Nguyễn Trung Trực
Người Khí Phách Một Đời Anh Hùng
(Theo Ly Châu Lư Minh Hào)
Đến nay, phần tài liệu để t́m hiểu về tiểu sử, thân thế ông
Nguyễn Trung Trực cũng c̣n tản lạc và chưa đầy đủ. Lư do dễ hiểu
là chính quyền thực dân Pháp đă áp dụng sách lược "nhổ cỏ phải
nhổ tận gốc," ngay cả phần mộ chôn cất thân xác vị anh hùng
chính người địa phương cũng chưa tường tận.
Theo một nguồn sử liệu, ông Nguyễn Trung Trực
sinh trưởng tại một xóm chài lưới có tên là Xóm Nghề, Bến Lức,
Long An. Từ thuở thiếu thời, thường được gọi thân mật là "Cậu
Năm Lịch" hoặc "anh chài Lịch" đă ham học vơ, lớn lên nổi tiếng
là trang thanh niên tuấn tú, vơ nghệ cao cường, hào khí hun đúc
tâm can, thiên khiếu quân sự thăng hoa phát tiết. Khởi đầu sự
nghiệp, ông tham gia lực lượng kháng chiến của Quản Cơ Trương
Công Định và được sung chức Quản Binh, chỉ huy nghĩa binh hoạt
động ở vùng Cần Đước, Cần Giuộc thuộc Long An. Cũng cần tŕnh
bày thêm, v́ nhận sự phong quan của triều đ́nh thời vua Tự Đức,
Trương Công Định nhiều phen đă phải phụng mệnh vua, và theo lệnh
triều đ́nh Huế đang trong thời kỳ thương thuyết với người Pháp.
T́nh thế luẩn quẩn "khi đánh, khi đàm" đă làm suy giảm đáng kể
tiềm lực kháng chiến và nhuệ khí nghĩa quân. Trước khi nói về sự
nghiệp kháng chiến của vị anh hùng họ Nguyễn, qua hai chiến công
lẫy lừng là "Hỏa Nhựt Tảo Thuyền" và "Đồ Kiên Giang Lũy,".
Trong khí thế chống giặc ngoại xâm của sĩ phu và
dân chúng miền Nam, ông Nguyễn Trung Trực đă ráo riết bố trí
quân bị, tung ra những trận đánh du kích tại Tân An, vùng đất "mở
đường" cho sự nghiệp thiên niên sử xanh của ông về sau.
Địa bàn hoạt động của lực lượng kháng chiến
trong gần ba năm từ 1860 đến 1862 là vùng Tân An, Định Tường,
Biên Ḥa. Các địa danh Thủ Thừa, Bến Lức, B́nh Trinh, Nhựt Tảo (Tân
An); Vũng Gù (Định Tường ); Tân Uyên, Phước Lư, Long Thành (Biên
Ḥa) đă khiến tiếng tăm ông lẫy lừng. Trận đánh hỏa công đốt tàu
chiến Pháp Espérance trên sông Nhựt Tảo khiến đất trời cũng muốn
nổ tung: Hỏa hồng Nhựt Tảo oanh thiên địa. Theo một nguồn sử
liệu dân gian nhiều người biết khi tả về chiến tích Hỏa Nhựt Tảo
Thuyền của ông Nguyễn Trung Trực th́ làng Nhật Tảo nằm trên một
vùng đồng ruộng bao la, mới sáng tinh sương đă nh́n thấy ánh mặt
trời nên được gọi là Nhựt Tảo, nghĩa là "mặt trời mọc sớm". Giữa
thế kỷ thứ 19, Nhựt Tảo là vùng đất mới được ông Hồ Văn Chương
đến khai phá lập nghiệp theo chương tŕnh khai hoang của triều
Nguyễn. Nhờ quy tụ được đông dân cư lập thành thôn ấp, ông Hồ
Văn Chương được triều đ́nh Nguyễn phong cho chức Suất Đội Trưởng,
con cháu kế truyền làm "chủ chợ qua việc thu thuế chợ lấy tiền
làm ngân sách địa phương". Ḍng dơi họ Hồ thống lănh cả vùng và
đều là hương chức địa phương. Lúc bấy giờ, ông Hồ Quang Minh làm
cai Tổng, tuy hợp tác với chính quyền Pháp ngoài mặt nhưng vẫn
căm thù giặc. Cảm khái tấm ḷng ái quốc của ông Nguyễn Trung
Trực, gia đ́nh ông Cai Tổng đă mạnh dạn hợp tác với nghĩa quân,
lập kế đồ đánh phá lực lượng quân Pháp. Mục tiêu là chiến thuyền
Espérance đóng án ngữ trên sông Vàm Cỏ Đông thuộc làng Nhựt Tảo,
một thủy lộ và một địa điểm vô cùng xung yếu về mặt quân sự.
