|
Lễ hội dân gian của đồng bào các dân tộc
thiểu số ở Kon Tum
|
Tŕnh diễn lễ hội của đồng bào dân tộc BahNar |
Lễ hội của các tộc người ở Kon Tum có dáng vẻ riêng mang tính khu
vực. Lễ hội cộng đồng được sản sinh trong điều kiện, hoàn cảnh sống,
lao động sản xuất gắn liền với núi rừng mênh mông vô tận; chính từ
đó, nó chứa đựng một sắc thái văn hóa riêng – văn hóa lấy con người
làm chủ, lấy đất trời làm khuôn mẫu, văn hóa ấy là sự hài ḥa của
nắng mưa, của núi rừng và nương rẫy.
Lễ hội dân gian của đồng bào các dân tộc thiểu số ở Kon Tum đều là
những lễ hội mang tính qui mô nhỏ, được thể hiện trong phạm vi một
gia đ́nh, nhóm gia đ́nh, cao nhất là một cộng đồng làng.
Hệ thống lễ hội của các dân tộc ở Kon Tum chia làm ba đường dây
chính bao gồm : Thứ nhất là hệ thống lễ hội xung quanh ṿng đời
người với quan niệm con người từ khi sinh ra đến khi xuống mồ phải
trải qua một quá tŕnh của mối quan hệ ứng xử, mối quan hệ cá nhân
với cá nhân; cá nhân với cộng đồng; cá nhân, cộng đồng với đấng siêu
nhiên (Jàng). Trong khi điều kiện sinh tồn của con người c̣n muôn
vàn khó khăn, phải đối mặt với đói nghèo, bệnh tật, thú dữ, chết
chóc… Do đó ṿng đời người cũng gắn liền với cả một hệ thống lễ hội
tương ứng trong mỗi thời kỳ và t́nh huống cụ thể.
Một số lễ hội điển h́nh về chu kỳ ṿng đời người của đồng bào các
dân tộc thiểu số Kon Tum được thể hiện như Lễ cưới: xem xét từ lễ
thức hôn nhân – công việc hệ trọng của mỗi cá nhân, yếu tố cơ bản,
tiền đề sản sinh ra con người. Hôn nhân được gia đ́nh và cộng đồng
dành cho một sự quan tâm đặc biệt, từ nghi thức, nghi lễ, các điều
kiện vật chất và tinh thần phong phú, sắc thái t́nh cảm đặc biệt,
mối quan hệ ứng xử đa chiều… trong không gian văn hóa cộng đồng.
Lễ thổi tai:
th́ lại bao hàm nhiều ư nghĩa bởi kết quả của hôn nhân là những đứa
con của gia đ́nh – thành viên mới của cộng đồng. Đi kèm với nó là
những lễ thức tương ứng. Từ lễ cầu đẻ thuận, lễ đặt tên, đặc biệt là
lễ thổi tai; chưa làm lễ thổi tai th́ chưa được coi là thành viên
chính thức của cộng đồng. Khi đứa trẻ được khoảng 3-4 tuổi, gia đ́nh
và cộng đồng tổ chức lễ thổi tai. Tùy theo điều kiện kinh tế mà gia
đ́nh tổ chức ở quy mô to, nhỏ khác nhau, điều kiện đó không quan
trọng. Điều cốt yếu và có ư nghĩa nhân văn nhất là trong cuộc lễ,
già làng, cha mẹ và mọi người nói vào tai (thổi) đứa trẻ luồng sinh
khí – những điều tốt đẹp nhất, mang ư nghĩa của sự định hướng, chỉ
bảo, dặn ḍ, cầu mong đứa trẻ lớn lên trở thành người con ngoan của
gia đ́nh và xă hội. Và cũng từ đây, đứa trẻ được công nhận là một
thành viên chính thức của cộng đồng.
Lễ cúng đau ốm: Trong
hoàn cảnh sống hiện tại của người dân ở Tây Nguyên nói chung và ở
Kon Tum nói riêng c̣n rất nhiều khó khăn về điều kiện vật chất,
sinh hoạt, môi trường, khí hậu khắc nghiệt…; hơn nữa, kiến thức về y
học rất hạn chế, người ta không biết được nguyên nhân hoặc loại bệnh
mắc phải. Họ cho rằng người đau ốm là do ma rừng, ma suối bắt hồn;
do đó, chỉ có cách làm lễ cúng cầu mong được trợ giúp. Khi đó, thầy
cúng được mời tới và tiến hành nghi lễ. Lễ vật dùng cho tất cả nghi
lễ này là rượu và gà. Qua nghi lễ, ư nguyện là cầu mong Jàng trả lại
hồn cho người ốm để chóng khỏi bệnh, nếu cúng không khỏi th́ người
ta cúng tiếp và dùng lễ vật lớn hơn như heo, ḅ, trâu…
Lễ tang: Tín
ngưỡng nguyên thủy của một số dân tộc thiểu số ở Kon Tum cho rằng
con người chết không phải là hết, chết chỉ là sự chuyển chỗ về với
ông bà và tiếp tục tái sinh ở kiếp khác (luân hồi). Do vậy, lễ tang
chỉ là một cuộc tiễn đưa đầy lưu luyến giữa người đi kẻ ở. Khi gia
đ́nh có người chết, người nhà nổi chiêng, trống báo hiệu cho toàn
thể cộng đồng biết để đến cùng gia đ́nh lo làm ma. Người chết được
thay áo, váy, khố mới, được đưa ra khỏi nhà và đặt trong nhà tang.
