Lễ Hội Tây Bắc
Hội Xên bản, xên Mường
Hội Xên bản, xên mường mở vào mùa hoa ban nở là hội
cầu mùa, cầu phúc của người Thái. Họ gửi gắm vào đó những ước vọng lớn lao về
một cuộc sống bình yên, no ấm nơi bản mường, đồng thời cũng là dịp thi tài, vui
chơi, trai gái tìm hiểu, tâm tình qua tiếng hát, tiếng đàn.
Hàng năm, cứ vào dịp tháng 2 âm lịch, mùa xuân về, hoa ban nở trắng núi, trắng
rừng Tây Bắc. Truyền thuyết của người Thái kể rằng: Thuở ấy, có một chàng trai
tên là Khum đem lòng yêu cô gái tên là Ban. Khum vừa giỏi làm nương, lại có tài
săn bắn. Ban thì khéo tay dệt vải lại vừa có giọng hát làm say đắm nhiều chàng
trai. Thế nhưng, cha nàng Ban vì ham giàu nên đã đem gả nàng cho con trai nhà
tạo mường, vốn là một thanh niên lười nhác lại có tật gù lưng.
Trong bước đường cùng, nàng Ban đã chạy sang bản của Khum để cầu cứu. Nhưng
chẳng may khi đến nhà Khum, thì được tin chàng đã theo cha đi mua trâu ở bản xa.
Nàng bèn lấy chiếc khăn piêu của mình, buộc vào nơi cầu thang nhà người yêu, rồi
bươm bả đi tìm chàng. Nàng đi hết núi này, rừng khác, gọi tên người yêu đến khản
cả giọng, nhưng chàng ở xa nào có nghe thấy. Cuối cùng kiệt sức, nàng ngã gục
sau khi vượt qua một dãy núi cao. Nơi nàng nằm xuống, sau đó mọc lên một cây hoa
mang búp trắng như búp tay người con gái. Và chẳng bao lâu, loài hoa ấy mọc lan
ra khắp núi rừng Tây Bắc, và hàng năm cứ mỗi độ xuân về, hoa nở trắng như bông.
Người ta đặt tên loài hoa đó là hoa ban.
Chàng Khum, khi về đến nhà, thấy chiếc khăn piêu của người yêu vắt nơi cầu thang,
biết là có chuyện chẳng lành, bèn vội vã đi tìm. Đi mãi hết mường này, bản khác,
cuối cùng, chàng kiệt sức, ngã xuống. Sau khi chết, chàng hóa thành con chim
sống lẻ loi trong rừng, và cứ đến mùa hoa ban nở, lại hót vang như tiếng gọi
người yêu tha thiết tự năm nào.
Vào dịp hoa ban nở người Thái ở huyện Mai Châu (Hòa Bình) mở hội Xên bản, xên
mường có tên là hội Hoa ban, quy mô hội to hay nhỏ còn tùy thuộc vào thời. Hễ
năm nào nghe tiếng sấm rền từ phía thượng nguồn sông Mã, thì năm đó ắt có đại
hạn, mọi người phải lo tích nước để làm mùa cũng như cho sinh hoạt đời sống, lại
phải chuẩn bị phương tiện như cuốc, thuổng, gàu... để đào mương, đào giếng chống
hạn, thì Xên bản, xên mường năm ấy chỉ tổ chức nhỏ và đơn sơ. Người ta mổ ít lợn,
gà làm lễ tế thần để cầu mưa, "rửa lá lúa" (xua đuổi thần trùng). Các cuộc vui
chơi, đàn hát coi như bị xếp lại. Các ngã đường dẫn vào bản đều có buộc cành cây
xanh-dấu hiệu "cấm người ngoài vào bản, kiêng người ngoài lên thang"- rong một
số ngày "kiêng kỵ". Nhà nào nhà nấy đóng cửa im ỉm và có cài lá xanh. Không khí
sinh hoạt của bản trong những ngày này chùng xuống, đượm vẻ lo âu, buồn tẻ.
