang được chú ư. Bằng chứng là sau 54
năm, năm 1994, hội được tổ chức lại một cách công phu và trang trọng .
Theo sách Làng xă ngoại thành Hà Nội th́ Tây Tựu xưa vốn gọi là Tây Đàm, v́
kiêng tên huư vua Lê Thế Tông (1573 - 1600) nên đổi gọi là Tây Đăm; đến nhà
Nguyễn, v́ kiêng quốc huư đổi gọi là Tây Tựu cũng là tên một trong 13 tổng thuộc
phủ Hoài Đức cũ. Tổng Tây Tựu gồm bảy xă, nay thuộc đất Tây Tựu, huyện Từ Liêm
và Tân Hội huyện Đan Phượng (Hà Tây). Phía bắc Tây Tựu giáp hai xă Liên Mạc và
Thượng Cát, phía đông và đông nam giáp hai xă Phú Minh và Xuân Phương, phía tây
giáp xă Tân Lập huyện
Đan Phượng và xă Dị Trạch huyện Hoài Đức.
Tây Tựu gồm ba thôn là thôn Thượng hay c̣n gọi là miền Thượng, thôn Trung hay
gọi là miền Trung và thôn Hạ c̣n gọi là miền Hạ. Hàng năm, vào dịp hội ba miền
cùng nhau tổ chức hội và thi bơi thuyền.
Những di tích liên quan đến hội c̣n lại cho đến nay chủ yếu nằm xung quanh đ́nh
và đoạn sông, nơi diễn ra cuộc đua thuyền. Đ́nh làng Đăm thờ đức thánh Tam Giang,
dân gian gọi là Bạch Hạc Tam Giang. Vào ngày hội trong đ́nh có đặt ba cỗ ngai.
Một cỗ trong hậu cung, lớn và được "mặc" áo trắng. Ngai thứ hai tiếp theo ngai ở
hậu cung, được đặt ở gian giữa đ́nh, nhưng chỗ đó lại thấp hẳn xuống so với hai
bên theo chiều dọc của đ́nh. Ngai thứ ba được đặt ở ngoài cùng và là ngai để:
ước ra ngự ngoài thuỷ tạ lúc thi bơi thuyền. Cả hai ngai thứ hai và thứ ba đều
được “mặc" áo vàng. Đ́nh bị hư hỏng nhiều, không có ǵ đặc biệt và đang được tu
sửa dần dần.
Ngay cửa giữa của đ́nh nh́n thẳng ra là liên tiếp hai nhà thuỷ đ́nh cách nhau
khoảng bảy tám mét, được gọi chính ngự trong và chính ngự ngoài. Vào những ngày
hội, kiệu của đức Thánh rước về được đặt ở chính ngự ngoài, c̣n chính ngự trong
là nơi diễn ra các cuộc tế lễ và sau đó là điểm xuất phát để rước ngai Thánh ra
ngự xem bơi.
Bên trái và bên phải khoảng trống giữa chính ngự trong và chính ngự ngoài c̣n có
hai nhà thuỷ đ́nh nhỏ khác. Cạnh hai nhà thuỷ đ́nh ấy là những dăy nhà dài được
gọi là dăy muống. Phía bên phải nh́n từ cửa đ́nh ra có hai dăy muống, c̣n phía
bên trái chỉ có một dăy, cạnh dăy đó là Từ Vũ. Trong Từ Vũ có đặt một bia đá
h́nh trụ, bên cạnh bia là hai ông phỗng ngồi canh bia.