Chiến thuyền Espérance được coi như một "căn cứ nổi" rất lợi hại
trên nhiều mặt: đóng vai tṛ một thành lũy bố pḥng; một pháo
đài để tấn công và yểm trợ; một phương tiện di động để điều động
và vận chuyển binh lính, quân nhu, lại được sử dụng như một đơn
vị "dưỡng quân" nữa. Chiến thuyền Espérance đă đóng một vai tṛ
"chiếm đóng" và "b́nh định" cả một vùng địa phương rộng lớn. V́
tầm quan trọng về mặt chiến thuật, chiến lược như vậy, cho nên
bằng mọi giá, lực lượng nghĩa quân phải phá chiến thuyền ấy cho
bằng được. Để lấy ḷng tin của quân Pháp, Cai Tổng Hồ Quang Minh
tỏ sự "cúc cung tận tụy" ra mặt, tích cực cộng tác với Pháp.
Được thuyền trưởng là Trung úy Parfait tin cẩn, một ngày nọ Cai
Tổng Hồ Quang Minh cùng Hương Lư Nhựt Tảo đến "bái kiến" trung
úy Parfait và "thăm" chiến thuyền. Ông nêu ư kiến, tàu quá lớn
và cao, lại thêm bọc sắt, trời miền Nam quá nóng nực, dễ gây
bệnh thời khí, nên làm mái lá dừa che cho mát. "Chúa tàu" khen
phải, cho thực hiện công tác ngay. Cai Tổng Hồ Quang Minh xin
lănh công tác này và giới thiệu "ông Năm thợ mộc" lên tàu dựng
cột, lợp mái. Ông thợ mộc này chính là Nguyễn Trung Trực. Em
trai ông Cai Tổng là Hồ Quang Chiêu th́ hợp tác cùng ông Nguyễn
Trung Trực nghiên cứu kế hoạch và chuẩn bị trận đồ "chiếm và đốt"
tàu. Nhờ những ngày đóng vai thợ mộc trên tàu. Ông Năm đă am
tường t́nh h́nh: quân số, vơ khí, cách bố pḥng, thói quen của
vị thuyền trưởng và các sĩ quan, cũng như giờ giấc đổi "ca" và
đi "càn" (tảo thanh) các vùng phụ cận. Bọn quân Pháp rất thích
thú với mái nhà lợp bằng lá dừa trên tàu, vừa "ngồ ngộ" lại vừa
khỏe người", ban ngày nắng chang chang khỏi phải xuống hầm tàu.