Ngôi nhà vừa được cả cộng đồng cùng làm cho ma bằng tranh, tre, nứa
gọi là nhà mồ. Người chết được đặt vào quan tài làm bằng một thân gỗ
to, khoét rỗng và đậy nắp rồi buộc chặt lại, sau đó dùng đất sét
trét kín những khe hở. Lúc này, mọi người mang đến rượu, heo, gà
cùng nhà chủ là bữa ăn cộng đồng chia tay với người chết. Toàn thể
cộng đồng ăn uống, nhảy múa, đánh cồng chiêng liên tục cả ngày xung
quanh nhà ma. Đến ngày thứ 3 (có khi 4-5 ngày), người ta mới đem đi
chôn tại nghĩa địa của làng. Người chết được chia của bằng người
sống v́ họ cho rằng đến nơi ở mới cần những đồ dùng, phương tiện để
tiếp tục sinh hoạt và lao động. Tài sản được chia gồm : Chiêng, ché,
gùi, ŕu… nhưng tất cả các thứ này đều được làm vỡ hay bẻ găy, bởi
theo quan niệm của họ, thế giới ma là thế giới lộn ngược với thế
giới của người sống – xấu là tốt, vỡ là lành, ngày là đêm…
Theo BĐT KomTum
|
LỄ HỘI
KON TUM |
LỄ HỘI CÚNG ĐẤT LÀNG CỦA NGƯỜI
BA NA - KON TUM |
Lễ
hội Cúng Đất làng của người
Ba Na ở Kon Tum: Con người
từ khi sinh ra đến khi xuống
mồ phải trải qua nhiều quá
tŕnh của mối quan hệ ứng xử;
mối quan hệ Người - Người (cá
nhân với cá nhân), mối quan
hệ cá nhân với cộng đồng;
mối quan hệ cá nhân, cộng
đồng với đấng siêu nhiên -
Giàng. Trong khi điều kiện
sinh tồn của các dận tộc c̣n
gặp rất nhiều khó khăn phải
chống chọi với thiên nhiên,
thú dữ, bệnh tật, đói nghèo,
chết chóc... mà tŕnh độ
nhận thức khoa học của con
người hạn chế. Do đó, ṿng
đời người cũng gắn liền với
hệ thống Lễ - Hội tương ứng
trong mỗi thời kỳ, t́nh
huống cụ thể. Có Lễ Bỏ Mả (Pơ
Thi), Lễ Ăn Trâu, Lễ hội
mừng Nhà rông mới, Lễ cúng
Đất làng...
Lễ Cúng
Đất Làng là Lễ hội của người
Ba Na sống ở Kon Tum và Gia
Lai. Dân làng Ba Na làm lễ
cúng đất làng vào cuối tháng
2 đầu tháng 3 âm lịch khi
chuẩn bị vào vụ sản xuất
hoặc khi dọn đến vùng đất
mới. Trước hôm dựng làng
đồng bào Ba Na làm lễ kéo
dài 2 ngày. Họ khấn các thần
linh phù hộ cho công việc
làm ăn thuận lợi, và thông
báo cho thần linh biết công
việc làm ăn trong năm mới.
(internet)
Nguồn: saigontoserco
|
|
LỄ CÚNG ĐAU ỐM - KON TUM |
Lễ
cúng đau ốm: Trong hoàn cảnh
sống hiện
tại của người dân ở
Tây Nguyên nói chung và ở
Kon Tum nói riêng c̣n rất
nhiều khó khăn về điều kiện
vật chất, sinh hoạt, môi
trường, khí hậu khắc nghiệt…;
hơn nữa, kiến thức về y học
rất hạn chế, người ta không
biết được nguyên nhân hoặc
loại bệnh mắc phải. Họ cho
rằng người đau ốm là do ma
rừng, ma suối bắt hồn; do đó,
chỉ có cách làm lễ cúng cầu
mong được trợ giúp. Khi đó,
thầy cúng được mời tới và
tiến hành nghi lễ. Lễ vật
dùng cho tất cả nghi lễ này
là rượu và gà. Qua nghi lễ,
ư nguyện là cầu mong Jàng
trả lại hồn cho người ốm để
chóng khỏi bệnh, nếu cúng
không khỏi th́ người ta cúng
tiếp và dùng lễ vật lớn hơn
như heo, ḅ, trâu…(internet)
|
|
LỄ
THỔI TAI |
Lễ
thổi tai: th́ lại bao hàm
nhiều ư nghĩa bởi kết quả
của hôn nhân là những đứa
con của gia đ́nh - thành
viên mới của cộng đồng. Đi
kèm với nó là những lễ thức
tương ứng. Từ lễ cầu đẻ
thuận, lễ đặt tên, đặc biệt
là lễ thổi tai; chưa làm lễ
thổi tai th́ chưa được coi
là thành viên chính thức của
cộng đồng. Khi đứa trẻ được
khoảng 3-4 tuổi, gia đ́nh và
cộng đồng tổ chức lễ thổi
tai. Tùy theo điều kiện kinh
tế mà gia đ́nh tổ chức ở quy
mô to, nhỏ khác nhau, điều
kiện đó không quan trọng.
Điều cốt yếu và có ư nghĩa
nhân văn nhất là trong cuộc
lễ, già làng, cha mẹ và mọi
người nói vào tai (thổi) đứa
trẻ luồng sinh khí - những
điều tốt đẹp nhất, mang ư
nghĩa của sự định hướng, chỉ
bảo, dặn ḍ, cầu mong đứa
trẻ lớn lên trở thành người
con ngoan của gia đ́nh và xă
hội. Và cũng từ đây, đứa trẻ
được công nhận là một thành
viên chính thức của cộng
đồng. (internet)
Nguồn: saigontoserco
Lễ
đặt tên - Thổi tai
của người Êđê (Đắk Lắk)
“Lễ đặt tên - thổi tai là lễ
thức phải có trong nghi lễ
ṿng đời của người dân tộc
Êđê. Lễ được tổ chức đơn
giản nhưng quan trọng trong
phạm vi gia đ́nh, ḍng tộc.
ở buôn chúng tôi lễ đặt tên
- thổi tai và lễ cúng cầu
sức khỏe là những nghi lễ
truyền thống c̣n được ǵn
giữ trong cộng đồng Êđê".
Các lễ vật gồm: Một chén
rượu, một con gà trống (con
trai cúng gà trống, con gái
cúng gà mái), một quả cà
đắng, một củ nén, một lá ổi
rừng (nếu không có lá ổi th́
dùng lá bằng lăng), một chén
bằng đồng (đựng nước sương
hứng từ trước). Con anh chị
là cháu trai nên có thêm một
cái dùi, một cái đục, một
con dao gọt.
Người đỡ là bà HDiết Mlô, 68
tuổi, là người làm lễ đặt
tên - thổi tai cho cháu bé (theo
phong tục của người ê đê, lễ
này không đánh chiêng). Lễ
đặt tên được làm trước. Bà
đỡ đặt các lễ vật trong cái
thúng bên cạnh cháu bé và
cầu nguyện: "Nay ta đặt tên
cho cháu, nếu cháu ưng tên
ta đặt th́ cháu hết khóc và
ngủ thật ngon. Nếu không
thích tên này, cháu hăy khóc
thật to". Sau đó, bà đọc tên
từng người trong ḍng tộc đă
quá cố. Khi bà đọc đến tên Y
Kương, cháu ngừng khóc và
tên đó đă được dùng đặt tên
cho cháu bé.
Sau khi đọc tên xong, bà
HDiết Mlô lấy một chút gan
gà cho cháu bé ăn, lấy lá ổi
nhúng nước sương trong chén
đồng bôi lên miệng cháu bé.
Bà cầu nguyện: "Này cháu, ta
cho cháu ăn gan này để sau
này cháu gan dạ, uống nước
để khi gặp sương gió dăi dầu
không quản vất vả, mệt nhọc
cháu nhé! ". Rồi bà lấy nước
sương bôi lên tay chân cháu
bé và nói: "Này cháu, ta bôi
nước sương lên tay chân cháu,
mong cháu siêng năng, chăm
chỉ, bất kể ngày đêm, mưa
nắng cũng không sợ". Tiếp
đến là lễ thổi tai: Bà HDiết
MLô cầm một củ gừng, một củ
nén (có nơi dùng ống nứa),
thổi vào hai lỗ tai của cháu
bé và cầu nguyện: "Này ta
thổi gừng này, nén này vào
hai lỗ tai cháu, để tai cháu
được thính, mắt cháu được
sáng như sao Mai và phải
ngoan ngoăn vâng lời ama,
amĩ". Bà cầm cái dùi, cái
đục, con dao lên cầu nguyện:
"Này ta cầu mong cho cháu
sau này lớn lên có đôi bàn
tay khéo léo biết rèn, biết
đan gùi, rổ, rá để dùng".
Cuối cùng bà lấy một sợi chỉ
đen cột vào tay cháu bé để
chứng tỏ cháu bé đă được làm
lễ đặt tên - thổi tai và
thật sự có tên từ bây giờ.
Hiện nay ở buôn Ko Tam nói
riêng và xă Êu Tu nói chung,
cùng với việc duy tŕ lễ đặt
tên - thổi tai, lễ cúng cầu
sức khỏe, một số lễ hội
truyền thống của đồng bào
dân tộc Êđê đă và đang từng
bước được phục hồi như lễ
cúng bến nước, lễ kết nghĩa
anh em…
(Theo Đắk
Lắk)
|
|
LỄ HỘI MỪNG NHÀ RÔNG MỚI - KON
TUM |
Lễ hội
mừng nhà rông mới của dân
tộc Gia Rai, Kon Tum: Trong
nắng gió cao nguyên lồng
lộng, đồng bào dân tộc Gia
Rai ở Ya Chim, tỉnh Kon Tum
náo nức tổ chức lễ hội mừng
nhà rông mới.
Từ mấy
ngày trước, các già làng đă
tập trung bàn bạc công việc
chuẩn bị cho lễ hội. Nghi
thức đầu tiên là chọn vị trí
trồng cây nêu. Họ chọn một
ghè rượu nhỏ và cắt tiết một
con gà trống cúng báo với
Giàng, xin phép mở hội. Bát
tiết gà ḥa rượu cúng là vật
thiêng, nên phụ nữ, con trẻ
không được đụng vào. Các già
làng đem bát tiết ra vị trí
dựng nêu. Làng dựng hai cây
nêu, một để buộc trâu c̣n
một để buộc dê, cả hai đều
là con đực mầu đen. Mỗi cột
nêu c̣n trồng một cây Pơ
lang (cây hoa gạo) tượng
trưng cho sự trường tồn của
cộng đồng.
Già làng
A Zui, chủ lễ, cầm bát tiết
gà đưa quanh cây nêu lớn năm
ṿng: ba ṿng từ phải qua
trái, hai ṿng từ trái qua
phải. Theo quan niệm của họ,
ngược chiều kim đồng hồ là
chiều lặn của mặt trời,
chiều đến với ông bà tổ tiên,
c̣n xuôi chiều kim đồng hồ
là chiều vận động bất tận
của mặt trời.
Trong khi
hành lễ, họ kiêng tránh để
bát tiết gà bị đổ, do họ sợ
rằng dân làng sẽ gặp những
điều không hay. Cây nêu là
một công tŕnh nghệ thuật
tổng hợp, chỉ dùng tre, gỗ
kết hợp điêu khắc và hội họa,
trang trí mầu đen, đỏ, trắng
được lấy từ than củi, đất,
đôi khi từ máu các con vật
hiến sinh. Trên thân cây nêu
có các h́nh trang trí như
h́nh mặt trời, tay thần, cây
rau dớn, hoa văn kỷ hà. Dựng
xong cây nêu, trai tráng
dưới sự điều khiển của già
làng buộc trâu, dê vào tḥng
lọng. Trâu và dê là vật cúng
thần nên tḥng lọng cũng
được làm rất công phu. Họ
giết một con heo nhỏ để báo
với Giàng việc này. Sau đó
các cô gái làng tập trung
chế biến rau rừng thành
nhiều món ăn độc đáo. Cánh
đàn ông th́ chuẩn bị một ghè
rượu thiêng.
Lúc này tiếng chiêng cồng
bắt đầu nổi lên trầm hùng
cùng những ṿng múa xoang
của các cô gái. Bài cồng
chiêng thứ nhất mang ư nghĩa
mừng nhà rông mới và mời các
thần linh về chứng kiến lễ
ăn trâu của dân làng. Bài
thứ hai mời ông bà tổ tiên,
c̣n bài thứ ba mời bà con xa
gần về dự hội.
Sau đó họ tiến hành một thủ
tục tâm linh gọi là prế
prang. Già làng dùng một sợi
dây dài, buộc một đầu vào
gốc nêu, dây được kéo dài ra.
Sau hiệu lệnh của ông, tất
cả già trẻ trai gái đều cầm
tay vào sợi dây. Vài phút
sau đầu dây được chuyển từ
cột nêu buộc trâu sang cột
buộc dê.
Các già
làng giải thích rằng, dân
làng quá đông, không đủ chỗ
cho tất cả mọi người cùng
lúc sờ vào cột nêu nên phải
nối dây dài ra, v́ đó là "sợi
dây thông linh" để dân làng
tiễn vật hiến sinh và báo
với Giàng họ đă góp công sức
tiền của vào việc tổ chức lễ
hội và cầu mong Giàng ban
phúc. Già làng
A Zui
đứng bên cây nêu buộc trâu,
cao giọng khấn: "Thưa Giàng,
dân làng đă làm được nhà
rông mới đẹp rồi đấy. Hôm
nay, làng mở hội ăn trâu
mừng nhà rông mới, mời Giàng
về chung vui, ban cho con
người sức khỏe, cho con trâu,
con ḅ, con heo mau lớn,
thóc lúa đầy kho, ruộng rẫy
đầy mỳ bắp, mọi hận thù tan
biến !".
Mỗi người
được chia một miếng gan heo
để bôi lên cổ để trị bệnh và
tránh rủi ro. Làng mổ thêm
một con heo, các gia đ́nh
cùng góp thêm rượu thịt,
cùng ăn uống vui vẻ. Đêm đầu
của lễ hội, hầu như cả làng
không ngủ, tập trung quanh
nhà rông tâm t́nh và ăn uống.
10 giờ
sáng hôm sau đội cồng chiêng
đánh một ṿng quanh nhà rông
rồi đến thăm từng nhà. Các
gia đ́nh biếu lại họ gà,
rượu, bầu bí... Sau đó những
người đàn ông đại diện cho
các gia đ́nh mang theo mỗi
người một nắm gạo. Số gạo
góp này được coi là gạo
thiêng, được già làng rắc
lên lưng trâu với ư nghĩa
tiễn đưa vật hiến sinh về
với Giàng. Trong tiếng
chiêng rộn ră, mấy thanh
niên khỏe mạnh, tay cầm giáo,
tay cầm khiên bước ra. Họ
múa điệu múa chiến trận thật
khỏe khoắn quanh cột buộc
trâu trong tiếng ḥ reo đầy
phấn khích của dân làng. Đây
cũng là lúc nghi lễ đâm trâu.
Sau đó dân làng cắt đuôi
trâu treo lên cây nêu. Thịt
trâu được thui và chia đều
cho mọi gia đ́nh. Con dê
cũng được hiến tế ngay sau
đó.
Cúng xong
ở nhà rông, một lần nữa sợi
dây thông linh lại được
giăng ra để dân làng báo với
Giàng rằng mọi việc đă hoàn
tất. Sang ngày thứ ba của lễ
hội, đầu trâu được mang lên
nhà rông. Một thanh niên cẩn
thận lột da và thịt khỏi đầu
trâu, riêng lưỡi và óc con
vật được băm nhuyễn, trộn
đều rồi gói trong lá rừng
đem nướng để mang lên nhà
rông làm lễ cúng Giàng, xin
phép từ nay nhà rông sẽ được
đưa vào sử dụng.
Lễ hội kết thúc khi xương
đầu trâu được gác lên một
góc cao trong nhà rông. Sau
đó, các già làng ngồi lại
với nhau rút kinh nghiệm về
việc tổ chức lễ hội, kiểm
xem có ai ở xa hay ốm đau
không về được th́ bàn cách
giúp đỡ. Chính v́ vậy, sau
lễ ăn trâu mừng nhà rông mới,
sức mạnh đoàn kết cộng đồng
của dân tộc Gia Rai như được
củng cố và có thêm một sức
sống mới. Lễ hội mừng nhà
rông mới là một trong nhiều
giá trị văn hóa truyền thống
độc đáo của dân tộc Gia Rai,
được bảo tồn qua nhiều thăng
trầm của lịch sử, và phổ
biến trong đời sống người
dân Tây Nguyên hôm nay.
(internet)
Nguồn: saigontoserco
|
LỄ HỘI CÚNG ĐẤT LÀNG NGƯỜI BA NA
- GIA LAI - KON TUM |
Con
người từ khi sinh ra đến khi
xuống mồ phải trải qua nhiều
quá tŕnh của mối quan hệ
ứng xử; mối quan hệ Người -
Người (cá nhân với cá nhân),
mối quan hệ cá nhân với cộng
đồng; mối quan hệ cá nhân,
cộng đồng với đấng siêu
nhiên -
Giàng.
Trong khi điều kiện sinh tồn
của các dận tộc c̣n gặp rất
nhiều khó khăn phải chống
chọi với thiên nhiên, thú dữ,
bệnh tật, đói nghèo, chết
chóc... mà tŕnh độ nhận
thức khoa học của con người
hạn chế. Do đó, ṿng đời
người cũng gắn liền với hệ
thống Lễ - Hội tương ứng
trong mỗi thời kỳ, t́nh
huống cụ thể. Có Lễ Bỏ Mả (Pơ
Thi), Lễ Ăn Trâu, Lễ hội
mừng Nhà rông mới, Lễ cúng
Đất làng...
Lễ Cúng
Đất Làng là Lễ hội của người
Ba Na sống ở Kon Tum và Gia
Lai. Dân làng Ba Na làm lễ
cúng đất làng vào cuối tháng
2 đầu tháng 3 âm lịch khi
chuẩn bị vào vụ sản xuất
hoặc khi dọn đến vùng đất
mới. Trước hôm dựng làng
đồng bào Ba Na làm lễ kéo
dài 2 ngày. Họ khấn các thần
linh phù hộ cho công việc
làm ăn thuận lợi, và thông
báo cho thần linh biết công
việc làm ăn trong năm mới.
|
|
|
LỄ HỘI ĐẮK LẮK |
LỄ MỪNG TUỔI LỚN KHÔN - ĐẮK LẮK |
Trong
nếp sống cổ truyền của người Êđê, có
những lễ hội liên quan tới đời sống
chung của cộng đồng ,cũng có những
lễ hội của gia đ́nh ,hoặc cho một
thành viên… Trong số đó th́ lễ mừng
tuổi lớn khôn (hay Mpuh) được coi là
rất đặc sắc. Có thể đây là vang ḅng
của lễ trưởng thành dành cho thanh
niên trong bộ tộc xưa.
- Lễ được tiến hành khi
chàng trai Êđê đă biết dùng
ŕu đẵn gỗ ,ngă cây dùng rựa
phát rẫy trồng lúa ,lại biết
cầm khiên múa kiếm ,giương
nỏ bắn gục con thú hoang dại
của rừng về phá họai nương
rẫy ,và cao hơn nữ là biết
phóng lao đâm chết cả hổ ,heo
rừng…
-
- Xưa,luật tục Êđê định
rằng ,hễ nghe Mtao(tù trưởng
)kêu gọi ,lập tức tất cả
trai tráng đều lên đường
đánh giặc ,đuổi cướp ,giữ
plây giữ bến nước của ông bà
,cha mẹ.Người già kể rằng ,vào
thời anh hùng Đam San làm tù
trưởng ,buôn của chàng là
buôn lớn nhất trong vùng ,trâu
ḅ đếm không xuể .Nhà tù
trưởng Đam San có nhiều ché
túc,ché tang với những dàn
chiêng mỗi khi lên tiếng th́
âm thanh bay khắp bầu trời .Các
thần Trời,thần Núi ,thần
Sông đều lắng nghe và hết
ḷng giúp sức cho người anh
hùng thu phục núi rừng về
một mối ,cho người Êđê yên
ổn làm ăn trên buôn rẫy vủa
ḿnh.