Thuỷ tạ được xây dựng trên bờ sông vươn ra mặt nước. Nó chia thành ba phần rơ
rệt. Phần trung tâm là nơi ngự giá của kiệu Thánh, bên trái là chiếu dành cho
các bô lăo cao tuổi và trong hội đồng tế lễ, bên phải dành cho quan khách. Tất
cả nh́n ra hướng mặt sông. Đây là một nhánh của sông Nhuệ mà vốn xưa kia các cụ
già nói rằng nó nối sông Hồng từ Gối xuống với sông Nhuệ, nhưng nay đă bị cắt
nên c̣n gọi là đầm Đăm. Khúc sông dài khoảng 1000m và cuộc đua thuyền diễn ra
tại đó, với vị trí xuất phát là nhà thuỷ tạ và điểm cuối cùng là đoạn sông trước
cửa miếu thờ đức
Thánh Tam Giang. Gọi là miếu nhưng đây thực chất là một ngôi đền lớn trong đó
c̣n giữ được khá đầy đủ bia kư và các đồ tế khí cùng hoành phi câu đối. Đây là
đất của thôn Thượng nên miếu c̣n gọi là Thượng miếu.
Đối diện với miếu này phía bên kia bờ sông chếch về phía phải có một bệ thờ được
gọi là làn tế. Làn tế, theo nhân dân địa phương là nơi xưa kia rước Thánh về đặt
tạm tại đó, trước khi đưa ngài ngự vào miếu. Ngày ấy làn tế khá bề thế và nằm
sâu trong trường kỹ nghệ ở đó nên người ta dịch chuyển làn tế ra sát bờ sông và
mới xây thành một bệ thờ như vậy.
Mọi sự chuẩn bị cho ngày hội được tiến hành từ trong năm. Ngày mồng 9 tháng ba
là ngày mở đầu cho lễ hội của làng. Nghi thức quan trọng nhất của ngày hôm ấy là
đám rước Thánh từ miếu xuống đ́nh.
Sau khi tế lễ ở đ́nh, làm lễ cáo yết ở miếu, người ta tiến hành rước Ngai của
Thánh về đ́nh. Đám rước long trọng với đủ lệ bộ và nghi trượng cùng những vị có
trọng trách trong ngày hội với đông đảo dân làng. Đám rước đi từ miếu Thượng
theo đường làng đi về đ́nh. Tới đ́nh kiệu rước Ngài được đặt ở chính ngự ngoài.
Sau đó các tay đô cùng bô lăo rước Ngai của Ngài vào đ́nh và ngự tại đó.
Tiếng pháo nổ vang cùng tiếng nhạc rộn ră làm không khí ngoài đ́nh náo nhiệt
trong muôn màu sắc của cờ, đồ tế khí và hương khói nghi ngút.
Ngoài sông, các thuyền đua của ba thôn cũng tiến hành bơi dạo. Vừa để chào mừng
ngày hội, chào mừng Thánh đồng thời cũng là để duyệt lại toàn bộ các bước chuẩn
bị của ḿnh xem từ vị trí ngồi của từng trai bơi đă hợp lư chưa, các tay chèo có
điều ǵ phải sửa sang cho tốt và đều, nhịp bơi có đồng đều ăn ư với nhau không;
người chỉ huy, người chống sào, tát nước, v.v. . . Tất cả gần như một cuộc duyệt
lại từng chi tiết chuẩn bị cho cuộc đua ngày hôm sau. Đồng thời đây cũng là lúc
thăm ḍ trước luồng lạch sao cho tiết kiệm được thời gian nhất mà lại đạt hiệu
quả cao nhất.
Có thể nói, suốt đêm 9-3 mọi người đều náo nức chờ đợi. Các trai bơi hồi hộp
chuẩn bị cho cuộc thi đấu ngày mai. Dân làng ra thắp hương lễ bái ngoài đ́nh
miếu. Các cụ trong ban khánh tiết thay nhau túc trực nhang khói thờ Thánh. Sân
đ́nh rộn ră không khí ngày hội làng, đèn đuốc sáng trưng, kẻ ra người vào tấp
nập.