Giờ lịch sử đă điểm, sáng ngày 11 tháng 12 năm
1861 (nhằm tháng 11 năm Tân Dậu), một toán nghĩa quân làm kế
nghi binh kéo về Kênh Hóng thuộc xă B́nh Lăng, gióng trống khua
chiêng để nhử bọn thủy binh Pháp. Viên sĩ quan chỉ huy hôm đó
quả mắc mưu, bèn cắt cử một đại bộ binh lính, rời tàu để đi càn
quét nghiă quân gây loạn. Vào lúc gần trưa, lính Pháp trên tàu
chỉ c̣n lại một số nhỏ. Phía nghĩa quân được đều động đi phá tàu
dưới quyền chỉ huy của ông Nguyễn Trung Trực, cả nam lẫn nữ đi
trên hai chiếc ghe giả danh và ngụy trang là "đám cưới quê đi
rước dâu". Hai ghe ghé sát tàu xin pẹc-mi (giấy phép) di chuyển
sang bên kia địa phương để rước dâu. Đóng vai chú rể là Nguyễn
Trung Trực, trong người thủ sẵn một chiếc búa thầu nặng năm cân
ta (khoảng 3 kư lô). Nhơn lúc bất ngờ, ông rút búa nện chết tên
lính gác tàu mà "chú rể vừa "múa tay, múa chân" năn nỉ xin giấy
đi "cưới vợ". Bọn lính Pháp trở tay không kịp, không thể sử dụng
súng để bắn trả nên bị tiêu diệt gần hết. Ông Hồ Quang Chiêu th́
đă phục sẵn trên bờ với toán nghĩa quân và dân làng Nhựt Tảo,
diệt gần trọn bọn lính Pháp đóng trên vàm đối diện với chiến
thuyền đậu thả neo. Vừa chiếm xong tàu, ông Nguyễn Trung Trực hạ
lệnh nổi lửa đốt tàu. Có nhiều bà con, gia đ́nh nhà cửa cất gần
nơi tàu thả neo đă tháo cả phên, vàch lá làm "mồi lửa" đốt tàu
cho mau. Hơn nữa, tàu lại có mái lá lợp "ngồ ngộ" do ông "Năm
thợ Mộc" cất sẵn đó, trời lại nóng bức trưa hôm đó nên lửa "bắt"
rất bén! Xoay đi quay lại th́ toàn bộ lực lượng Pháp, tàu chiến
Espérance đă bị "xóa sổ danh bộ!". Sử sách không cho biết số
mạng thuyền trưởng Parfait ra sao? Đi họp với quan đầu tỉnh hay
quan toàn quyền (?) hoặc giả đi săn bắn gần đâu đó (?). Qua
chiến công này, tin tức vang dội tới triều đ́nh Huề. Vua Tự Đức
đă mật phong ông chức Đốc Binh trước khi triều đ́nh kư kết với
người Pháp hiệp ước Nhâm Tuất 1862 vào năm sau. Thiết nghĩ, nhơn
đây chúng ta cũng nên ghi một điểm son cho gia đ́nh Cai Tổng Hồ
Quang Minh.
Ngoài ra, vào tháng năm 1862, ông Nguyễn Trung
Trực c̣n ghi thêm một công trận nữa là tấn công và tiêu diệt một
đơn vị lính Pháp trú đóng đồn tại Thủ Thừa, tỉnh Tân An.
Sau trận Thủ Thừa, ông được thăng chức Thành Thủ
Úy Hà Tiên và chiếu truyền ông phải án binh bất động để chờ kư
hiệp uớc nghị ḥa. Nhưng ông đă không đi nhậm chức, vẫn theo
đuổi con đường kháng chiến chống Pháp. Triều đ́nh Huế phải giáng
chỉ truyền hai ông Phanh Thanh Giản và Trương Văn Uyển thuyết
phục ông thêm. Nhưng rồi ông cũng không nghe theo, quyết giữ lập
trường kháng Pháp bằng vơ lực.
Chương sử kháng Pháp của sĩ phu miền Nam đầy bi
tráng và thật kiêu hùng được tô đậm bằng tên tuổi lẫy lừng của
bốn bậc hào kiệt. Trong khoảng thời gian trước sau và nối tiếp
nhau -- Trương Công Định, Nguyễn Hữu Huân, Vơ Duy Dương -- ba vị
cùng Nguyễn Trung Trực tạo thành ”Tứ Hùng Nam Bộ” tung hoành
khắp Nam Kỳ Lục Tỉnh.
