|
LỄ HỘI TP. HỒ CHÍ MINH |
-
-
Hội Chùa Ông Bổn TP HCM
-
Hội miếu Ông Địa TP HCM
-
Lễ hội chùa bà Thiên Hậu
TP HCM
-
Lễ Hội Chùa Ngọc
Hoàng
TP HCM
-
Lễ hội chùa Phước Hải TP
HCM
-
Lễ Hội đền thờ Phan Công
Hớn TP HCM
-
Lễ Hội Đức Thánh Trần TP
HCM
-
Lễ hội Giỗ Tổ Nghề Kim
Hoàn TP HCM
-
Lễ hội lăng Ông - Bà Chiểu
TP HCM
-
Lễ hội nghinh Ông Cần Giờ
TP HCM
-
Lễ Kỳ Yên đ́nh B́nh Đông
TP HCM
|
LỄ HỘI CHÙA NGỌC HOÀNG |
LỄ
HỘI CHÙA NGỌC HOÀNG: Chùa Ngọc Hoàng hay Ngọc
Hoàng điện, nay gọi là chùa Phước Hải, tọa lạc
tại số 73, đường Mai Thị Lựu, gần chợ Đa Kao
thuộc phường Đa Kao, quận I, thành phố Hồ Chí
Minh.
Chùa Ngọc Hoàng được thành lập từ năm 1892 do
một người Hoa tên Lưu Minh chủ xướng. Năm 1900,
công cuộc xây cất chùa hoàn thành, nhưng đến năm
1906 mới làm lễ khánh thành. Chùa khởi nguyên
tên là Ngọc Hoàng Điện, người Pháp gọi là "chùa
Đa Kao", năm 1982 chùa gia nhập Giáo hội Phật
Giáo Việt Nam với ḥa thượng Thích Vĩnh Khương
chủ tŕ, mới đổi tên thành Phước
Hải Tự, nhưng dân gian vẫn quen gọi là chùa Ngọc
Hoàng.
Trong sân chùa Ngọc Hoàng, ngoài hai hồ nuôi cá
và rùa, có một miếu thờ Hộ Pháp và một nhà bát
giác che chiếc đỉnh lớn đúc bằng xi măng giả
đồng dành cho khách hành hương thắp nhang trước
khi vào chùa cũng như ra khỏi chùa. Chùa Ngọc
Hoàng có tổng cộng trên 300 tượng thờ, được phân
bố trong ba gian thờ. Gian ở giữa liền với cổng
vào, là gian thờ các bậc thiên tướng và Ngọc
Hoàng, theo thứ tự từ ngoài vào trong gồm có:
- Thổ địa (bên trái cửa vào), Môn Quan (bên phải
cửa vào).
- Phật Dược Sư, tượng phật duy nhất bằng gỗ trầm
đặt trong lồng kính, ở giữa chánh điện.
- Thanh Long đại tướng (bên phải) và Phục Hổ đại
tướng (bên trái), tượng to bằng người thật.
- Cung thờ Ngọc Hoàng ở giữa, cung thờ Chuẩn Đề
Quan Âm bên phải và cung thờ Bắc Đế, tức Huyền
Vơ hay Trấn Vơ bên trái.
Ở gian thờ Ngọc Hoàng có sáu pho tượng chính:
bên phải gồm ba vị, với giữa là Quan Phu Tử (chủ
về việc vơ) và hai bên là Thiên Tướng và Thiên
Thần. Ngoài ra, c̣n có các tượng thờ khác như:
Nam Tào, Bắc Đẩu, Hoa Đà tiên sư, Tề Thiên đại
thánh, Quan Thánh đế quân, thần Nhật, thần
Nguyệt, Long Mẫu nương nương, Tứ Đại kim quang,
Thái ất chân nhân, Ḥa thượng Đạo Minh, Khuyến
thiện đại sư, hai quan văn, hai quan vơ, hai
đồng tử, Ông bà bà Thiên Lôi cùng bảy thiên
tướng...
Hầu hết các tượng thờ ở đây đều bằng gỗ, một số
ít làm bằng giấy bồi. Riêng tượng của Ngọc Hoàng
là pho tượng ngồi lớn nhất trong chùa. Đầu tượng
Ngọc Hoàng đội măo lớn có mái che trước trán.
Hai tay Ngọc Hoàng cầm lịnh tiễn. Mặt Ngọc Hoàng
b́nh thản, không vui cũng không buồn, mắt trong
tư thế mở nhưng không thấy rơ tṛng mắt, mũi dời
và to. Khuôn mặt tượng Ngọc Hoàng h́nh chữ điền,
hai má cao và rộng, có bốn cḥm râu tỏa dài
xuống ngang vai.
Ngọc Hoàng mặc áo choàng rộng, hai tay áo phủ
tận đến các ngón tay. áo được chạm nối dính hến
vào tượng với kỹ thuật sơn son thếp vàng tinh
xảo làm nổi bật đường nét trang trí trên thân áo
với một con rồng uốn lượn.
Gian bên trái từ ngoài vào, theo thứ tự từ trước
ra sau có những hương án với các tượng thờ sau:
- Gian đầu tiên thờ Kim Hoa thánh mẫu, mười hai
bà mụ và các nhũ mẫu trong các tư thế nuôi dạy
cho trẻ nhỏ. Đây là gian cầu tự cho những người
hiếm muộn.
- Gian tiếp theo là Thập Điện Diêm Vương, với
mười bức chạm gỗ với cảnh mười cửa ngục phân bổ
đều mỗi bên vách năm bức. Nối liền gian Thập
Điện với gian Kim Hoa thính mẫu, có các tượng
thờ: Quan Âm, Kim Đồng, Ngọc Nữ, Địa Tạng Vương
bồ tát (biểu tượng cho sự cứu rỗi), Hoạt Vô
Thường, Tư Mạng sứ quân và Dẫn Hồn Tiền (biểu
tượng sự dẫn dắt, phân biệt linh bổ lành dữ).
- Thần Tài: Trang phục đồ tạng, biểu tượng mang
hết sự rủi ro vào ḿnh và ban phát tài lộc cho
nhân gian. Tượng đứng cuối gian Thập Điện, tay
cầm một cái rổ đựng các gói giấy đỏ bọc mảnh
giấy nhỏ ghi hai chữ Hán "Tài Thần" bên trong để
khách hành hương xin lộc.
- Gian nối liền với gian Thập Điện có các tượng
thờ: Nhị Vị song án, Mă tướng quân, Thành Hoàng
Lỗ Ban và Thái Tuế.