-
- Muốn làm trán đinh của
Đam San th́ phải bắt được
con heo rừng ,ḅ rừng về mổ
thịt đăi cả buôn như để
tŕnh báo tài năng của ḿnh
trước cộng đồng .Ché rượu
cần thơm nhất sẽ dược mở ra
mời người chiến thắng .Từ
buổi ấy ,chàng trai được già
làng công nhận là “chàng
trai Êđê”.Chàng được trao
khiên ,kiếm,được làm lễ cúng
trời để đi laập chiến công
khắp nuí xa rừng gần .Chàng
trai Êđê từ buồi lớn khôn
cóp trách nhiệm góp sức ḿnh
làm cho buôn rẫy giàu mạnh
lên măi .Người già Êđê thời
nào cũng nhắc nhở con cháu
hăy nhớ lấy cội nguồn của bộ
tộc ḿnh .
-
- Từ tinh mơ ,chàng trai
đă thức dậy ,mặc quần áo cổ
truyền mới nhất ,đóng chiếc
khố đẹp nhất ,quấn chiếc
khăn mềm mại nhất ,chân đi
đôi dép da trâu mà ông bà
xưa thường dùng để đi rừng
,vai đeo bầu nước .
-
- Những tia nắng mặt trời
buổi sáng chiếu xuyên qua
ṿm lá vào thẳng cửa sổ phía
đông nhà dài .Lúc này các
bếp trong buôn cũng đă đỏ
lửa .Ngọn lửa của người cùng
ngọn lửa của trời nuôi sống
,sưởi ấm con người ,đuổi ma
quỷ và xua tan mọi điều xấu
gở ,rủi ro ra khỏi đời sống
buôn rẫy .Tay phai cầm kiếm
,tay trái cầm khiên,chàng
trai Êđê đi ra bến nứớc tắm
để tẩy rửa mọi tội lỗi của
quá khứ .Bến nước sáng ngày
được dành riêng cho ngừơi Ê
đê sắp bước vào làm lễ Mpuh
.Một hành động tượng trưng
:chàng trai tới nơi máng
nước ,tháo khăn rồi gội đầu
,rửa mặt trước sự chứng giám
của trời ,đất và thần bến
nước ,cùng sự hiện diện của
bà con trong buôn .Chàng
hứng đầy một bầu nước tinh
khôi chảy ra từ ḷng đất
,đem về để cúng thần cầu sức
khỏe cho mọi người .Đất và
nước ,lửa và ánh sáng ,lúa
ngô trên rẫy ,đóa là nguồn
sống bất tận trong buôn …
-
- Heo đă mổ xong ,đầu được
giữ để làm lễ cúng ,một thăn
thịt dài lóc từ gáy tới đuôi
cuốn một ṿng vào cột
Piê,nơi buộc ché rưỡu để
cúng thần .Người điều hành
lễ cắm hai cần vào ché rượu
quay về hướng đông :một cần
dành cho thần ,một cần dành
cho đương sự .
-
-
- Chàng trai bước tới gần
cầu thang ,ở đây có hai cây
chuối đă trồng sẵn .Chàng
vung kiếm chém một nhát đứt
cây bên phải ,nhát thứ hai
đứt cây bên trái .sau đó
chàng từ từ bước lên cầu
thang .Bà mẹ Êđê mặc Yêng
(váy)áo mới trang nghiêm và
hiền từ đứng sẵn ở đầu sàn
,bên cầu thang đợpi đứa con
về .Bà cất giọng hỏi :
-
- -Chào con trai của mẹ
,con từ đâu đến ?Có phải con
đi đánh giặc phía đông ,múa
khiêng phía tây ,thắng trận
trở về ?
-
- Chàng trai lễ độ đáp :
-
- -Chào mẹ ,con chào người
mẹ của đất rừng Êđê .Đúng
như mẹ nói ,con đă múa
khiêng từ phía tây ,múa kiếm
từ phía đông …giờ đây con
đem vinh quang về cho mẹ .
-
- Tất cả dân chúng trong
buôn đều nghe rơ cuộc đối
thoại giữa người mẹ và ngừơi
con trai .Bà mẹ đứng lui ra
một bên .Chàng trai bước vào
nhà ,dựa kiếm vào vách phía
đông ,rồi ra ngồi đối diện
với thầy cúng .Bảy ché rượu
cần được buộc vào bảy chiếc
cột thành một hàng dọc giữ
ngôi nhà .Thầy cúng ngồi
trước ché rượu đầu tiên ,mặt
hướng về phía đông ,ngón trỏ
tay phải đặt trên miệng ché
.
-
- Trống chiêng nổi lên
từng hồi dồn dập ,hối hả mở
đầu buổi lễ .Dân trong buôn
kéo tới mỗi lúc một đông
.Gịong thầy cúng vang lên
đều đều ,nhưng phải ngồi sát
một bên mới nghe rơ .bởi
tiếng nhạc ,tiếng chiêng đă
át đi mất phần nào :
-
- “Hỡi các thần ,
- Tôi gọi vị thần hướng
đông ,thần hướng tây ,thần
hộ mệnh ,thần nuôi dưỡng
- Người này sáng hôm nay
,ngày hôm kia
- ở cḥi đă yên ,về nhà
được lành ,
- biết làm ra lúa ,ra bắp
,nay đă lớn khôn .
- Trồng chuối ,chuối sai
quả ;trồng mía ,mía ngọt .
- Người này nhờ thần giúp
cho:bền như gang ,dẻo như
đồng , cừng như sắt .
- Sức mới ,hơi thở mới
,con người luôn luôn khỏe
mạnh ,b́nh yên.
- Heo thiến cùng bảy ché
rượu đă được bày sẵn cúng
thần .
- Thịt cũng đă chia phần
cho tất cả các bếp trong
buôn .
- R ượu nồng hay nhat xin
hăy cùng uống .
- Cầu cho mọi người đều
gặp may mắn tốt lành .
- Hỡi các thần”
-
- Thầy cúng đứng lên trao
khiêng và kiếm cho chàng
trai ,trong khi chiêng trống
rền vang ca ngợi hạnh phúc
cả buôn .Cuộc lễ lần thứ
nhất đă xong .
-
- Chàng trai múa khiên,múa
kiếm vui chơi .Các cô gái té
nước ,chàng trai giơ khiên
đỡ mặt ,đỡ ngực .Bà con chen
nhau ở ṿng ng̣ai xem cuộc
đua tài ,đua vui.Té nước là
tṛ chơi vui khỏe của thanh
niên nam nữ Êđê .Mỗi lần
chàng trai tránh né được th́
một cô gái mang thịt đến
tặng chàng một miếng như
tiếp sức ,khen ngợi , chúc
nừng .C̣n ngược lại ,mặt hay
ngực bị ướt th́ cũng coi như
đó là điều may.
-
- Trong khi đó ông Pô kai
piê(người mời rượu )đi mời
lần lượt từng người tới ngồi
bên ché rượu và vít đầu cần
.Phụ nữ bao giờ cũng được
mời uống trước ,nam giới
uống sau .Họ hàng gần uống
trước ,người xa uống sau
.Vui chơi thỏai mái ,nhưng
tục lệ nề nếp phải giữ .