Sau khi được hung tin vị cận tướng Lâm Quang Ky
v́ ḿnh mà hy sinh, và mẫu thân bị bọn Pháp cầm cố, ông Nguyễn
Trung Trực ruốt thắt, ḷng đau vô ngần. Sau nhiều ngày đêm suy
tính, lượng định t́nh thế và thực lực, nhận thấy không nên kéo
dài thêm t́nh trạng tuyệt vọng, ông Nguyễn Trung Trực quyết định
ra đầu hàng. Ông triệu tập nghĩa quân lại truyền:
- Các bạn hăy t́m cách phân tán, chờ tin tôi
”chết” sau khi đánh đổi lấy sự phóng thích cho mẹ già; dân hải
đảo Phú Quốc vô tội, nghĩa quân Kiên Giang kiên cường. Chừng ấy,
giặc Pháp sẽ nới rộng ṿng kiềm tỏa là cơ hội tốt để các bạn tùy
thời t́m lấy sinh lộ hoặc nuôi lấy ư chí tiếp hành công cuộc đại
nghĩa. Đừng bao giờ các bạn nghĩ tới chuyên buông xuôi kẻ bất
cộng đới thiên! Tên tuổi chúng ta mất hay c̣n, vinh hay nhục đều
do tinh thần và hành động của ḿnh định đoạt!
Vừa dứt lời, tất cả nghĩa quân đều khóc, có người quỳ xuống ôm
lấy chân ông xin sống chết cùng ông. Ông sai một nghĩa quân lấy
dây trói ông lại nhưng không ai can tâm làm việc này. Cuối cùng,
ông và một nghĩa quân từ biệt mọi người và ra đi. Trên đường đi,
ông bứt vài cọng dây bông súng biển tự trói lấy để ra vẻ người
ra đầu thú. Ông ngồi trên một chiếc xuồng nhỏ do người nghĩa
quân đi theo chèo tới chiếc tàu Pháp đang đậu ngoài khơi.
Pháp dùng tên Huỳnh Công Tấn, vốn quen biết ông
Nguyễn Trung Trực khi c̣n phục vụ trong hàng ngũ nghĩa quân của
ông Trương Công Định. Tấn khuyến dụ, đối đăi ông trọng hậu để
mong được ông thực tâm quy thuận tân trào, nhưng ông vẫn một mực
giữ khí tiết, chỉ yêu cầu Pháp sớm đem ông ra gia h́nh. Pháp
giải ông về Sài G̣n để thẩm vấn thêm, viên Thiếu tướng hải quân
Ohier hết lời dụ dỗ ông nhưng vô hiệu, cuối cùng phải đưa ông về
Rạch Giá để xử tử.
Ngày 27/10/1868, nhằm ngày 28 tháng 8 năm Mậu
Th́n, Pháp đưa ông ra pháp trường tại chợ Rạch Giá để hành
quyết. Địa điểm hành quyết ngay tại miếng đất đối diện ”chợ nhà
lồng” Rạch Giá, lúc bấy giờ c̣n cây da cổ thụ.
Trên miếng đất thấm máu vị anh hùng, sau đó người Pháp xây lên
Nhà Giây Thép, về sau là Ty Bưu Điện tỉnh lỵ. Riêng cây da cổ
thụ bị đốn đi năm 1947.
Sáng sớm, đồng bào tỉnh nhà đă tề tựu đông đảo
để chứng kiến giờ phút vĩnh biệt của người anh hùng. Cảm động
nhất là bà con từ Tà Niên -- nơi nổi tiếng về nghề dệt chiếu --
đă mang tới những chiếc chiếu hoa cạp điều chọn lọc để trải một
đoạn đường mà người anh hùng dân tộc tiến ra pháp trường để thọ
án tử. Quân đao phủ hôm ấy là một người Cao Miên, thường được
dân Việt gọi là ”ḅn” Tưa, được người Pháp trả công cho mỗi cái
đầu chém rụng một quan tiền. Tương truyền rằng trước khi hành
quyết, ông được Pháp hỏi cần ân huệ chót ǵ không th́ ông chỉ
xin uống một trái dừa tươi. Uống xong, ông ngâm sang sảng một
bài thơ tuyệt mệnh sau đây: