Năm 1844, Trương Định theo cha vào Nam và kết hôn với bà Lê Thị Thưởng, vốn là con gái của một hào phú ở huyện Tân Ḥa (G̣ Công Đông ngày nay). Năm 1854, nhờ sự trợ giúp của bên vợ, Trương Định xuất tiền ra chiêu mộ dân nghèo lập đồn điền Gia Thuận (G̣ Công), v́ thế, ông được nhà Nguyễn phong chức Phó quản cơ. Bản tiểu sử Trương Định hiện treo tại đền thờ ông ở G̣ Công ghi (trích):
- Thời Tự Đức, Trương Định chiêu mộ dân nghèo, khai hoang, lập đồn điền ở Tân Ḥa, được bổ làm Quản cơ. Tướng mạo ông khôi ngô, giỏi vơ nghệ, thông binh thư, thi đậu cử nhân vơ. Ông từng giữ chức Chánh quản cơ chỉ huy 6 liên đội, pḥng giữ Đại đồn Chí Ḥa chống Pháp...
Sự nghiệp
Tháng 2 năm 1859, quân Pháp đánh chiếm thành Gia Định, ông đem nghĩa binh lên đóng ở Thuận Kiều chống trả và đă từng thắng nhiều trận ở Cây Mai, Thị Nghè...
Quốc sử triều Nguyễn chép:
- Trương Định...mộ binh dơng đông lắm, thường cự đánh binh Pháp. Việc ấy tâu lên, Ngài [vua Tự Đức] cho thăng Quản cơ, rồi lại cho lănh Phó lănh binh [1].
Đầu năm 1861, Pháp tấn công Gia Định lần thứ hai, Trương Định đem quân đồn điền của ḿnh phối hợp với binh của tướng Nguyễn Tri Phương pḥng giữ chiến tuyến Chí Ḥa. Khi Đại đồn Chí Ḥa thất thủ, ông lui về G̣ Công, cùng Lưu Tiến Thiện, Lê Quang Quyền chiêu binh ứng nghĩa, trấn giữ vùng Gia Định-Định Tường.
Ở đây, Trương Định tổ chức lại lực lượng, triển khai tác chiến trong các vùng G̣ Công, Tân An, Mỹ Tho, Chợ Lớn, Sài G̣n, Đồng Tháp Mười và kéo dài đến tận biên giới Campuchia.
Đầu năm 1862 Pháp chiếm Biên Ḥa, Trương Định đứng lên mộ nghĩa, người hưởng ứng theo hơn vạn người[2].
Ngày 5 tháng 6 năm 1862, triều đ́nh nhà Nguyễn kư kết ḥa ước với Pháp. Cũng theo sử nhà Nguyễn th́:
- Tháng 7 năm 1862...từ khi đă định ḥa ước rồi, Ngài [Tự Đức] truyền dụ Nam Kỳ nghỉ binh và đ̣i Trương Định ra Phú Yên. Khi ấy trong các tỉnh Gia Định, Định Tường, Biên Ḥa những người ứng nghĩa rủ nhau đoàn kết, tôn Trương Định làm Đại đầu mục, xin cho ra đánh, Đ́nh thần nghị rằng: "bây giờ việc Bắc Kỳ đương khẩn, mà Nam Kỳ chưa có cơ hội ǵ, xin giao Phan Thanh Giản hiểu dụ". Nhưng Trương Định đă lâu mà không chịu về cung chức, bị cách chức hàm.
Trên thực tế, ông đă từ chối thư dụ hàng của tướng Pháp là Bonard, bất chấp chiếu vua ra lệnh băi binh do Phan Thanh Giản truyền vào và rút quân về G̣ Công, được nhân dân tôn là B́nh Tây Đại Nguyên Soái, lấy nơi này làm bản doanh, xây dựng các căn cứ địa kháng chiến.
Ngày 16 tháng 12 năm 1862, Trương Định đă ra lệnh tấn công các vị trí của quân Pháp ở cả ba tỉnh miền Đông Nam Bộ, đẩy Pháp vào t́nh thế lúng túng, bị động. Tháng 2 năm 1863, nhờ có viện binh, Pháp phản công tại Biên Ḥa, Chợ Lớn, bao vây G̣ Công. Ngày 26 tháng 2 năm 1863, Pháp đánh chiếm thành tŕ, ông thoát khỏi ṿng vây và kéo quân về Biên Ḥa.
Tháng 9 năm 1863, tướng Lagrandière sang thay Bonard, mở cuộc càn quét thứ hai, bắt được vợ con và một số tùy tùng của Trương Định.
Ngày 19 tháng 8 năm 1864 , Huỳnh Công Tấn phản bội dẫn đường cho quân Pháp bất ngờ bao vây đánh úp. Bản doanh " Đám lá tối trời[3]thất thủ, Trương Định bị trọng thương (găy xương sống)[4] và ông đă rút gươm tự sát tại Ao Dinh (G̣ Công), để bảo toàn khí tiết vào sáng ngày 20 tháng 8 năm 1864, tức ngày 18 tháng 7 năm Giáp Tư.