- Gian cuối cùng (hiện không c̣n cho khách vào
chiêm bái) gồm hai hương án thờ Thạch Cẩm Đương
(tục thờ đá của người Hoa) và thờ Ông Tà (tục
thờ đá của người Khmer).
- Bên phải gian thờ Ngọc Hoàng là pḥng khách
của chùa, sau pḥng này có cầu thang lên lầu.
Nơi đây thờ phụng: Quan Âm bồ tát, Quan Thánh Đế
Quân, Hộ pháp và Tổ Lưu Minh - người lập chùa.
Từ lâu chùa Ngọc Hoàng là một trong những cơ sở
tín ngưỡng dân gian thu hút đông đảo khách hành
hương chiêm bái. Vào những ngày rằm, mùng một âm
lịch, nhất là vào các ngày rằm lớn trong năm
(15/1 âm lịch, 15/7 âm lịch, 15/10 âm lịch)
khách đến lễ chùa đông đến hàng vạn người. Tuy
nhiên, dịp lễ hội thu hút khách đông nhất là dịp
lễ vía Ngọc Hoàng vào ngày mùng 9 tháng giêng âm
lịch hàng năm. Vào địp này, tối ngày mùng 8, vị
ḥa thượng trụ tŕ chùa tổ chức tụng kinh cầu
an. Cả ngày mùng 9 dành cho hàng chục vạn khách
đến chiêm bái, có cả người Hoa lẫn người Việt.
Khói hương mù mịt khắp trong ngoài...
Trong các cơ sở tín ngưỡng dân gian của người
Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh, chùa Ngọc Hoàng có
thể xem là một trong những điểm có sức thu hút
khách trong và ngoài nước đến tham quan, chiêm
bái rất đông đảo. (internet)
|
|
LỄ HỘI ĐỨC THÁNH TRẦN - TP.
HỒ CHÍ MINH |
Thành
phố Hồ Chí Minh lễ hội Đền Đức thánh Trần: Liên
tiếp trong ba ngày mùng 8, 9, 10 tháng giêng âm
lịch, ban Quản trị Đền thờ Đức thánh Trần Hưng
Đạo ở số 36 Vơ Thị Sáu phường Tân Định Q1 đă
long trọng tổ chức lễ bái chánh điện và lễ tế cổ
truyền. Đông đảo bà con đă đến dự, làm lễ dâng
hương.
Đại diện Ban quản trị đền đă ôn lại công đức của
Hưng Đạo Đại vương (1213-1300), vị anh hùng kiệt
xuất đời nhà Trần ở thế kỉ 13-14, lập nên nhiều
chiến công hiển hách trong ba lần chống giặc
ngoại xâm Nguyên- Mông, giữ vững bờ cơi và nền
độc lập dân tộc thời ấy. Trận thủy chiến ở sông
Bạch Đằng, bến Chương Dương, Hàm Tử, Tây Kết…
tới nay vẫn c̣n vang danh như hai câu thơ của
Nguyễn Trung Ngạn đời Trần: Lính già từng trải
mùi chinh chiến/Nghe nói Nam chinh ủ mặt mày !
Cuộc kháng chiến đời Trần đă đạt đến tŕnh độ
của một cuộc chiến tranh nhân dân mà người vận
dụng thiên tài chiến lược, chiến thuật là Hưng
Đạo vương Trần Quốc Tuấn.
Lễ hội này hằng năm đều tổ chức trong ba ngày
vừa để nhân dân ghi nhớ công đức của một anh
hùng dân tộc, vừa giáo dục truyền thống cho thế
hệ trẻ hôm nay. (internet)
|
|
LỄ HỘI CHÙA BÀ - TPHCM |
Thờ:
Chùa (Miếu) người Hoa.
Bà Thiên Hậu.
Thời gian: Ngày 15 tháng giêng và 15 tháng 10.
Chính hội: Ngày 23 tháng 3.
Địa điểm: Miếu Thiên Hậu, 710 Nguyễn Trăi, Quận
5.
Đặc điểm: Lễ vật nhiều (heo quay).
Tiền “Phước Sương” dùng vào việc công ích xă hội.
Chùa Bà Thiên Hậu c̣n được gọi là chùa Bà (Chợ
Lớn) của người Hoa tọa lạc tại số 710 Nguyễn
Trăi, Quận 5, TP.HCM. Bà con người Hoa c̣n gọi
là “Pḥ Miếu”, tên chữ Hán là Thiên Hậu Miếu.
Chùa do nhóm người Hoa Quảng Đông xây dựng vào
khoảng thập niên 60 của thế kỷ XVIII, lúc đầu
chỉ là một ngôi miếu và đă trải qua 4 lần trùng
tu (theo thứ tự thời gian: 1800, 1842, 1890 và
1916) mới có được quy mô bề thế như hiện tại.
Chùa Bà Thiên Hậu là một trong các ngôi chùa lớn
và đẹp nhất của hơn 30 ngôi chùa Hoa ở TP.HCM.
Chùa thờ Nữ thần Thiên Hậu. Dựa theo truyền
thuyết được ghi trên tấm bia đá đặt ở chùa, bà
sinh vào thời Tống, niên hiệu Kiến Long thứ nhất
(960), là con thứ 6 của gia đ́nh họ Lâm ở huyện
Bồ Điền, tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc. Khi mới lọt
ḷng mẹ, bà đă tỏa ánh hào quang và hương thơm.
Lớn lên bà thường cưỡi thảm bay lượn trên biển
và du ngoạn nhiều nơi. Đến niên hiệu Ung Hy năm
thứ 4 (987), bà từ giă cỏi trần, mới 27 tuổi và
trở thành hiển linh. Đời Nguyên bà được phong là
Thiên Phi, đến đời Thanh vua Khang Hy gia phong
làm Thiên Hậu. Và danh hiệu Thiên Hậu tồn tại
măi cho đến nay.
Từ truyền thuyết dân gian đă chuyển hóa thành
tính ngưỡng và được những thế hệ sau hương khói
phụng thờ ở nhiều nơi. So những điều ghi ở bia
đá nói trên với một số truyền thuyết về bà ở các
chùa khác th́ có ít nhiều khác biệt, nhưng tựu
trung đều ca ngợi, suy tôn bà là một người phụ
nữ đức hạnh, có ḷng hiếu thảo, xả thân cứu đời,
được các triều đại phong kiến Trung Quốc phong
tặng. Đề cao bà Thiên Hậu, ngưỡng mộ và phụng
thờ bà như một vị hiển thánh, bà con người Hoa
muốn thông qua tấm gương của Bà mà giáo dục cộng
đồng của ḿnh hăy học tập ḷng hiếu thuận, đức
nhân hậu của bà, sống có đạo nghĩa.