Mồng 10 tháng ba là ngày chính hội. Bảy giờ sáng mọi chuẩn bị cho ngày hội phải
được hoàn tất. Ngày hội bắt đầu bằng cuộc tế lễ long trọng của hội đồng bô lăo
trong làng. Mọi nghi thức tế lễ được thực hiện từ chính ngự trong qua quăng sân
trước cửa đ́nh và vào đến trong đ́nh. Các bước tế của mỗi tuần tế đều bắt đầu từ
chính ngự trong vào đ́nh. Đồ chấp kích, chiêng trống, cờ quạt được xếp ngay ngắn
suốt dọc hai bên từ chính ngự trong vào cửa đ́nh c̣n ở giữa được trải chiếu.
Các nghi thức tế lễ ở làng Đăm không có ǵ khác biệt với những nơi khác, duy chỉ
có đôi điểm đáng chú ư. Thứ nhất, trước cửa đ́nh có hai thanh niên mặc quần áo
màu xanh, chân quấn xà cạp, đầu đội mũ có chóp nhọn cùng màu xanh, trên chóp có
một túm lông gà hoặc lông chim, tay cầm roi song đỏ đứng hai bên cửa giữa đ́nh.
Trong lúc tế lễ hai thanh niên ấy đứng nghiêm trang tại đó. Thứ hai, ở hội làng
Đăm cũng tế ba tuần, nhưng người ta lại đọc chúc ở trước tuần cuối cùng của cuộc
tế. Sau đó tế thêm một tuần nữa rồi mới đốt chúc văn. Chúc văn được một cụ già
cầm trên
tay, sau khi vái lạy thánh rồi châm lửa đốt. Cụ già phải xoay trên tay sao cho
tờ chúc phải cháy hết mà không được rơi xuống đất. Chúc văn phải được đốt cháy
hết ngay trước bàn thờ Thánh.
Trong lúc các bô lăo tiến hành tế lễ, trong đ́nh ở hai gian cạnh có trải sẵn
chiếu để khách thập phương và bà con dân làng chuẩn bị dâng lễ lên bàn thờ Thánh.
Người ra vào nườm nượp với đủ loại lễ vật, tuy vậy không hề ảnh hưởng ǵ tới
công việc tế lễ của các cụ.
Khi cuộc tế kết thúc, chiêng trống nổi lên rộn ră, báo hiệu cuộc rước sắp bắt
đấu, đồng thời là hiệu lệnh để những người có trách nhiệm chuẩn bị. Nghe hiệu
lệnh các trai kiệu chuẩn bị. Nghe hiệu lệnh các trai kiệu và những người cầm cờ
quạt, chấp kích từ khắp các ngả của hội lần lượt kéo về chung quanh cửa đ́nh.
Kiệu rước Thánh được chuyển từ chính ngự ngoài vào chính ngự trong.
Một hồi chiêng trống nổi lên một số trai kiệu cùng các cụ rước ngai Thánh từ
trong đ́nh ra chính ngự trong. Theo hiệu lệnh của một cụ già mặc áo tím, cầm
trống khẩu mọi người từ từ đặt ngai Thánh vào kiệu. Các cụ xem xét lại tỉ mỉ xem
việc đặt ngai đă vững chưa, có nghiêng ngả ǵ không, lọng che trên ngai đă kín
chưa, rồi bắt đầu xếp sắp đội h́nh. Thứ tự đám rước như sau:
Hai thanh niên quần áo xanh, quấn xà cạp, mũ chóp nhọn xanh, lúc trước đứng ở
cửa đ́nh với roi song đỏ trên tay, nay đi đầu làm nhiệm vụ dẹp đường. Tiếp đến
các nam nữ trẻ quần áo trắng, thắt lưng đỏ và đầu quấn khăn đỏ cầm cờ và đồ chấp
kích. Sau đó là hai cụ già mặc quần áo tế màu xanh đi giật lùi, mặt hướng vào
kiệu Thánh. Theo sau hai cụ là một cụ già khác mặc quần áo tím, tay cầm trống
khẩu làm hiệu lệnh cho đám rước. Rồi đến kiệu Thánh với một cụ già mặc áo đỏ (là
cụ từ giữ đ́nh) đi sát kiệu, để trông nom, sửa sang bước đi cho các đô kiệu, chỉ
bảo người cầm
lọng đi sau kiệu che cho đúng ngai Thánh... Hai bên kiệu là hai thanh niên mặc
kiểu vơ tướng (đầu đội mũ, thắt đai, đi ghệt. . .) cầm gươm bảo vệ kiệu. Đi sau
kiệu là các cụ già trong ban tế, các bô lăo đến tuổi thượng thọ với áo đỏ, áo
vàng theo lớp tuổi cùng dân làng đi rước Thánh. Hai bên lối kiệu đi người làng,
khách thập phương chen chân đứng xem đám rước với không khí vô cùng phấn chấn.