Ngược lại, hễ nghe tiếng sấm đầu năm rền ở phía thượng nguồn sông Đà, thì mọi
người đều phấn khởi, tươi vui. Họ tin rằng năm đó sẽ mưa thuận gió hòa, triển
vọng mùa màng sẽ bội thu, thóc ngô đầy bồ, đầy kho, mọi người khỏe mạnh, ít ốm
đau. Trẻ già cùng rủ nhau ra suối tắm, giặt, gội đầu. Những đồ dùng nấu ăn hàng
ngày như nồi, chõ đồ xôi cũng được đem ra cạo rửa. Và tất nhiên, hội Xên bản,
xên mường của năm đó cũng được tổ chức lớn hơn, rộn rịp hơn.
Ngày thứ nhất, hội Xên bản, xên mường mở đầu bằng đám rước, tiếp theo là lễ hiến
sinh cúng thần. Đám rước diễn ra từ nhà tạo mường ra đình. Dẫn đầu đám rước là
các chức sắc trong mường với trang phục đẹp may bằng the, lụa, có cờ, lọng,
chiêng trống, kèn, sáo, nhị đi kèm. Tiếp đến, các cụ già đội khăn đỏ, mặc áo tơ
tằm vàng, quần chàm sẫm, thắt lưng xanh. Một số cụ mang theo cả cung nỏ. Một con
trâu mộng to béo, được tắm rửa sạch sẽ, da đen bóng được dắt theo, đôi sừng trâu
bọc giấy màu lấp lánh, ở giữa trán và hai bên mông có dán giấy trắng cắt hình
hoa ban to như miệng bát. Đi sau, cùng là những những chàng trai trong bản, mặc
áo đỏ viền xanh, quần vàng, đội mũ chóp sơn dầu, chân quấn xà cạp đen đến tận
đầu gối, đeo gươm hoặc giáo bên vai.
Tại đình, vị "đẳm già" - thầy mo có uy tín - áo thụng xanh, mũ đuôi én đỏ, quần
chàm, đi hài, bước ra trước hương án làm lễ cầu thần. Lát sau, vị "đẳm già" cầm
chiếc chuông nhỏ rung lên một hồi báo hiệu là đã cầu thần xong và lệnh cho dắt
con trâu mộng ra làm lễ hiến sinh. Trâu được dắt đến nơi bãi rộng cạnh đình để
mổ thịt. Từ lúc này, các trò vui của nam nữ thanh niên bắt đầu. Họ tổ chức múa
xòe quanh nơi mổ trâu theo nhịp chiêng trống, và cuộc vui chơi kéo dài cho đến
khi pha xong thịt trâu mới chịu dừng.
Khi những mâm cỗ được dọn lên, thì chiêng trống cùng các nhạc cụ khác lúc này
cũng được chuyển về đình. Từng đôi nam nữ luân phiên hòa tấu cho tới lúc hạ cỗ.
Đêm đến, nam nữ thanh niên vui chơi, ca hát cho đến khuya mới chia tay.
Ngày thứ hai là ngày thi bắn súng hỏa mai và cung nỏ. Ngày thứ ba là ngày vui
chơi tập thể, đó là ngày hội tự do, sôi động nhất, có người tham gia đông đảo
nhất. Ai thích trò chơi gì thì hãy nhập cuộc vào các nhóm: ném còn, ca hát, thổi
kèn, sáo, thi chim hót, thi trâu béo... (tục lệ ở đây kiêng thi vật và cấm trâu
bò húc nhau trong những ngày này). ở những bản đông người, người ta chia cuộc
vui chơi thành hai nơi: một ở đầu bản, một ở cuối bản để tránh tập trung quá
đông một chỗ.
Đối với nam nữ thanh niên, đêm hội cuối cùng là đêm vui nhất, để lại nhiều kỷ
niệm nhất. Dưới ánh trắng, màu trắng của hoa ban ánh lên trên nền xanh thẫm của
rừng, tạo nên một vẻ đẹp thanh khiết. Giữa khung cảnh đầy thơ mộng ấy, cuộc thi
hát giao duyên hòa cùng tiếng kèn, tiếng sáo giữa nam nữ diễn ra từ lúc trăng
lên và kéo dài cho đến tận khuya. Họ tặng cho nhau những tấm phà (hoặc váy thêu
công phu), vòng đeo tay bằng bạc, trầu cau và những chai rượu nếp mang hương vị
của rừng, của suối. Từ cuộc vui này, có bao nhiêu mối tình chớm nở và có bao
nhiêu đôi nên vợ nên chồng?