Mặt khác, trên con đường vượt sóng gió biển khơi,
đi về hướng Nam t́m đất lập nghiệp đầy gian
truân, họ luôn cầu nguyện bà giúp đỡ, phù hộ. Và
sau khi đă định cư, ổn định đời sống, sum họp
đông vui, làm ăn phát đạt trên đất Việt Nam, quê
hương thứ 2 của họ, họ cùng nhau lập đền thờ để
tỏ ḷng biết ơn sâu xa đối với Bà.
Trải qua nhiều năm tháng, chùa Bà Thiên Hậu đă
giữ một vai tṛ quan trọng trong đời sống tinh
thần và tâm linh không chỉ của người Hoa Quảng
Đông, mà cả người Triều Châu, Phúc Kiến, người
Hẹ. Nhiều người Việt cũng thường đến cúng bái ở
chùa, tham gia các hội lễ, ngày Tết hằng năm với
ḷng thành kính. Điều đó nói lên sự gần gũi về
mặt tính ngưỡng, đồng thời cũng phản ánh tinh
thần đoàn kết cộng đồng Hoa và Việt được h́nh
thành trong quá tŕnh khai phá vùng đất mới.
Xây dựng tương đối sớm so với nhiều chùa Hoa
khác trong thành phố, trải qua nhiều lần trùng
tu chùa bà Thiên Hậu vẫn giữ được phong cách của
một chùa Hoa, từ cách bố trí mặt bằng, đường nét
kiến trúc (cửa ṿm, mái ngói, nóc chùa) cho đến
các tổ hợp điện thờ , hành lang, sân thiên tĩnh...
cùng nghệ thuật trang trí bên trong.
Chùa Bà Thiên Hậu được xây dựng theo h́nh chữ
Quốc hay c̣n gọib là h́nh “cái ấn” - một kiểu
kiến trúc đặc biệt mang tính Trung Hoa - trên
một diện tích khá rộng.
Ở tiền điện, bên trong hai cánh cửa có hai bia
đá đặt sát tường, ghi lại truyền thuyết về bà
bằng chữ Hán và chữ Quốc ngữ. Bên phải có bệ thờ
tượng Phúc Đức chánh thần (tức Ông Bổn) bên trái
thờ môn quan Vương Tả (thần giữ cửa). Trên cửa,
một bức tranh cao gần sát nóc miêu tả bà đang
bay lướt trên sóng nước giữa trùng khơi.
Ở nơi trung điện không có trang thờ mà chỉ đặt
một bộ lư “Phát lan” (mang niên hiệu Quang Tự
năm thứ 12) trên một bàn đá. Một bên bộ lư là
chiếc kiệu lớn sơn son thiếp vàng, và một bên là
chiếc thuyền rồng Thuận Phong (biểu tượng của sự
may mắn , an lành trên biển) cũng sơn son thiếp
vàng, có chạm h́nh nhân. Xưa kia kiệu và thuyền
được khiêng đi trong đám rước, nay tục này đă bỏ.
Sân thiên tĩnh (giếng trời) đă được các nhà kiến
trúc tính toán bố trí khá chặt chẽ, hài ḥa, vừa
có đủ diện tích thoáng, rộng để thông gió vừa
đón nhận được ánh sáng tự nhiên đầy đủ, tạo cho
bên trong chính diện một không khí trang nghiêm,
thanh nhă của một kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng.
Chùa được xây dựng để thờ bà Thiên Hậu, nên
tượng bà được đặt ở nơi trang nghiêm nhất của
chính điện. Bên trong trang thờ, 3 tượng bà đặt
theo thứ tự từ lớn đến nhỏ thành một hàng thẳng,
hai bên có 4 quân hầu. Phía bên trên điện thờ có
khắc ḍng chữ Hán (Thiên Hậu Cung). Trước điện
là một dăy bàn đá nơi để kễ vật dâng cúng. Bên
phải chính điện là trang thờ bà Kim Huê, bên
trái thờ bà Long Mẫu Nương Nương. Đặc biệt trong
tủ kính c̣n lưu giữ một “tướng lệnh” do Ariès kư
năm 1860 (chữ viết bị mờ trên giấy ố vàng) cấm
binh sĩ Pháp và Y Pha Nho không dược phá phách
chùa. Chùa c̣n thờ một số nhân vật khác như Quan
Đế, Địa Tạng và Thần Tài ở gian phụ nằm hai bên
chính điện.
Ngoài những vật liệu xây dựng mang từ vùng Nam
Trung Quôc sang, ở Chùa Bà Thiên Hậu c̣n có
nhiều tượng gốm nung với nghệ thuật thể hiện sắc
sảo rút từ những đề tài lịch sử trong các tiểu
thuyết cổ Trung Quốc như Tam Quốc Chí, Đông Chu
Liệt Quốc... Các nhóm tượng đất nung này được bố
trí một cách hài ḥa với các h́nh tượng thuộc đề
tài cổ điển khác như “tứ linh” (long, lân, quy,
phụng) “lưỡng long tranh châu”, “bái tổ vinh quy”...
Các mẫu vật trang trí bằng gốm màu này được bố
trí dọc trên các đường diềm mái ngói, trên nóc
chùa rêu phong tạo nên vẻ đạp đa dạng pha màu
huyền thoại, làm tăng thêm tính chất mỹ thuật
cũng như nội dung tính ngưởng của công tŕnh.
Bên trong chùa, có thể nói là một sự phối hợp
của nhiều bộ môn điêu khắc, trang trí hội họa
khá đa dạng và phong phú phục vụ cho mục đích
tôn giáo tín ngưỡng của người Hoa. Bên cạnh
những tượng tṛn được tạc bằng những nét tả thực
chân phương, các phù điêu chiếm một vị trí quan
trọng trong việc trang trí, từ các bao lơn,
ḥanh phi, câu đối cho đến bậu cửa, ṿm mái,
những bức chạm lộng và chạm nổi về đề tài chim
muông, hoa trái xen lănh với những đề tài huyền
thoại, vừa tạo nên không khí cổ kính trang
nghiêm, vừa hiện thực, thể hiện hoài băo, ước
vọng một cuộc sống thái b́nh, thịnh vượng nơi
mănh đất mà những người Hoa di cư đă chọn làm
quê hương thứ hai của họ.
Cũng như ở nhiều chùa Hoa khác, hằng ngày vẫn có
người đi lễ chùa Bà, nhưng tập trung đông nhất ở
đây là các ngày sóc (mồng một) và ngày vọng (ngày
rằm), đặc biệt là ngày rằm tháng giêng, rằm
tháng 10 và buổi cúng tất niên chiều 29 tháng
chạp.
Lễ vía bà Thiên Hậu (23 tháng 3) được xem là lễ
hội lớn nhất hằng năm của chùa Bà, trong đó số
nữ bao giờ đi lễ cũng đông hơn nam giới nhiều
lần. Lễ hội không chỉ thu hút người Việt và
người Hoa ở trong quận và thành phố, mà c̣n có
đong đảo người ở các tỉnh khác về dự.
Trước đây, lễ vía bà thường kéo dài cả tuần,
việc cúng tiến, lễ vật mang đến cũng rất linh
đ́nh (riêng heo quay có năm đến 200 con). Có cả
lễ rước tượng à đặt trong kiệu sơn son thếp vàng
cùng thuyền Thuận Phong và các nghi trượng ghi
tên các vị thần có thờ ở chùa. Ngày nay, đám
rước trên đường phố đă được giảm đi, chỉ c̣n tổ
chức ở khuôn viên nhà chùa.
Để chuẩn bị cho ngày lễ vía Bà, từ những ngày
trước đó, ban quản trị nhà chùa đă tổ chức trang
hoàng, sửa sang lại bên trong nội thất và chang
đèn kết hoa ở bên ngoài. Ngay từ chiều ngày 22
tháng 3, ban quư tế tổ chức lễ cúng và với thành
phần tham dự gồm có ban quản trị, những thiện
tín có nhiều đóng góp công sức, tiền của cho nhà
chùa, các quan khách địa phương và nhiều thiện
nam tín nữ khác. Lễ vật dâng cúng gồm có heo
quay, ga, ngỗng (nói chung là thức cúng mặn)
cùng các loại hoa quả, bánh trái. Xưa lễ vía Bà
thường phải cúng đủ “tam sanh” –heo, gà, dê làm
thịt, mổ ruột và để sống. Nay th́ tục lệ như vậy
dâng cúng đă giảm lược hơn.
Sau lời khấn khai mạc của vị chánh tế, người phụ
nữ đọc bản văn viết sẵn bằng tiếng Quảng Đông ca
tụng công đức của Bà, nay nhân ngày vía bà, mọi
người xin tỏ ḷng biết ơn chân thành và mong sao
Bà phù hộ cho mọi người, mọi nhà sống yên vui,
làm ăn phát đạt, đoàn kết tương thân tương ái
với nhau...Sau bài văn tế, các thành viên trong
ban quản trị tổ chức bốc thăm để lựa chọn người
“cầm ấn” (một chiếc ấn bằng đồng khắc cổ tự) lên
trước ngai thờ Bà, đóng lên tấm giấy đỏ mang
ḍng chữ Khai ấn đại kết và Hợp cảnh b́nh an
viết bằng mực xạ, để dán lên hai bên các điện
thời trong chùa.
Sau nghi lễ ba tuần rượu và ba tuần trà ở nơi
chính điện th́ ở phía trước, nơi sân thiên tĩnh
bắt đầu đốt vàng mă và đốt pháo. Khi tràng pháo
dài chấm dứt, mọi người làm lễ chào Bà lần cuối,
một người trong ban quản trị đi thâu nhang tận
tay của từng người dự lễ, để đem đi cắm rải rác
chung quanh chùa.
Bước sang ngày 23 – ngày chánh vía Bà từ 4h sáng,
trong chùa, trên các điện thời, đèn nến thắp
sáng choang, nhang trầm hương ngào ngạt. Sau một
hồi chuông dóng lên, cửa chùa từ từ mở rộng để
đón các đoàn khách đến cúng Bà. Lễ vật dâng cúng
th́ tuỳ hoàn cảnh và ḷng hảo tâm của từng người,
riêng món nhang đèn, giấy vàng bạc, giấy tiền là
những lễ vật không thể thiếu, v́ người Hoa quan
niệm đây là quà biết dâng lên các vị thần. Ngoài
phần lễ bái ở nơi chính điện thờ Bà Thiên Hậu,
khách c̣n tuỳ theo nhu cầu và ước vọng riêng của
từng người, từ việc gia đạo, đến t́nh duyên, con
cái, từ việc cầu sức khoẻ đến chuyện buôn bán
làm ăn... mà mang lễ vật tiếp tục đến cúng bái ở
các điện thờ nhân vật khác.
Sau khi cúng lễ xong, thân chủ thường để lại cho
nhà chùa một phần c̣n một phần th́ mang về nhà,
gọi là để “hưởng lộc thánh”. Trong khi cúng lễ,
khách có thể mua ngay tại chỗ những “ṿng nhang
cầu an” có đường kính trung b́nh từ 50 đến 60cm,
có loại đường kính đến 1 mét. Nhà chùa ghi tên
người đó trên một miếng giấy đỏ đính kèm ṿng
nhang rồi treo lên trần đốt. Mỗi “ṿng nhang cầu
an” như thế cứ cháy suốt đêm trong ṿng một
tháng trời. Đây là một nét đặc trưng ở chùa Hoa,
đặc biệt ở chùa Bà Thiên Hậu và chùa Ông (Nghĩa
An hội quán).
Người đi lễ sau khi cúng bái thường được nhận
của nhà chùa 3 tấm giấy (khổ 12 x 25cm) trên có
in ḍng chữ Hán và đóng triện son: “Thánh Mẫu
toạ trấn, hợp gia b́nh an, bảo hộ an khang”.
Theo cách gọi của người Hoa, đây là “rước vía Bà”
đưa về nơi bàn thờ ở gia đ́nh.
Đến chiều 24 tháng 3, lễ vía Bà kết thúc. Vào
lúc đó, những đội lân cùng xuất hiện, tŕnh diễn
nơi sân chùa, rồi toả về một số ngả phố như để
báo hiệu với mọi người một lễ hôi vía Bà diễn ra
thuận lợi, tốt lành và hy vọng sẽ gặp nhau lại
trong lễ hội năm sau.
Trước ngày giải phóng, lễ vía Bà Thiên Hậu,
ngoài việc cúng bái linh đ́nh, kéo dài cả tuần
lễ, c̣n có các tục mê tín như xin xăm, bói toán,
coi ngày, bay tiền thần... nay những tục lệ ấy
đă giảm đi khá nhiều.
Chùa Bà Thiên Hậu là một ngôi chủa lớn của thành
phố, là một di tích văn hoá có giá trị cao về
mặt nghệ thuật và kiến trúc. Nếu như sự h́nh
thành của các chùa Hoa nói chung, trong đó có
chùa Bà Thiên Hậu, gắn liền với lịch sử định cư
của khu vực Sài G̣n – Chợ Lớn, th́ trên b́nh
diện tôn giáo, tín ngưỡng, việc thờ cúng, sinh
hoạt lễ hội hàng năm ở đây là một biểu hiện rơ
nét quá tŕnh hội nhập của người Hoa vào cộng
đồng tổ quốc Việt Nam từ vô thức đến ư thức. Đă
từ khá sớm, chùa Hoa ở thành phố không chỉ là
riêng của người Hoa mà không ít chùa có sự đóng
góp xây dựng của bà con người Việt, và bà con
người Việt cũng chân thành chia sẻ những tín
ngưỡng của bà con người Hoa. Không ít thợ thủ
công, nghệ nhân người Việt đă đóng góp vào nghệ
thuật xây dựng, trang trí làm tăng thêm vẻ đẹp
của các chùa Hoa.
Bên cạnh những nhu cầu về tinh thần và đời sống
tâm linh được phản ảnh rơ nét trong lễ hội, ư
thức hoà nhập cộng đồng và đoàn kết giữa bà con
người Hoa và bà con người Việt c̣n được thể hiện
rơ hơn ở những mặt hoạt động xă hội, từ thiện mà
nhà chùa ở đây đang đóng góp vai tṛ trung tâm.
Như ta biết, số tiền “phục sương” của chùa Bà
Thiên Hậu hàng năm rất lớn, do bá tánh tự nguyên
đóng góp. Phần lớn số tiền này đă được sử dụng
các việc công ích như: xây dựng trường học, bảo
trợ học sinh nghèo học giỏi hay những em thiếu
điều kiện đến trường, đỡ đầu cung cấp thuốc men,
phương tiện cho một số bệnh viện, bênh xá, cung
cấp thêm tiền ăn cho các cụ già ở trại dưỡng lăo,
cho bệnh nhân các trại phong...
|
|
Nguồn: saigontoserco
Người
Sài G̣n xưa cũng nay có thói quen gọi cặp từ "Lăng Ông Bà
Chiểu" để chỉ lăng thờ Tả quân Lê Văn Duyệt, từng giữ chức
tổng chấn Gia Định thành (tức cả Nam Bộ và tỉnh B́nh Thuận
ngày nay) tại khu vực Bà Chiểu hay cụ thể hơn: Bên cạnh chợ
Bà Chiểu. Có không ít người nhầm tưởng rằng đây là phần mộ
ông và bà tên Chiểu. Không phải vậy. Đây là phần mộ của ông
bà Lê Văn Duyệt.
Hàng năm, tại Lăng Ông có hai lễ hội lớn, đó là ngày giỗ tả
quân vào ngày 1-8 âm lịch và ngày hội đầu xuân mồng 1 và
ngày mồng 2 Tết.
Về lễ hội Tả quân:
Xét riêng phương diện các lễ hội tưởng niệm các nhân
vật lịch sử, th́ đây là lễ hội lớn nhất ở đất Gia
Định xưa và nay. Lễ bắt đầu từ 30 tháng 7 và kết
thúc vào 3 tháng 8. Số người dự hội có đến hàng chục
vạn. Suốt trong những ngày hội tại trung tâm thành
phố này, ḍng người hành hương tấp nập từ các nơi đổ
về không ngớt cả ngày lẫn đêm . Không chỉ người
thành phố mà cả khách tỉnh xa cũng về dự hội. Đáng
chú ư trong số khách đi lễ số lượng người Hoa chiếm
khoảng 50%. Điều này có nguyên nhân lịch sử của nó.
Họ đến dâng hương cầu khấn với ḷng thành kính, để
tạ ơn một vị phúc thần mà lúc sinh thời khi làm Tổng
chấn Gia Định đă có những chính sách, chủ chương
nâng đỡ, tạo điều kiện cho cộng đồng người Hoa phát
triển nghề nghiệp, an cư lạc nghiệp trên quê hương
thứ hai của họ. Người hoa v́ thế đă tôn vinh Tả quân
Lê Văn Duyệt là "Pḥ mă gia gia" coi ông như một vị
thần ngang hàng với ông Bổn trong lịch sử Trung Hoa.
Về lễ hội đầu xuân nơi Lăng Ông:
Ngay đêm 30 Tết từ 22 giờ trở đi, những ḍng người,
những ḍng xe cộ từ nhiều ngả đường trong thành phố
đổ về Lăng Ông đông nghẹt, không có chỗ chen chân,
để thắp hương dâng cúng và hái lộc đêm giao thừa,
nhưng nơi đây, ngoài những cây cổ thụ cao chót vót,
đâu có lộc mà để hái? Để đáp ứng nhu cầu đă trở
thành tập tục này, ban quư tế của lăng đă chuẩn bị
hàng xe ô tô cây "phát tài" từ các làng hoa G̣ Vấp
đưa về để sẵn từ chiều.
Trên sân lăng rộng gần nơi cổng Tam quan, gần nơi
cổng bán hương cho khách vào lễ bái ở lăng, có những
chiếc bàn trên chất cao những cây "phát tài" và cạnh
đó có đặt một thùng "phước sương". Khách đến cứ chọn
cành lộc đầu năm mà ḿnh vừa ư, sau đó cũng tự
nguyện bỏ tiền vào quỹ "phước sương" của lăng (v́ ở
đây không có người bán - hơn nữa ai mà đi bán lộc).
Quang cảnh đêm lễ hội đầu xuân tại nơi đây thật là
náo nhiệt. ở trung điện và chánh điện khói hương
trầm mù mịt, nhóm này ra, nhóm khác vào liên tục
không ngớt, kẻ hái lộc, người "đổi hương" tưng bừng,
rộn rịp, mong mang một chút lộc Thánh về gia ḿnh
trong năm mới.
Người ta thấy bên cạnh người Việt có đông đảo bà con
người Hoa tay cầm cành lộc hoặc cây hương trường
đang cháy đỏ, hoặc cùng lúc cả hai thứ. Có mặt trong
hội đầu xuân này c̣n có mặt không ít người ngoại
quốc cùng tham gia chảy hội với nét mặt hân hoan,
thích thú. Đêm hội kéo dài đến 2 giờ sáng mới văn
người để rồi ngày mồng 1 và mồng 2 lăng Ông lại mở
cửa đón bà con thành phố, mà đông đảo nhất là ba con
tiểu thương, tiểu chủ trong các quận nội thành, và
khách thập phương đổ về với số lượng hàng chục vạn
mỗi ngày.
Miếu
Ông Địa (125 Lê Lợi, G̣ Vấp) h́nh thành
những năm đầu thế kỷ 19 và từng được Vua
Tự Đức sắc phong vào năm 1852. Miếu thờ
Thổ Địa Phúc Đức Chính Thần và nhiều vị
thần dân khác.
Hằng năm diễn ra vào ngày 2/2 âm lịch, là ngày
vía Thổ Địa Phúc Đức Chính Thần. Đây là ngày lễ
hội tiêu biểu cho các lễ hội miếu ở TP. HCM và
Nam bộ. Mở đầu là nghi thức giống trống "khai
tràng" thông báo và lễ. Tiếp theo là phần "Chầu
mời" liên tục bằng điện bát bóng rỗi để thỉnh
thần về dự lễ.
Chiều có tŕnh diễn tuồng hài "Địa Nàng" với
2 nhân vật Ông Địa và Nàng tiên mang nội
dung phê phán thói hư tật xấu trong xă hội
hương thôn xưa. Sau đó là nghi thức múa mâm
vàng, mâm bạc và múa đồ chơi. Kết thúc lễ
hội là nghi thức phát lộc.
Hàng
năm, đến ngày 25/2 âm lịch, thân tộc của ông
cùng bà con nhân dân xă Bà Điểm tổ chức lễ giỗ
ông tại đền thờ theo nghi thức cúng thần. Người
đến dự lễ rất đông để tưởng nhớ vị anh hùng đă
hy sinh thân ḿnh để nhân dân khỏi bị đàn áp bắt
bớ, làm rạng danh truyền thống 18 thôn Vườn Trầu.
Hằng năm cứ vào ngày 25 tháng 2 âm lịch, thân
tộc của ông cùng bà con nhân dân xă Bà Điểm,
huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh tổ chức lễ
giỗ ông tại đền thờ theo nghi thức cúng thần.
Ông là Phan Công Hớn, là người lănh đạo nhân
dân 18 thôn Vườn Trầu, khời nghĩa tấn công
dinh tri huyện Trần Cử - một tên tri huyện
có nhiều nợ máu với nội dung mùa xuân năm
1885 tại Hóc Môn.
Sau đó, để cho nhân dân khỏi bị đàn áp
bắt bớ, ông tự nộp ḿnh và bị Pháp hành
quyết. Nhân dân đă lập đền thờ bên cạnh
mộ phần của ông để ngày nay hương khói
tại ấp Tây Bắc Lân, xă Bà Điểm, huyện
Hóc Môn.
Thời gian: 25/2
âm lịch. Địa điểm: Xă
Bà Điểm, huyện Hóc Môn. TP. Hồ Chí Minh.
Đối tượng suy tôn: Phan
Công Hớn, người lănh đạo nhân dân 18
thôn Vườn Trầu tấn công dinh tri huyện
năm 1885. Đặc điểm: Lễ
giỗ theo nghi thức cúng thần.
Hàng
năm cứ vào độ tháng hai âm lịch, bà
con trong khắp khu vực Sài G̣n Chợ
Lớn (xưa) và nay thuộc các quận 8,
11, 5, 4, B́nh chánh và miệt Cần
Giuộc, Cần Đước - Long An; cả người
Việt lẫn người Hoa lại chuẩn bị lễ
vật để ngày 12 và 13 tháng hai âm
đến cúng viếng đ́nh B́nh Đông.
Theo lời các vị bô lăo kể lại đă lâu
lắm rồi, nơi ngôi đ́nh hiện nay, dân
cư hồi đó thưa thớt làm ăn khó khăn.
Một hôm, có người vớt được chiếc măo
trôi trên rạch, đoán rằng của quan
quân nào đó bị nạn, nên đưa lên g̣
và khấn vái. Lạ thay, sau đó, vùng
này trúng mùa liên tục, dân làng làm
ăn khấm khá qui tụ về dựng nên mái
đ́nh ngày nay. Nơi bệ thờ chính luôn
luôn có những chiếc măo mới được dân
làng sùng bái dâng cúng cho đến tận
bây giờ.
Đ́nh B́nh Đông được xây dựng trên cù
lao ngay nhánh rẽ của ḍng Kinh Đôi,
thuộc phường 7 quận 8 thành phố Hồ
Chí Minh.
Hàng năm lễ Kỳ Yên tự diễn
ra theo nghi thức được
truyền tụng như đầu lễ là
Túc yết, chính lễ là Đoàn (Đàn)
cả diễn ra trịnh trọng có tế
thần gọi là lễ Thỉnh Sanh.
Trong lễ có chánh bái bồi
bái, học tṛ lễ, đào thái
theo chiêng trống, kèn của
nhạc mà hành lễ. Tiếp có lễ
“hát bội” trước là lễ hầu
thần, sau phục vụ bà con đến
chiêm bái. Lệ này diễn ra
hàng năm vào ngày 12 và 13
tháng 2 âm lịch.
Đặc biệt năm nào lễ cúng Kỳ
Yên của Đ́nh cũng thu hút
hàng vạn người dân đến chiêm
ngưỡng cúng bái. Các đ́nh
làng lân cận hoặc ở xa tận
Long An cũng cử đoàn đến
dâng lễ. .
Lễ
hội nghinh "Ông", hay là lễ cúng cá "Ông cá voi"
là tục thờ phổ biến của ngư dân từ đèo Ngang trở
vào. Có nhiều tên gọi khác nhau như lễ rước cốt
ông, lễ cầu ngư, lễ tế cá "Ông", lễ cúng "Ông",
lễ nghinh "Ông", lễ nghinh ông Thuỷ tướng nhưng
tất cả đều có chung một quan niệm rằng cá "Ông"
là sinh vật thiêng ở biển, là cứu tinh đối với
những người đánh cá và làm nghề trên biển nói
chung. Điều này đă trở thành một tín ngưỡng dân
gian phổ biến trong các thế hệ ngư dân ở các địa
phương nói trên.
Lăng ông Thuỷ tướng tại xă Cần Thạnh huyện Cần
Giờ được vua Tự Đức ban sắc phong Nam hải Tướng
quân. Hàng năm lễ tế diễn ra rất trang trọng để
tưởng nhớ công ơn cá "Ông"
Ngày 15/8 không khí lễ hội đă diễn ra nhộn nhịp
ở bên ngoài lăng với nhiều hoạt động văn hoá sôi
nổi. Sáng ngày 16/8, khoảng 10h, các vị trong
hội lăng trong trang phục chỉnh tề làm lễ rước
kiệu của Nam hải Tướng quân xuống thuyền rồng ra
biển. Đoàn ghe nghinh xuất phát tại bến đ̣ Cần
Giờ - Vũng Tàu. Dọc theo đường rước, ngư dân
sống trên biển và bà con hai bên phố bày lễ vật
nghênh đón, khói nhang nghi ngút. Cùng với
thuyền rồng rước thuỷ tướng, có hàng trăm ghe
lớn nhỏ, trang hoàng lộng lẫy, cờ hoa rực rỡ
tháp tùng ra biển nghênh ông. Trước mũi ghe là
hương án và mâm lễ vật. Trên các ghe lớn nhỏ này
có chở hàng ngàn khách và bà con tham dự đoàn
rước. Đoàn rước đi khoảng hai giờ th́ quay về
bến nơi xuất phát, rước ông về lăng ông Thuỷ
tướng. Tại bến một đoàn múa lân, sư tử, rồng đă
đợi sẵn để đón ông về lăng.
Khi rước ông vào lăng, các nghi thức đón và tế
diễn ra trang trọng, đúng với nghi thức cổ
truyền. Các lễ cầu an, xây chầu đại bội, hát bội
diễn ra tại lăng ông Thuỷ tướng. Ngoài lăng, có
các hoạt động văn hoá văn nghệ. Vào khoảng 20 -
23h cùng ngày lễ cúng tế, hát bội vẫn tiếp tục
diễn ra trong lăng.
Sáng 17/8 từ 8h - 22h tại lăng ông Thuỷ tướng
diễn ra lễ tôn vương ông Thuỷ tướng theo sắc
phong. Lễ cúng có hát thờ. Sau phần lễ tôn ông
theo sắc phong cũng là lúc chấm dứt lễ hội.
Lễ
hội Giỗ Tổ Nghề Kim Hoàn diễn ra trong 3 ngày 6,
7, 8 tháng 2 âm lịch hằng năm tại Hội quán Lệ
Châu, 586 Trần Hưng Đạo,quận 5, TP Hồ Chí Minh.
Lễ hội được tổ chức rất qui mô, quy tụ hàng ngàn
người trong ngành thợ kim hoàn, không chỉ riêng
Thành Phố Hồ Chí Minh mà từ các tỉnh Nam Bộ cũng
về dự, cúng bái những tổ sư khai sáng ngành kim
hoàn. Trong những ngày diễn ra lễ hội, Lệ Châu hội
quán được trang hoàng rực rỡ, nến và hương được
thắp từ trong đến ngoài, tạo cho ngày giỗ hết
sức trang nghiêm. Mặc dù mùng 7 mới là chính lễ,
nhưng việc cúng tế đă được chuẩn bị trước đó vài
ngày.
Mở màn giỗ tổ là tối mùng 6 – 2 với nghi
thức cúng cầu quốc thái dân an, tuyên đọc
sắc phong tổ sư thợ bạc Việt Nam của các vị
vua Triều Nguyễn cho người tham dự, đặc biệt
là người trong nghề hiểu biết xuất xứ của tổ
nghề. Ngày chánh tế mùng 7 – 2, cúng ba
“Viên” theo nghi thức lễ giỗ truyền thống.
Viên thứ nhất cúng Chấp minh vào 8 giờ sáng
để rước tổ sư. Viên thứ hai cúng Chánh tế tổ
sư từ 22 giờ đến 24 giờ. Viên thứ ba diễn ra
vào 16 giờ ngày 8 – 2, tế nghĩa từ - những
người có công xây dựng Lệ Châu hội quán.
Viên là cách gọi về mỗi phần lễ. Viên
được tiến hành theo nghi thức cổ truyền,
dâng phẩm vật như trà, bánh, trái cây,
heo quay…Trong các viên, chánh hoặc phó
hội trưởng Lệ Châu hội quán đọc văn tế
đọc trong ngày giỗ tổ do soạn giả cải
lương Viễn Câu sáng tác, thay v́ xưa kia
chỉ xây chầu hát bội. Những thành viên ban quản trị đền thờ
trong bộ lễ phục áo dài khăn đóng, đứng
trước Bài Vị tổ sư vái lạy. Bên trong
đền, những người thợ bạc thắp hương và
dâng mâm hoa quả xếp h́nh long, lân, quy,
phụng với tấm ḷng thành kính, biết ơn
người đă có công truyền dạy nghề cho con
chấu, giúp ích cho xă hội và mang lại
cuộc sống ấm no cho gia đ́nh họ.
Nếu xưa kia, Lệ Châu Hội Quán là nơi hội
họp quan trọng của những người thợ bạc
vùng đất lục tỉnh th́ ngày nay, Lệ Châu
hội quán đă trở thành nơi để thợ kim
hoàn thể hiện ḷng biết ơn đối với tổ
nghề. Chính nơi đây họ c̣n t́m thấy một
sức mạnh tinh thần để có thêm niềm tin
đối với bản thân cũng như nghề nghiệp.
Lễ
kỳ yên đ́nh Phú Nhuận, được tổ chức
vào khoảng 16-18 tháng 01 âm lịch
hàng năm, tại 18 đường Mai Văn Ngọc
phường 10, Phú Nhuận TP Hồ Chí Minh.
Trong lễ có các nghi thức tụng kinh
cầu an, lễ tế, nghi thức tôn vương
và hồi chầu nhằm suy tôn Phật, thần,
các vị tiền hiền, hậu hiền.
Hiện nay, c̣n nhiều ư kiến khác nhau,
về thời gian thành lập đ́nh Phú
Nhuận, nhưng ư kiến được nhiều người
ủng hộ nhất, là đ́nh được xây dựng
vào đầu thế kỷ 19. Qua các tài liệu
Hán Nôm trong đ́nh cho thấy, mốc
thời gian sớm nhất, mà đ́nh được ghi
chép bằng văn tự là sắc phong của
vua Tự Đức ban cho vào năm 1852. Đó
là văn bản cổ xưa nhất, xác định
danh tánh ngôi đ́nh, chính v́ vậy,
nhiều người đă lấy mốc xây dựng đ́nh
là năm 1852, bởi họ chưa t́m thấy
một bằng chứng nào chắc chắn hơn.
Tuy nhiên, cũng có ư kiến khác
cho rằng: Đ́nh Phú Nhuận được
tái thiết vào năm 1852, nghĩa là
đ́nh đă có từ trước đó. Theo di
tích c̣n lại hiện nay, là một
cây đ̣n vơng trên nóc đ́nh có
khắc chữ Hán " Tự Đức ngũ niên
", nghĩa là năm Tự Đức thứ năm -
tức năm 1852. Đ́nh được tái
thiết, v́ lúc đầu, nằm ở vị trí
khác, bên bờ một con kinh đào (đă
lấp), bên cạnh chùa Cây Sai (chùa
Phú Thạnh) trên con đường Huỳnh
Văn Bánh hiện nay. Vào khoảng
giữa thế kỷ 19, dân cư bắt đầu
quy tụ về vùng Phú Nhuận, phần
lớn, họ thuộc gia đ́nh binh sĩ
vào đóng ở trấn Phiên An, hoặc
di dân từ "đàng Ngoài" vào.
Ông Lê Tự Tài, quê ở Bắc Bộ vào
Gia Định rất sớm, có công huy
động dân khẩn hoang, lập ấp ở
quanh vùng cầu Kiệu. Ông Tài,
từng là thôn trưởng thôn Phú
Nhuận và trở thành Xă trưởng,
khi Phú Nhuận đổi thành xă, do
đó, người ta quen gọi ông là xă
Tài. Nhận thấy đ́nh Phú Nhuận,
trước kia nằm ở vị trí vùng
trũng, gần rạch Thị Nghè, thường
bị lầy lội vào mùa mưa nên xă
Tài hiến cho làng Phú Nhuận hai
mẫu đất trên g̣ Kim Qui, để dời
đ́nh về vị trí hiện nay.
Theo các tài liệu hiện có ở
đ́nh, năm 1852 khi mới tái
thiết, đ́nh Phú Nhuận, do
hội tề làng Phú Nhuận quản
trị, kinh phí xây dựng do
quỹ làng xuất ra và một phần
do dân làng tự ngyện đóng
góp.
Lễ Kỳ yên bắt đầu bằng nghi
thức tụng kinh cầu an của
Phật giáo, tiếp theo là phần
múa lân và biểu diễn vơ
thuật cổ truyền, các nghi
thức tế thần, tế tiền hiền,
hậu hiền. Buổi tối có phần
xây chầu, đại bội và hát bội.
Ngày thứ hai và thứ ba có
nghi thức tế nam quan, nữ
quan theo truyền thống Bắc
bộ. Chấm dứt lễ hội là nghi
thức tôn vương và hồi chầu
theo truyền thống các đ́nh
Nam bộ.
Chùa
Ông Bổn hay c̣n gọi là (Nhị
phủ miếu), tọa lạc tại đường
Hải Thượng Lăn Ông, quận 5
(TP. Hồ Chí Minh), hàng năm
có nhiều lễ hội lớn. Đặc
biệt ngày lễ chính của chùa
là rằm tháng Giêng và rằm
tháng Tám theo âm lịch.
Lễ vật cúng ông Bổn thường là
heo quay, heo sống, gà luộc, hoa
trái, nhang đèn v.v... Ngươi Hoa
phần lớn là người gốc Phúc Kiến
đem lễ vật đến chùa cúng rất
đông. Bà con người Hoa thường
mua những ṿng hương thắp cúng
treo khắp ṿm trần chùa tỏa khói
thơm nghi ngút suốt nhiều tháng.
Ngoài hai ngày lễ chính, chùa
Ông Bổn cũng có một số bà con
người Hoa đến cúng chùa vào dịp
Tết Nguyên đán, Nguyên Tiêu, Rằm
tháng Chạp... Người Hoa ở thành
phố tới lễ chùa, dự hội rất đông
vui. Thường vào dịp tết Nguyên
Đán, các đội múa Rồng đến tổ
chức biểu diễn múa ngay sân chùa
thu hút hàng ngàn người xem. Các
đội vơ thuật, thể dục thể thao,
cũng thường tổ chức các cuộc thi
đấu tại sân chùa.
Vào Rằm tháng Giêng một số
bà con người Hoa đến lễ chùa
và xin vay mượn tiền của các
vị thần thánh trong chùa như
Ông Bổn, Quan Công để làm ăn
buôn bán. Sự vay mượn này có
tính chất tượng trưng, nhưng
đến cuối năm vào Rằm tháng
Chạp, bà con đến chùa trả lễ
đầy đủ cả vốn lẫn lời bằng
số tiền mặt bỏ vào các thùng
phước sương. Vào dịp này số
người đến chùa Ông Bổn, cũng
như nhiều chùa khác xin xăm,
bói toán khá nhộn nhịp.
HỘI
CHÙA ÔNG BỔN: Chùa ông Bổn của người Hoa ở Chợ
Lớn, c̣n gọi là Nhị phủ miếu, tọa lạc tại đường
Hải Thượng Lăn Ông, quận 5 (TP. Hồ Chí Minh).
Chùa có vị trí quan yếu đối với người Hoa gốc
Phúc Kiến ở quận 5...
Theo tài liệu của Lư Văn Hùng trong Gia Định
tràng Phật Tích cổ th́ ông Bổn chính là Châu Đạt
Quan, một viên quan của triều đ́nh Trung Hoa đời
nhà Nguyên, thế kỷ thứ XIII. Ông tham gia các sứ
bộ Trung Hoa đến nhiều nước ở Đông Nam Á, trong
đó có vùng đất nam Việt Nam và Chân Lạp. Ông là
nhà viết sử và nhà du kư... nổi tiếng trong lịch
sử Trung Hoa cổ đại. Từ miền Chân Lạp trở về,
ông viết quyển Chân Lạp phong thổ kư (ghi chép
về phong tục, đất đai và con người) mô tả vùng
đất cực nam Đông Dương thế kỷ XIII...
Chùa Ông Bổn - Nhị phủ miếu có kiến trúc tổng
thể theo h́nh chữ khẩu, gồm bốn dăy nhà dài,
vuông góc nhau, khoảng trống ở giữa tạo nên sân
thiên tỉnh.
Nguồn: tourmiennam |