Kiệu đi thẳng từ chính ngự trong qua chính ngự ngoài tới đường làng trước mặt ao
đ́nh. Từ chính ngự trong và chính ngự ngoài kiệu được nâng trên tay của các trai
kiệu nhưng khi ra khỏi chính ngự ngoài, theo hiệu lệnh của người cầm trống khẩu,
kiệu được đặt lên vai các trai kiệu để rước đi. Khi đi ra tới đường làng, đoàn
rước rẽ sang tay phải tiến về phía thuỷ tạ. Đám rước đi nhịp nhàng, khoan thai
trong tiếng nhạc, tiếng pháo nổ và dưới sự điều khiển chặt chẽ của cụ già mặc áo
tím. Cứ như vậy, đám rước đi trong ṿng một tiếng từ cửa đ́nh đến thuỷ tạ.
Khi tới trước cửa thủy tạ, kiệu được hạ xuống, các trai kiệu cùng các bô lăo
rước kiệu vào đặt tại bệ giữa nhà thuỷ tạ, cờ quạt, chấp kích được đặt trước mặt
kiệu Thánh, hướng ra mặt sông. Một hồi chiêng trống nổi lên, pháo ở thuỷ tạ, hai
bên bờ sông và trong đ́nh được đốt nổ ṛn ră cùng một lúc, báo hiệu Ngài đă an
vị. Các cụ trở về chiếu của ḿnh ở gian cạnh, trai kiệu và thanh niên cầm cờ và
đồ tế khí nhanh chóng tản ra khắp nơi t́m chỗ thuận tiện để xem bơi.
Trong khi ngoài đ́nh tiến hành rước kiệu th́ ở các thôn những bước kiểm tra cuối
cùng cho cuộc đua thuyền được tiến hành. Từ chi tiết nhỏ được kiểm tra và thống
nhất giữa các trai bơi và người chỉ huy. Từng thôn làm lễ tiễn đoàn thuyền đua
của các thuyền của từng thôn được khiêng ra sông dạo quanh đợi hiệu lệnh tập
trung về thuỷ tạ.
Hiệu lệnh chuẩn bị đua thuyền là khi tiếng chuông trống và tiếng pháo nổ ṛn ră
lúc kiệu Thánh đă yên vị ở nhà thuỷ tạ. Các thuyền đua từ các ngả từ từ tiến vào
gần nhà thuỷ tạ trong tiếng reo ḥ vang dậy của người ba thôn cổ vũ cho thuyền
đua của ḿnh. Mọi người sung sướng và hồi hộp chờ cuộc đua bắt đầu.
Ba thôn Thượng, Trung và Hạ mỗi thôn có hai thuyền đua. Xưa kia có thêm một
thuyền thứ bảy gọi là thuyền Quan Thuyền Quan không đua mà chỉ làm nhiệm vụ bơi
theo quan sát cuộc đua.
Thuyền đua dài tới 15m gồm 18 trai bơi và sáu người khác. Sáu người đó là: ông
lái (người lái thuyền), ông dô (là người bắt nhịp, chỉ huy), ông phất cờ (người
cầm cờ phất sang phải sang trái để cổ vũ anh em bơi), ông cầm lạng (là người cầm
sào, một đầu có móc sắt h́nh chữ U để chống và đẩy thuyền khi thuyền sát vào
thuyền khác một người tát nước (cầm gáo hoặc thứ ǵ tiện lợi để hắt nước ra khỏi
thuyền) và một trọng tài có nhiệm vụ chỉ ngồi theo dơi các trai bơi và những
người trong thuyền không được phạm vi các luật lệ quy định. Trai bơi được chọn
trong độ tuổi từ 20 đến 35 tuổi có kinh nghiệm và khoẻ mạnh.
Đầu thuyền của mỗi thôn đều gắn đầu của ba loài đỉa, ly, hạc. Riêng con hạc luôn
luôn gắn với hai thuyền của thôn Thượng v́ thôn Thượng có miếu của Bạch Hạc Tam
Giang. C̣n hai đầu đỉa và ly là của hai thôn dưới . Trong hai thuyền của mỗi
thôn lại chia ra một thuyền đông và một thuyền tây, c̣n sáu thuyền được đánh số
thử tự cho dễ nhớ. Việc đóng thuyền và tập luyện cho cuộc đua là cả một quá
tŕnh lâu dài và tốn kém. Tuy vậy thôn nào cũng cố gắng hết sức để dành được
chiến thắng. ở đây ngoài sự ganh đua về giải, người ta c̣n thi đua cả về danh
tiếng cao cả khi được giải nhất. Nó góp phần cổ vũ cho cả thôn trong năm mới.
Cuộc đua thuyền được tiến hành bơi sáu ṿng. Sáng ngày 10- 3 bơi hai ṿng, chiều
một ṿng. Ngày 11- 3 cũng bơi ba ṿng như vậy sau đó kết thúc hội .
Sau hồi chiêng trống báo hiệu ngai Thánh đă yên vị, các thuyền đua tập trung
trước thuỷ tạ. Dưới sông cách Thuỷ tạ vài mét có một cột cờ treo lá cờ đại thật
to. Đồng thời cũng cách đó vài mét, một sợi dây được căng từ bờ sông bên này
sang bờ sông bên kia, trên dây được treo cờ đủ màu sắc, đó cũng là mốc để cho
các thuyền xếp hàng bơi. Hai cụ già mặc áo quần ngày hội đứng ở bên bờ phải của
Thuỷ tạ làm nhiệm vụ hiệu lệnh. Sau khi các thuyền đă tập trung vào vị trí, cờ
lệnh được phất, cuộc bơi dạo bắt đầu. Đây
chỉ là bơi biểu diễn do đó các thuyền không ganh đua và vội vă mà cố bơi cho
thật đẹp, thật nhẹ nhàng, ngoạn mục để lôi cuốn người xem. Tuy vậy, không khí
trên bờ cũng rất sôi động, tiếng chiêng trống, tiếng pháo nổ mừng nổi lên khắp
nơi. Bơi dạo một ṿng theo đường đua vừa là bơi biểu diễn, vừa là bơi thử để các
tay chèo quen tay mà bắt đầu cuộc đấu. Sau khoảng 15- 20 phút các thuyền đều trở
về đông đủ để bắt đầu cuộc bơi chính thức.
Các thuyền đua hướng mũi vào nhà thuỷ tạ. Ba hồi chiêng trống báo hiệu các
thuyền chuẩn bị vào lễ thánh để thi bơi. Sau đó theo hiệu trống các thuyền lần
lượt cử người bước lên thuỷ tạ làm lễ thánh. Một tiếng trống: Thượng đông,
Thượng tây vào; hai tiếng trống; Hạ đông, Hạ Tây vào. Từng cặp một sau khi làm
lễ xong, chủ tế gọi: Thượng đông, Thượng tây, các trai bơi trên thuyền nhất loạt
dạ ran. Cũng như vậy với thuyền của thôn Trung và thôn Hạ.