-
- Trời đă về chiều .Sau
khi đă ăn uống no say ,mỗi
người tự do chọn chỗ nghỉ
tạm để chờ cuộc lễ thứ 2 .
-
- Nghi lễ lần này bắt đầu
vào khỏang 10h đêm,khởi đầu
bằng việc đốt sáng 7 ngọn
đuốc làm bằng nhựa cây
trai.Anh lửa cháy sáng như
có sức đẩy lùi bóng đêm (mà
theo quan niệm của người Êđê
là nơi ma quỷ hay ẩn náu
),mang lại niềm vui và sức
mạnh cho mọi người .
-
- Ông Pô chất đing (người
điều khiển lễ )trao khiên và
kiếm cho chàng trai rồi dẫn
anh đến ngồi đối diện với
thần cúng .Chàng trai trong
tư thế của người sắp lên
đường ,vai mang bầu nước
,chân đi dép da trâu .Ánh
sáng từ 7 ngọn đuốc soi lên
mặt đầy cương nghị của người
chấp lễ đang ngồi bất động
như một pho tượng .
-
- Chiêng trống vẫn nổi lên
dồn dập từng hồi .Không gian
đầy ắp âm thanh hào hùng và
ánh sáng lung linh của 7
ngọn đuốc bằng nhựa cây rừng
đang cháy như thúc giục ,gợi
mở trong tâm trí mọi người ư
thức vươn tới lối sống cao
đẹp ,xứng đáng là những con
cháu của Đam San .Và đêm nay
,chàng trai phải thức trắng
cùng với buôn làng.
-
- Người thầy cúng cầm 2
chiếc khăn đỏ ,bước 7 bước
ngắn ,cứ mỗi bước lại hô lên
một tiếng ,đến trước mặt
người chịu lễ ,đưa tay quàng
chiếc khăn vào cổ,dẫn đi
tŕnh Yang với lờ khấn như
sau:”Chàng trai này xứng
đáng là con cháu của người
Êđê”
-
- Người ta cắt dăi thịt
buộc ṿng quanh cột cúng Piê
,đem xắt nhỏ ,gói từng nhúm
trong lá chuối ,chia đều cho
người trong buôn .Riêng vẫn
c̣n một ché rượu cần đầy
nguyên vẹn dành cho cuộc vui
tiếp theo. Một cụ già được
mời tới bên ché rượu. cụ đưa
tay vít cần, thưởng thức
ngụm rượu đầu tiên. Ánh đuốc
soi sáng bộ mặt xương xương
của ngừoi già từng trải với
chiệc tảu nhồi đầy thuốc lá
đang bộc khói giữa đôi môi
miếm lại. sau khi hút một
hơi rượu cần thứ hai , cụ
già bắt đầu lên giọng kể
Khan ( trường ca Ê Đê).
Tiếng cụ vang lên ấm áp. Mọi
c6au chuyện trao đổi riêng
tư của nhóm này, người nọ
đang xôn xao bỗng nhiên
ngừng hẳn. người ta lắng
nghe từng lời kể như hớp
ngụm rượu nồng cay trong ché
quư. Cứ thế, bằng giọng kể
khi trầm khi bổng, cụ đưa
mọi người trở về sống lại
trong không khí lịch sử xa
xưa và đầy tự hào với bao
chiến công huy hoàng, rực rỡ…
-
- Tiếng gà trong Buôn đă
gáy sang canh tử từ lâu,
nhưng lời kể Khan vẫn vang
lên không dứt. lúc này, ai
nấy cũng đă ngà ngà say.
Riêng chàng trai Ê Đê được
thụ lễ hôm nay như được
truyền thêm sức mạnh mới ,
sức mạnh của bao thế hệ
người Ê Đê đă được chắt lại
trong lời ca , trong chuyện
tích và cả trong tiếng nói
đầy ắp tục ngữ, ca dao:
-
- Có măng mới có cây le
- Có tắc kè v́ có cây
- Có hàng trăm hàng ngàn
con người
- V́ có cha có mẹ…
-
- Đằng đông trời bắt đầu
rạng sáng. Trong phút chốc,
những tia nắng vàng rực rỡ
xuyên thủng khói mây màu sữa,
chiếu thẳng lên không trung,
báo hiệu một ngày mới bắt
đầu.
-
- Thế là chàng trai Ê Đê
trong lễ Mpuh đă sống qua
một ṿng thời gian liên tục
từ ngày sang đêm, rồi từ đêm
nối ngày, gắn bó với cộng
đồng của ḿnh cả hiện tại và
quá khứ, trong lễ công nhận
đến tuổi lớn khôn , người
thầy cúng đă cầu mong cho
chàng nhận được sự truyền
nối sức mạnh truyện thống
của bộ tộc ḿnh
|
|
LỄ CÚNG BẾN NƯỚC CỦA NGƯỜI Ê ĐÊ -
ĐẮK LẮK |
Một
trong những phong tục tập quán lâu
đời nhất của đồng bào dân tộc Êđê là
Lễ cúng bến nước được tổ chức hằng
năm sau mùa thu hoạch để cầu cho mưa
thuận gió ḥa, mùa màng bội thu,
cuộc sống ấm no hạnh phúc. Đây cũng
là một trong những h́nh thức sinh
hoạt văn hóa cộng đồng mang nhiều ư
nghĩa tích cực trong đời sống tâm
linh của đồng bào dân tộc Êđê.
Được sự quan tâm
của Đảng, Nhà nước và chính quyền
địa phương nên phong tục này đă được
bảo tồn và tổ chức hàng năm nhằm đáp
ứng ḷng tin của đồng bào dân tộc và
thể hiện chủ trương tôn trọng tự do
tín ngưỡng của Đảng và Nhà nước Việt
Nam.
Buổi Lễ cúng bến
nước thường diễn ra như một ngày hội
của buôn làng Êđê. Sau hồi chiêng
ngân dài như đưa ta vào thế giới tâm
linh sâu thẳm và trang nghiêm, Lễ
cúng bến nước được bắt đầu bằng việc
lễ cúng ông bà tổ tiên để thông báo
cho ông bà về sự có mặt đông đủ con
cháu trong buôn làng. Khi lễ cúng
cho ông bà tổ tiên kết thúc, một hồi
chiêng nữa ngân lên và đó cũng là
khi thầy cúng bắt đầu làm lễ cúng
Yàng (Trời) cầu mưa. Kết thúc lễ
cúng Yàng, những hồi chuông dài tiếp
tục ngân vang, những cô gái trong
trang phục truyền thống, lưng đeo
gùi, cùng mọi người theo bước chân
thầy cúng về bến nước đầu buôn.
Lễ cúng bến nước
diễn ra trong không khí linh thiêng,
trang trọng. Thầy cúng đọc lời khấn
cầu mong Thần nước mang nước, nguồn
sức sống quan trọng nhất đến cho
buôn làng. Sau lễ cúng những bầu
nước mát ngọt được những người con
của buôn làng gùi về trong niềm vui
hân hoan. Mọi người lại quây quần
bên nhau uống rượu cần trong âm
hưởng rộn ràng của cồng chiêng Tây
Nguyên — một di sản văn hoá phi vật
thể của quốc gia
|
|
HỘI ĐUA VOI - ĐẮK LẮK |
Với
đồng bào các tộc dọc theo dăy Trường
Sơn, voi là vật quư hiếm nhất, là
hiện thân của sức mạnh và sự giàu có
của mỗi gia đ́nh, mỗi buôn làng. Từ
một giống vật hoang dă, khi được bắt
về và thuần dưỡng, voi trở thành
người bạn thân thiết với con người
trong đời sống hàng ngày: vận chuyển,
đi lại, làm rẫy, kéo gỗ, làm thuỷ
lợi...
- Voi là loài vật có thân
h́nh to lớn, nhưng cũng là
con vật thông minh và giàu
t́nh nghĩa nhất trong quần
thể động vật hoang dă. Sử
sách xưa đă từng ghi lại
nhiều mẩu chuyện về đức tính
này của voi đối với người.
Chuyện hai voi chiến của hai
bà Trưng đă rủ nhau về bên
đông Hát, nơi hai bà tự tử,
rồi nhịn ăn cho đến chết.
Đền thờ Voi Phục (Hà Nội) là
nơi ghi lại sự tích này. Cảm
động biết bao khi giữa pháp
trường, con voi không chịu
dày nữ tưởng Bùi Thị Xuân -
người chủ của ḿnh - đă bị
Gia Long khép vào tội h́nh.
Bà phải gọi nó, vỗ về: "Mi
hăy giết ta, nếu không mi sẽ
chết oan, ta tha tội cho
mi". Con voi chiến cúi đầu,
cong ṿi, bái bà ba cái,
nước mắt ràn rụa, rồi dùng
ṿi quấn bà tung lên cao,
đưa cạp ngà nhọn đón chủ, để
bà chỉ đau một lần khi chết.
Sau đó, voi t́m cách phá
xích chạy vào rừng sâu.
Chuyện những con voi chiến
trong mũi tiến công đánh đồn
Ngọc Hồi của quân Tây Sơn
dưới sự chủ huy của đô đốc
Đặng Tiến Đông năm Ất Dậu
(1789); chuyện con voi già
của vua Hàm Nghi phá xích
chạy vào rừng nhịn ăn cho
đến chết, khi vua bị bắt v.v...
là những h́nh ảnh đẹp về
ḷng trung nghĩa của con vật
này.
-
- Nh́n chung trong cả nước,
voi tập trung nhiều nhất ở
tỉnh Đắc Lắc (hơn 400 con
voi nhà), trong đó huyện Ea
Súp có đàn voi đông nhất.
Bản Đôn là nơi quy tụ nhiều
tộc người M nông, Êđê, Lào...
không những nổi tiếng với
đàn voi nhà hàng trăm con,
mà c̣n là xử sở của nghề săn
bắt và nuôi dạy voi từ lâu
đời. Săn bắt voi là một nghề
vô cùng lư thú, nhưng đầy
gian lao nguy hiểm, đ̣i hỏi
sự thông minh, ḷng dũng cảm
tuyệt vời và sự phản ứng
nhanh nhạy của nghề thợ săn
trong mọi t́nh huống.
-
- Hội đua voi thường diễn
ra vào mùa xuân, cụ thể hơn
vào dịp tháng ba âm lịch, đó
là tháng đẹp nhất trong năm
ở đây: trời nắng dịu, đất
rừng khô ráo, dọc bên các bờ
sông, bờ suối, các loại hoa
rừng đua nhau khoe sắc,
trắng, vàng, tím, hồng...
Người Tây Nguyên thường ví
von đó là mùa con ong đi lấy
mật, mùa con voi xuống sông
uống nước; mùa em đi phát
rẫy làm nương; anh vào rừng
đặt bẫy gài chông.
-
- Để chuẩn bị cho ngày hội,
từ vài tháng trước đó, những
chàng trai trong buôn cũng
như những mơgát (người quản
tượng) đưa voi đến những cụm
rừng có nhiều cây cỏ làm
thức ăn cho voi để chúng
được ăn uống no nê. Họ c̣n
bồi dưỡng thêm chuối chín,
đu đủ chín, mía cây, bắp ngô,
khoai lang, cám gạo và hầu
như không bắt voi phải làm
những việc nặng nhọc để giữ
sức.
-
- Đến ngày hội, những đàn
voi từ các buôn làng xa gần
nườm nượp kéo về buôn Đôn,
tập trung ở một số băi, hoặc
cánh rừng thưa ven sông
Sêrêpốc. Cùng với những đàn
voi, dân chúng khắp nơi đổ
về dự hội với những bộ áo
quần màu sắc rực rỡ.
-
- Băi đua là một dải đất
tương đối bằng phẳng (thường
là khu rừng bằng, ít cây to)
bề ngang đủ để 10 con voi
giăng hàng đi một lúc, bề
dài từ một đến hai kilômét.
-
- Một hồi tù và rúc lên,
đàn voi dưới sự điều khiển
của những chàng mơgát lần
lượt tiến vào khoảng đất
bằng, dàn thành hàng ngang
ngay ngắn. Nhiều con rống
vang, như để báo hiệu rằng
chúng sắp bước vào một cuộc
thi tài quan trọng. Theo
lệnh điều khiển, từng tốp
voi đi vào đứng ở tuyến xuất
phát. Con đầu đàn bước lên
phía trước, trong tư thế uy
nghi, hai chân trước đứng
thẳng, ngẩng cao, quay cái
ṿi mấy ṿng rồi cúi đầu
chào khán giả hai bên, xong
lại lùi vào vị trí cũ. Tiếng
hoan hô cùng những tràng vỗ
tay cổ vũ vang dậy, trong
khi tiếng chiêng, tiếng
trống dóng lên từng hồi rộn
ră như thúc, như giục. Không
khí trường đua lúc này lặng
im, căng thẳng, mọi người
hồi hộp chờ đợi. Trên mỗi
con voi có hai chàng mơgát
dũng mănh, trong bộ trang
phục sặc sỡ kiểu tướng lĩnh
ngày xưa đang trong tư thế
sẵn sàng chờ lệnh. Một tiếng
tù và rúc to báo lệnh xuất
phát.
-
- Những chiếc chân voi to
như cây cột nhà, thường ngày
nhấc lên từng bước ung dung,
uể oải, thẳng tuột, đột
nhiên bật lên như những
chiếc ḷ xo phóng về phía
trước trong tiếng ḥ reo, la
hét của khán giả cùng tiếng
chiêng, tiếng trống âm vang
cả núi rừng. Chàng mơgát
ngồi phía trước đầu voi cúi
rạp ḿnh, ngẩng đầu quan sát
và điều khiển voi bằng một
thanh sắt nhọn dài độ một
mét gọi là kreo (tiếng M
nông là gậy điều khiển) dùng
để đâm mạnh vào da, thúc voi
tăng tốc độ, c̣n anh chàng
mơgát thứ hai ngồi ở phía
sau th́ dùng chiếc búa gỗ
kốc nện mạnh vào mông voi để
voi chạy nhanh và thẳng
đường. Trên đường đua, bụi
đất, lá cây khô bốc lên,
tiếng gió rít, tiếng cành lá
bị va quật xen lẫn với tiếng
rậm rịch của những bước chân
voi...
-
- Khi bóng dáng chàng
mơgát ngồi trên lưng chú voi
đi đầu vừa xuất hiện từ xa
trong ṿng quay trở về đích,
th́ tiếng reo ḥ của khán
giả vang lên như sấm. Tiếng
trống, tiếng chiêng giục giă
liên hồi. Tiếp theo là tiếng
hoan hô những người thắng
cuộc. Những chú voi được
giải, giơ cao chiếc ṿi vẫy
chào mọi người, rồi ngoan
ngoăn bước đi ung dung, đôi
tai phe phẩy, mắt lim dim
đưa ṿi nhận những khúc mía
màu tím hay ống đường của bà
con các nơi mang đến ủng hộ.
-
- Cuộc đua voi kết thúc,
những chú voi dự thi lần
lượt trở lại các buôn làng
xa xôi, mang theo tiếng hát,
lời ca và không khí rộn ràng
của ngày hội, khi về buôn
làng, lại một lần nữa được
dân chúng kéo nhau ra tận
đầu buôn để hân hoắm chào
đón, thưởng quà như những
người chiến thắng. Thường
thường những con voi thắng
cuộc vẫn thuộc về buôn Đôn,
một buôn của người M nông có
nhiều voi nhất và có truyền
thống chăm sóc, huấn luyện
voi giỏi nhất trong vùng.
-
- Ngày hội đua voi là ngày
vui lớn ở Tây Nguyên, nó
phản ánh tinh thần thượng vơ
của người M nông, một dân
tộc giàu đức tính dũng cảm,
đă từng quen với tốc độ,
từng đối diện với bao t́nh
huống hiểm nguy căng thẳng
trong những cuộc săn bắt voi
rừng. Chính cái khung cảnh
hùng vĩ của thiên nhiên Tây
Nguyên - nơi diễn ra cuộc
đua đặc sắc - đă làm tăng
lên bội phần chất hùng tráng
của ngày hội cổ truyền của
họ.
|
|
LỄ HỘI ĐẮK NÔNG |
LỄ CẦU MƯA |
Lễ
cầu mưa: Đồng bào Tây Nguyên thường
làm lễ cầu mưa khi sắp bước vào mùa
trồng tỉa. Nhưng cũng có lúc đồng
bào cầu mưa khi cây trồng đang trong
thời kỳ sinh trưởng mà Yang (ông
trời) quên đem mưa tưới xuống rẫy
nương, hay v́ tức giận mà không cho
mưa đến một vùng nào đó. Tuỳ theo
từng tộc người, lễ cầu mưa của các
dân tộc có thể được tổ chức ở từng
gia đ́nh, tổ chức theo cộng đồng.
Một bộ phận cư dân có hẳn người đại
diện Yang tại mặt đất chuyên lo việc
cầu mưa. Thông thường lễ cầu mưa
được tổ chức tại bến nước. Đồng bào
đắp một đám đất bằng chiếc mâm,
tượng trưng cho đám rẫy, trong đó
đặt các lễ vật gồm: một ghè rượu,
một chiếc gùi có treo thịt quanh
vành gùi, 2 khúc lồ ô cắt ngắn đựng
rượu đặt bên ngoài chân đế gùi.
Ngoài ra, c̣n có 2 chiếc lá đựng
thịt cũng đặt trên mâm đất và 3 ống
nứa dựa 3 phía thân gùi tượng trưng
cho những công cụ chứa nước mưa. Lễ
cầu mưa do Pơtao Apui đảm nhận.
|
Lễ cầu mưa là một hiện tượng
tín ngưỡng dân gian, phản ánh nguyện vọng của
một bộ phận cư dân nông nghiệp. Ở Tây Nguyên nó
tồn tại song hành cùng h́nh thái kinh tế trồng
lúa rẫy và hiện chỉ c̣n thấy ở vùng xa, bởi sự
hiện diện ngày càng nhiều các công tŕnh thuỷ
lợi có sức tưới hàng chục ngh́n ha làm cho mưa
không c̣n là nhu cầu bức thiết của dân cư, v́
thế lễ cầu mưa ngày một thưa vắng dần, chỉ c̣n
là mối quan tâm của những người yêu mến nền văn
hoá cổ truyền Tây Nguyên (internet)
LỄ CƠM MỚI |
Lễ
hội cơm mới: Các dân tộc sống ở vùng
Tây nguyên sau mùa thu hoạch sẽ tổ
chức lễ ăn cơm mới, đây cũng là lễ
hội đặc trưng của người Bahnar và
Jrai được tổ chức để tạ ơn thần lúa,
mừng mùa thu hoạch mới, cầu mong cho
ruộng nương ngày càng nhiều thóc lúa.
Dân làng cúng thần lúa bằng heo, gà...
lễ ăn cơm mới được tổ chức ở nhà
rông hoặc nhà riêng. Việc tổ chức lễ
ăn cơm mới tuỳ thuộc vào khả năng
thu hoạch nhiều hay ít của từng gia
đ́nh. Đây là cơ hội để chủ nhà mời
bà con, họ hàng, bạn bè các buôn
làng lân cận đến chung vui, ăn uống,
nhà nào đông khách được coi là một
vinh dự lớn. Trong ngày vui này
người ta đánh cồng chiêng, trống vui
chơi ca hát cho đến khi tiệc tàn.
|
Nguồn: saigontoserco
|
|