Tiếp theo hội là một số ngày kiêng kỵ. Nhà nào nhà nấy đều đóng kín cửa, cài
cành lá xanh, người trong nhà nghỉ đi rừng, đi rẫy và không tiếp khách lạ.
Hội Đoọc Moong
Trước đây rừng còn nhiều, sau tuần vui tết, người
Mường ở xóm Lý, xã Phong Phú, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình lại chính thức bước
vào một mùa làm ăn mới. Ngày ấy người Việt gọi là ngày hạ nêu. Nếu người Việt tổ
chức nêu vào mồng 7 tháng giêng thì hạ nêu của người Mường Tân Lạc là ngày 6
tháng giêng, bởi quan niệm trong dân gian cách tính ngày của người Mường xưa lùi
một ngày so với người Việt. Ngày mồng 1 tết của người Việt coi là ngày 30 của
người Mường, thế nên, ngày hạ nêu của người Việt cũng là ngày hạ nêu của người
Mường mà chỉ khác nhau về cách gọi.
Ngày hạ nêu có lễ khai sơn (lễ mở cửa rừng). Sau lễ khai sơn mọi người bắt đầu
vào rừng hái lượm và săn bắt thú. Trong ngày này, một trong những sinh hoạt cộng
đồng rất vui, nhiều nơi tổ chức, đó là Hội Đoọc Moong. Tiêu biểu là hội Đoọc
Moong của người Mường xóm Lý. Đoọc nghĩa đen là đâm, mở rộng nghĩa là săn. Ngôn
ngữ Tày - Thái cổ có một âm tương tự là toọc nghĩa là đóng, mở rộng nghĩa là
trồng. Moong còn gọi là Muông, là từ chỉ các loài thú 4 chân. Hội Đọc Moong là
hội đi săn các loài thú rừng.
Buổi sáng đó, người trong Mường hay Quềl (đơn vị cư trú) ở Mường Lồ (xã Phong
Phú ) không phân biệt trẻ già trai gái, ai có thể trèo đồi, leo núi được cùng
kéo nhau đi. Một người săn giỏi (trùm săn) của mường cùng các cụ già có kinh
nghiệm bàn định hướng xuất phát làm ăn và chọn điểm săn. Sau đó, mọi người tưng
bừng reo hò cùng ông trùm săn theo hướng đã định đến một quả đồi hay một khu
rừng. Mọi người tỏa ra vây quanh khu rừng đó. Những thợ săn giỏi có súng kíp
hoặc nỏ cứng, nhanh chân tìm chỗ đón lõng ở các khe, các lối mòn thú hay đi.
Những người khác khép kín dần vòng vây, họ hò, reo, hú đuổi thú, tay cầm cây lao
hoặc cầm một cây gậy nhỏ. Nhiều người cầm cồng (chiêng), loài cồng nhỏ (chiêng
boòng beeng) đánh theo điệu đi săn. Những chú chó săn của mường theo hiệu lệnh
của cồng săn vượt lên sục sạo các bụi rậm đánh hơi thú.
Tiếng cồng săn dập dồn, tiếng hò reo vang rộn, tiếng chó sủa chói tai cuốn hút
bước chân người, tất cả tạo thành một âm hưởng sôi động của cuộc sống cộng đồng
bước vào mùa làm ăn mới. Thú rừng bị vòng vây khép kín dồn dần vào một nơi.
Trước là bị chó tấn công sau là người ùa đến dùng gậy nhọn, cây lao chặn đánh.
Cũng có khi không đợi đến lúc bị dồn vào một chỗ những con thú ranh mãnh phóng
ngược lại hướng tiến của con người. Lúc ấy, mọi người không bỏ vây mà chỉ số ít
người tách ra đuổi theo con thú. Thường chỗ con thú thoát được lại là chỗ đã có
người nấp đón chỉ đợi thú chạy vào tầm ngắm là nổ súng tiêu diệt.
Hội Đoọc Moong rất vui, thu hút nhiều người tham gia. Nếu buổi săn hôm đó được
thú, làng Mường vui mừng đánh cồng, gõ phách. Họ khiêng con thú đến một miếu lớn
bằng gỗ, dựng ở xóm Lý, thờ Đức Tản Viên. Hậu cung có tượng người (Thánh Tản
Viên) bằng đá. Mọi người mổ con thú săn được dâng lễ tế Thánh Tản. Ông mo thay
mặt dân xã mặc áo thụng, đội mũ tai én làm lễ khấn Thánh Tản phù trợ mùa màng
tươi tốt. Nhỡ không được thú gì, dân Mường tỏ ý buồn cho việc xuất hành đầu năm
mới không may. Dân làng đành phải chọn một con bò hay thú rừng tế Thánh Tản. Ở
miếu thờ Thánh Tản có tục không giết trâu để tế thần. Có điều khi chọn nơi săn,
các cụ đã tấu trình kỹ lưỡng, một khi đã kéo dân chúng đi Đoọc Moong thì thế nào
cũng phải săn bắn được thú. Thế nên, khu rừng được chọn thường là nơi cấm săn
bắt trong năm để nhiều thú về ở. Sau lễ tế Thánh Tản, mọi người tự mang cơm và
rượu cần đến vui mừng suốt ngày tới tận đêm khuya.
Ngoài con thú được dâng lễ Thánh Tản, hễ phường săn có bắt thêm được con thú nào
khác, làng có lệ chia phần như sau: Người nào giết chết con thú sẽ được hưởng
một đùi sau cùng đầu con vật, vị trí cắt lấy đầu tính bằng cách tóm cái tai con
vật vít xuống phía cổ, đầu nhọn tai đến đâu thì cắt phần cổ đến đó. Sau đấy, họ
mổ con vật ra lấy thịt chia đều cho tổng số người và chó. Mọi người quan niệm
phần của một đầu người tương đương với phần của một đầu chó.
Cũng có khi trong cuộc săn, một con thú như lợn rừng, hoẵng, cheo cheo v.v...
chạy ra liền bị mấy người đuổi đánh và đâm chết. Khi con vật chết hẳn, một người
hô to không đâm nữa, mọi người tự nguyện giơ cây lao của mình ra phía trước, căn
cứ vào đầu con thú và đùi sau chia đều cho những người đó. Nếu ai đó, dù rằng
anh đánh con vật ngã quị xuống, hiềm vì ngọn lao của anh không có máu thì vẫn
coi là anh không trực tiếp giết con vật đó. Lệ Mường quy định thế nên nhiều
người chạy tới sau, tiếc công sức đuổi thú, cho dù con thú đã bị đâm chết, anh
ta cũng cố lao tới chấm đầu nhọn của mình cho có máu con vật để hưởng vinh quang
và phần thịt chia. Lệ này giúp chúng ta hiểu thêm cơ sở ra đời câu phương ngôn
của người đi săn là "Rây máu ăn phần".
Người giết được con thú cốt yếu là nhận về sự vinh quang, cảm phục của người
trong mường chứ lợi lộc chẳng là mấy, bởi lẽ khi nhận phần đem về nhà, người
giết được thú phải tốn kém nhiều rượu thịt để khoản đãi dân mường đến chúc mừng
anh ta. Có điều: sống ở làng sang ở nước, dù là tốn kém nhưng người giết được
thú lấy làm vui mừng lắm, cho là gia đình có phúc lớn, tin trong năm làm ăn gặp
nhiều may mắn.
... Cuộc săn chấm dứt bằng hiệu lệnh cồng. Đã thành thói quen, hễ nghe điệu cồng
đó thì người và chó bỏ vị trí trở về mường. Càng gần làng mường họ càng reo hò,
chào đón thắng lợi đã giành được.
Hội Đoọc Mong ngày đầu năm mới không thuần túy chỉ là ngày Hội đi săn mở mở rộng
ý nghĩa thành ngày hội văn hóa chứa đựng nhiều yếu tố sinh hoạt cộng đồng hấp
dẫn như đánh chiêng, leo núi, vui hò, uống rượu cần, thi tài bắn nỏ, bắn súng,
đâm lao... giúp con người Mường hiểu biết lẫn nhau và sống gắn bó với nhau hơn
trong một cộng đồng làng xóm chan chứa nghĩa tình.
Nguồn tin: Theo Internet