Sau lễ bái yết Thánh, các thuyền được ba trọng tài xuống kiểm tra rất kỹ lưỡng
từ số người, dụng cụ trên thuyền như dầm lái, đồ múc nước, nhất là sào chống.
Bởi v́ sào chống là phải thống nhất, do ban tổ chức phát, không được đổi sào v́
chỉ cần dài hơn một chút là thuyền đó rất có lợi trong việc đẩy và chống. Cũng
lúc này các thôn được phép cử người lên thuyền uư lạo các trai bơi bằng thuốc lá
và các thử khác để cổ vũ tinh thần cho các đội. Khi mọi việc đă hoàn tất tiếng
chiêng trống, thanh la, tù và dồn dập vang lên báo hiệu cuộc thi sắp đến giờ
xuất phát. Bằng hiệu cờ và loa các trọng tài đưa các thuyền vào vị trí cho có
trật tự và bằng nhau ở đích xuất phát. Thuyền của ba thôn được xếp xen kẽ nhau
sẵn sàng chờ lệnh. Một tràng pháo dài được đốt báo hiệu phút quyết định sắp đến,
tất cả các chỉ huy và trai bơi trên thuyền đều hướng sang phía hai cụ già cầm cờ
lệnh, mọi người cúi rạp xuống và khi lá cờ được chém mạnh xuống là lúc các
thuyền bật lên lao đi. Tiếng chiêng trống đổ hồi, người trên bờ cũng nhoài người
ra hô hào để cổ vũ và nhắc nhở các thuyền đua.
Điều thú vị ở đây là các thuyền đua sắp hàng bằng nhau trên một quăng sông không
rộng, thuyền lại to và dài chứ không xuất phát so le như ở hội đua thuyền ở một
vài nơi khác, chẳng hạn như ở Đồng Xâm. . . Do vậy khi xuất phát, do sự bật lên
khá mạnh của các tay bơi, v́ vội vàng muốn bứt lên khỏi thuyền khác để lấy không
gian và đôi khi không tránh khỏi lúng túng mà các thuyền đă túm tụm vào nhau.
Thậm chí lúc đầu chưa chỉnh được tay bơi nên không tạt nước đều tay, người lái
chưa định hướng v́ tầm nh́n chật nên các thuyền có thể bị xiên ngang, quay cuồng
ở một điểm. V́ thế qui định của cuộc đua cho phép các thuyền chen nhau để t́m
lối thoát nhưng không được va chạm. Vai tṛ của người chống (lạng) lúc này là vô
cùng quan trọng. Anh ta ngồi ở đầu mũi thuyền cầm lạng ngang ra mắt chăm chăm
nh́n hai bên để đẩy và chèn bất cứ thuyền nào áp sát vào thuyền anh ta. Thuyền
đối diện cũng trong tư thế như vậy, do đó đă tạo ra một cuộc tranh giành quyết
liệt để bứt lên. Song người chống chỉ được phép chen đẩy vào mạn thuyền hoặc mũi
thuyền của đối phương chứ không được phép làm bất cứ điều ǵ xấu ảnh hưởng đến
thuyền bạn. Anh ta phải chèo chống sao cho thuyền của anh ta có được không gian
mà bứt lên. Do đó, phút hồi hộp nhất chính là lúc này, v́ chen chúc nhau nên có
thuyền vội vàng nghiêng ngả làm lật úp, song các trai bơi vẫn không bỏ cuộc mà
nhảy lên dốc nước, chèo thuyền tiếp tục cuộc đua. Tiếng hô hào của chỉ huy,
tiếng trống, tiếng phách cùng tiếng cổ vũ của hàng ngàn người đứng kín hai bờ đă
làm cuộc đua mỗi lúc một náo nức. Người các thôn rầm rập chạy hai bên bờ sông cổ
vũ cho thuyền thôn ḿnh.
Việc đẩy, chen và chống các thuyền bên cạnh để bứt lên theo dân gian ở đây gọi
là búng. C̣n khi đến điểm mốc cuối ở đoạn sông trước cửa miếu Thánh, các thuyền
bơi cũng phải ṿng qua một cột cờ (ṿng từ trái sang phải), cả người lái và
người lạng (chống sào) phải lướt sao cho khéo đường "cua" tiết kiệm đường đua và
thậm chí vượt lên thuyền phía trước ḿnh. Cái đó người ra gọi là dóc và vót góc.
Dóc và vót góc càng điêu luyện thuyền đi càng nhẹ và nhanh, c̣n không khéo sẽ va
vào cột mốc hoặc đường cua quá rộng mà mất thời gian. Ngay cả khi các thuyền đă
răn ra nếu người lái và lạng không khéo léo, các trai bơi không đều thuyền vẫn
bơi chậm và có trường hợp nước tràn vào thuyền làm đắm hoặc người bơi vội tạt
nước lộn nhào xuống sông. Khi đó cả thuyền bám sâu nếu không nhanh xử lư tránh
thuyền trước mà vượt lên th́ cũng đắm nốt, như vậy sẽ cản trở tốc độ rất nhiều.
Người ta tính điểm từng thuyền về đích trước sau mà xếp hạng cộng điểm cho cả
đội. Sau một ṿng đua các thuyền bơi được nghỉ ngơi khoảng mười lăm phút để hồi
sức và rút kinh nghiệm. Người các thôn xô đến thuyền của ḿnh mà nhận xét, nhắc
nhở, góp ư cho các trai bơi. Để rồi lại háo hức chờ ṿng đua mới.
Sau khi giải lao trống giục gọi các thuyền đua vào vị trí. Lần này người ta lại
đổi vị trí đua của mỗi thuyền. Cứ như vậy trong sáu ṿng đua của hai ngày mỗi
thuyền được đứng ở một vị trí khác nhau từ bờ bên này sang bờ bên kia một cách
công bằng.
Trong hai ngày đua thuyền, những lúc ngừng cuộc đua dưới sông trên mặt đất diễn
ra những tṛ thả chim, thi cờ bỏi và nhất là chọi gà. Đây là một vùng có truyền
thống nuôi gà chọi rất nổi tiếng, có những cặp gà được đưa đi đấu ở nhiều nơi.
Đây cũng là một nơi có truyền thống vật với các đô vật lừng danh như Hương Th́n,
Bếp Quư, Ba Oe. . . ban đêm có đốt phá bông, hát chèo.
Ngày l1- 3 buổi sáng bơi tiếp hai ṿng nữa và buổi chiều kết thúc trao giải .
Thuyền được giải c̣n có vinh dự chở ngai của Thánh về miếu Thượng. Bởi v́ theo
phong tục từ xưa Thánh đi bộ về thuỷ, do vậy hai thuyền giật giải được đưa Thánh
về cung của Ngài vào buổi chiều ngày l1- 3. Sau khi đua thuyền xong, dân làng tế
lễ tạ ơn thánh rồi rước Thánh xuống thuyền về miếu của Ngài. Ngày hội kết thúc
trong không khí vui mừng phấn khởi của toàn thể dân làng. Tối đó lại đốt pháo
hoa mừng ngày hội, tiếng hát chèo lại vang lên tại sân đ́nh. Lời ca, tiếng đàn,
tiếng pháo quyện vào hương khói trong ánh sáng của muôn vàn ngọn đèn nến tạo nên
một không khí khó quên đối với mỗi người dự hội, để năm sau du khách lại nhớ mà
t́m đến.
Đua thuyền lở một tục lệ phổ biến ở Việt Nam, nhưng mỗi nơi tùy theo hoàn cảnh
địa lư và phong tục mà lại có những khía cạnh riêng của nó. Cái quyết liệt của
đua thuyền làng Đăm không phải ở độ dài của đường đua và đua liên tục nhiều ṿng
trong một lần như ở hội bơi chải Đồng Xâm. Không phải ở sự khó khăn, khốc liệt
như bơi ngang ḍng sông Hồng nước chảy mạnh như ở Sa Lăng (Liên Hà) gần đó hoặc
sông nước chảy xiết, thuyền phải bơi ngang trong khi đă bị đục thủng sẵn từ
trước, nếu không bơi nhanh sẽ đắm như ở Gia Lương Hà Bắc. Hay chỉ là bơi thuyền
nghi lễ nhằm ôn lại cuộc luyện quân của nữ tướng thời hai Bà ở Hạ Cát Từ Liêm,
v.v. . . Cái quyết liệt ở đây là bước xuất phát cuộ đua phải búng thuyền đẩy,
chen thuyền bạn mà lấy chỗ cho thuyền ḿnh); dóc thuyền (lướt, vuốt góc để
thuyền bứt lên mà không va chạm, gây cản trở lật thuyền, chậm thời gian); là
lạng thuyền (chống, đẩy thuyền bạn cho không chạm vào ngăn cản thuyền ḿnh), là
vuốt góc ở đoạn cuối cột mốc sao cho thuyền lướt nhanh không bị lúng túng tại đó,
v.v. . .
Cái quyết liệt ấy biểu hiện ở sự mau lẹ, quyết đoán và tính toán điều khiển
thuyền để đạt được tốc độ tối đa mà chỉ mất một sức lực tối thiểu. Điều đó đ̣i
hỏi cả một kinh nghiệm dày dạn và sự từng trải lớn của một cư dân sông nước
chuyên nghiệp .
Cũng dễ hiểu khi nh́n địa dư của Tây Tựu xưa vốn nằm trong một khu vực chằng
chịt sông ng̣i. Bản thân đầm Đăm là một nhánh từ sông Hồng qua vùng Gối sang
sông Nhuệ. Từ Gối tới Hát Môn, nơi có đoạn sông Hát nối với sông Hồng là một
đoạn không xa. Cả một khu vực từ Hát Môn phùng, Gối, Diễn ngày nay vốn xưa có
nhiều sông ng̣i chồng chéo nhau. Bằng chứng là những đoạn sông cụt như đầm Đăm,
những con đê nay không c̣n giá trị ngăn nước sông nữa và các con sông tồn tại
cho đến bây giờ. Sống
trong một môi trường địa lư như vậy, nghề sông nước ắt phải được đề cao và phát
triển.
Xét về mặt h́nh dáng của thuyền đua, với những con quy con đỉa ta cũng thấy
chúng gắn với nước. C̣n hai con hạc ở đây ẩn chứa những điều ǵ mà ta chưa biết
được? Đó là điều đáng lưu ư.
Hai con hạc ấy với đức thánh Bạch Hạc Tam Giang và một truyền thuyết huyền ảo
kèm theo tên gọi của ba thôn cùng với từ miền (miền Thượng, miền Trung, miền Hạ)
có ǵ liên quan đến nhau không? Lại nữa, đường đi của đức Bạch Hạc Tam Giang đi
bộ về thuỷ. Có ǵ chăng giữa Trời- Đất- Nước, giữa Núi- Sông hay đó là sự xoay
vần là cơi mênh mông của vũ trụ trong quan niệm của người xưa?
Và như đă nói ở trên, ḷng đ́nh ở giữa thấp hẳn xuống so với hai bên theo kiểu
ḷng thuyền, nếu đó là nguyên trạng của thời xa xưa th́ cũng có thể liên tưởng
tới cái đ́nh h́nh thuyền mà các nhà khảo cổ học đă nhắc tới.
Những dự cảm ban đầu, những nghi vấn chưa có đầy đủ chứng cớ để thuyết phục,
song dù sao chúng tôi cũng cố gắng tŕnh bày ra đây theo một trật tự nhất định
để độc giả cùng xem xét, vả lại cũng là để người viết suy ngẫm và tiếp tục hoàn
thiện trong tương lai./
-
|