Hay tin ông tuẫn tiết, vua Tự Đức bèn truy tặng ông phẩm hàm và cho lập đền thờ tại Quảng Ngăi.
Con ông là Trương Quyền đă rút lên vùng Châu Đốc tiếp tục chống Pháp thêm 6 năm nữa.
Hay tin Trương Định hy sinh, nhà thơ Nguyễn Đ́nh Chiểu đă làm 12 bài thơ và một bài văn tế điếu ông. Trích giới thiệu một bài:
- Trong Nam, tên họ nổi như cồn
- Mấy trận G̣ Công nức tiếng đồn
- Đấu đạn hỡi rêm tàu bạch quỉ
- Hơi gươm thêm rạng vẻ huỳnh môn
- Ngọn cờ ứng nghĩa trời chưa bẻ
- Quả ấn B́nh Tây đất vội chôn
- Nỡ khiến anh hùng rơi giọt luỵ
- Lâm dâm ba chữ điếu linh hồn.
Tuyên bố
Tuyên bố của Trương Định trong thư trả lời thư dụ hàng của tướng Pháp Bonard vào cuối năm 1862:
“ | Triều đ́nh Huế không nh́n nhận chúng ta, nhưng chúng ta cứ bảo vệ Tổ quốc chúng ta. | ” |
Tuyên bố của Trương Định gửi các quan ở Vĩnh Long, để tỏ ư ly khai với Nam triều (v́ sau ḥa ước Nhâm Tuất, vua Tự Đức ra lệnh ông phải băi binh) vào tháng 2 năm 1863:
“ | Muốn trở lại y như xưa, dân chúng ba tỉnh yêu cầu chúng tôi đứng đầu khởi nghĩa, chúng tôi không thể làm ǵ được khác. Chúng tôi chuẩn bị chiến đấu vào hướng Đông cũng như hướng Tây, chúng tôi chống đối và chiến đấu. Chúng tôi sẽ đánh ngă bọn giặc cướp... | ” |
“ | Chúng ta thề sẽ đánh măi và đánh không ngừng, khi ta thiếu tất cả sẽ bẻ nhánh cây làm cờ, lấy gậy gộc làm vơ khí cho quân lính ta... | ” |
Hịch của Trương Định (tháng 8 năm 1864):
“ | Ḷng dân đă muốn ta lên làm nguyên nhung ba tỉnh, ta trông vào ḷng dân yêu thương không phai lạt của mọi người đối với ta. Thế là xong bất dung tha giặc cướp. | ” |
Mấy đoạn trích trên, được ghi trang trọng tại đền thờ Trương Định, ở ngay trung tâm G̣ Công.
Nhận xét
- Trung úy Léopold Pallu (1828-1891), sĩ quan tùy viên Tổng hành dinh của Phó đề đốc Charner, và là người chỉ huy đội thủy quân lục chiến đánh vào Đại đồn Chí Ḥa, thành Định Tường (Mỹ Tho), viết:
- Lúc bấy giờ (tháng 6 năm 1961) có một người An Nam rất cương quyết và hào hùng tên là Trương Dinh[5]cho biết sẽ dấy loạn khởi nghĩa trong toàn xứ...Là một trong số những người nhiều nghị lực nhất, anh ta đánh lừa là đă chết trong trận G̣ Công, nhưng sau đó lại xuất hiện và chiến đấu trong hết mùa mưa...Măi về sau này, khi ta đă chiếm Biên Ḥa, tên Trương Dinh tung hoành tàn phá hết hai vùng tứ giác của ta...[6]
- Trong sách Sài G̣n xưa-Ấn tương 300 năm của Sơn Nam có đoạn:
- Yêu nước đậm đà, khảng khái trước nghĩa lớn, đứng hàng đầu trong phong trào kháng Pháp ở Nam Kỳ vẫn là Trương Định. Mang ơn vua, giữ đất cho vua (G̣ Công là nơi phát tích của Phạm Đăng Hưng và con gái là bà Từ Dũ), nhưng chống lệnh khi cắt đất cho Pháp. Trương Định và dân đồn điền lợi dụng địa h́nh rừng ngập mặn G̣ Công để khởi nghĩa, đắp đập, xây lũy. Giặc phải vất vả, tổ chức nội ứng mới giết được ông, qua nhiều cuộc hành quân cấp tướng, bố trí súng lớn trên thuyền nhỏ, để di chuyển nơi nước cạn. Địch phải đem xác ông phơi trước chợ để làm chứng cớ...và chôn ông giữa chợ, nếu chôn nơi hẻo lánh, e nghĩa quân lập đàn tế cờ, phục thù cho chủ tướng. Cụ Đồ Chiểu đă đem tất cả tâm huyết viết bài văn tế ông và 10 bài liên hoàn[7].