LỄ
CÚNG BẾN NƯỚC - GIA LAI |
Lễ
cúng bến nước: Đây là một trong
những h́nh thức sinh hoạt văn hoá
cộng đồng mang nhiều ư nghĩa tích
cực trong đời sống tâm linh của đồng
bào dân tộc Êđê ở Tây Nguyên.
Nếu Lễ cầu mưa diễn ra hàng năm vào
đầu mùa trồng tỉa (khoảng tháng 4
dương
lịch), th́ Lễ cúng bến nước
được tổ chức hằng năm sau mùa thu
hoạch để cầu cho mưa thuận gió hoà,
mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no
hạnh phúc.
Theo đúng phong tục, buổi lễ cúng
bến nước thường diễn ra như một ngày
hội của buôn làng. Sau một hồi
chiêng ngân dài sâu thẳm và trang
nghiêm, lễ cúng bến nước được bắt
đầu bằng lễ cúng ông bà tổ tiên để
thông báo cho ông bà về sự có mặt
đông đủ của con cháu trong làng,
tiếp đó thầy cúng mới làm lễ cúng
Yang cầu mưa. Kết thúc buổi lễ những
cô gái trong trang phục truyền thống,
lưng đeo gùi, cùng mọi người theo
bước chân thầy cúng về bến nước đầu
làng. Những bầu nước mát ngọt được
những người con của buôn làng gùi về
trong niềm vui hân hoan. Mọi người
lại quây quần bên nhau uống rượu cần
trong âm hưởng rộn ràng của cồng
chiêng Tây Nguyên. (internet)
|
|
TƯỢNG NHÀ MỒ - GIA LAI |
Tượng
nhà mồ: Lên Tây Nguyên đến các làng
của người Bahnar, Jrai đến những khu
nghĩa địa chúng ta như lạc vào cả
rừng tượng gỗ, có những ngôi mộ mới
th́ tượng vẫn c̣n nguyên vẹn nhưng
có những ngôi mộ cũ th́ tượng nhà mồ
đă bị bỏ ngổn ngang và biến thành
rừng. Đó là h́nh ảnh nhà mồ của
người dân bản địa Gia Lai.
Nhà mồ được dựng lên cho người chết,
để hàng ngày người thân của người
chết đem cơm nước đến và quét dọn
như khi c̣n sống. Tượng nhà mồ chỉ
xuất hiện khi họ tổ chức lễ bỏ mả
cho người chết,
tại lễ bỏ mả người ta khắc
tượng và trang trí xung quanh nhà mồ.
Tượng nhà mồ phản ánh cuộc sống hiện
thực của người dân bản địa.
Theo lời kể của
tộc người Bahnar th́ tượng nhà mồ là
để đưa tiễn người sang thế giới xa
xăm. Bởi vậy, khi sống cuộc đời ra
sao th́ khi chết đi, con người chỉ
đi xa nhưng cũng là một cuộc sống
không khác ǵ thế giới bên này. Họ
có kiếp sống của sinh thành, giao
hoan, có giải trí và đương nhiên,
những súc vật cũng cần mang theo.
Đến lễ hội Bỏ mả (lễ hội Pơ thi),
chúng ta ngập trong rừng tượng.
Tượng nhà mồ hiện lên sống động
quanh những nhà mồ, thể hiện một nền
nghệ thuật cổ, rực rỡ.
Tượng nhà mồ có
thể xếp làm 3 lớp. Đó là thế giới
sinh thành con người, có bào thai
trong bụng mẹ, có giao hoan, giao
phối âm dương, có bụng mang dạ chửa.
Con người thuở nguyên sơ, phô bầy
trong dáng khỏa thân, minh chứng sức
mạnh truyền đời của loài người với
nét đẽo khô ráp nhưng được cường
điệu những bộ phận người cần được
phô trương, bởi thế đường nét mạnh
mẽ, gây ấn tượng rất mạnh, rất khác
thường. Nhóm tượng thứ hai là những
con vật gần gũi với người như voi,
chó, trâu, ḅ... và nhóm thứ ba là
những sinh hoạt cộng đồng như thể
thao, săn bắn. Nhưng khi đến nhà mồ,
lớp tượng cổ sơ nhất vẫn là tiêu
biểu cho nghệ thuật tượng nhà mồ Tây
Nguyên.
Nghệ nhân đẽo
tượng bằng chiếc ŕu cứng cáp. Chỉ
trên một khúc gỗ, không phác thảo và
ngày này sang ngày khác, những cây
gỗ to sù ś cứ hiện dần lên những
dáng dấp, h́nh người, những tư thế
cùng những chi tiết đa dạng của
người đàn ông, đàn bà, trẻ nhỏ...
dường như tất cả đă nằm trong đầu
nghệ nhân. Họ lặng lẽ từng nhát chắc
chắn bổ xuống để nên h́nh, nên tượng,
nên hồn.
Những bức tượng
thực đó mà cũng hư hư huyền huyền đó
như chính cơi "tối tăm" âm thế. Bởi
thế mà trong ngôn ngữ người Bahnar
các tượng mồ được gọi là "Mêu" với
người Jrai gọi là "Rup", nghĩa là
h́nh tượng, chứ không gọi là h́nh
ảnh, cũng không gọi rơ là tượng, nó
cụ thể quá. (internet)
|
|
LỄ PƠ THI
|
Lễ
Pơ Thi (Lễ bỏ mả): Hàng năm
khi mùa mưa vừa chấm dứt (từ
tháng 11 đến hết tháng 4
dương
lịch năm sau), khi
muà màng thu hoạch xong, cả
hai tộc người Bahnar và Jrai
ở tỉnh Gia Lai tổ chức Lễ bỏ
mả và họ cùng gọi là Pơ thi.
Lễ bỏ mả là lễ hội lớn nhất,
đông vui và dài ngày nhất.
Theo quan niệm của cư dân
bản địa, người sống đều có
hồn, khi người chết hồn biến
thành ma. Hàng ngày, người
thân của người chết phải đem
cơm nước đến nhà mồ, quét
dọn nhà mồ. Mục đích của lễ
hội chính là tiễn đưa các
tinh linh (ma mới) về với
thế giới tổ tiên, về với "ma
cũ". Chỉ sau khi làm Lễ bỏ
mả người chết mới đi về với
thế giới tổ tiên, chấm dứt
mọi ràng buộc giữa người
sống với người chết.
|
|
Nguồn: saigontoserco
Lễ pơ thi - Bản sắc
hay hủ tục?
Pơ thi
là tiếng Jrai để chỉ một lễ mà người
Kinh ta hay gọi là lễ bỏ mả. Đây là
một lễ lớn trong mấy lễ trọng của
người Tây Nguyên như mừng nhà rông
mới, cơm mới và pơ thi.
Người
Tây Nguyên quan niệm thế giới vạn
vật hữu linh, nhất cử nhất động hoạt
động của họ đều có thần linh tham
gia chứng giám và điều khiển. Khi có
một người Tây Nguyên chết đi th́ đấy
chưa phải là chết mà họ mới tạm rời
cơi sống để chuẩn bị sang thế giới
Atâu. Người chết được mang đi chôn (có
thể địa táng hoặc thiên táng tùy dân
tộc) nhưng có mấy điểm chung: thứ
nhất là chôn chung, nhiều người
trong gia đ́nh được đặt chung một
quan tài (việc này nay đă bỏ), thứ
hai là chia của cải cho người chết.
Người
sống có ǵ người chết được chia như
thế, kể cả tivi, xe máy, nhiều nhất
là chiêng, ghè rượu... nhưng để phân
biệt th́ những đồ vật chia này được
làm hỏng đi, ghè th́ đục thủng,
chiêng th́ đánh méo..., thứ ba là
hàng ngày người sống vẫn ra mồ tiếp
tế thức ăn cho người chết, họ bón
cơm cho người chết thông qua một cái
lỗ chừa lại trên quan tài, họ ngồi
nói chuyện với người chết hàng tiếng
đồng hồ, kể lể sự việc diễn ra trong
ngày, trong làng có việc ǵ, ai dựng
vợ gả chồng, ai say rượu đánh nhau,
ai sinh con đẻ cái... như là người
nằm dưới kia vẫn đang đồng hành cùng
họ.
Cho đến một ngày, người sống đă chuẩn bị
đủ ḅ, heo, gà, dê... họ quyết định làm
lễ pơ thi, lần cuối cùng, vĩnh viễn chia
tay, vĩnh viễn ai đi đằng nấy, không
vướng bận chi nhau nữa.
Tượng mồ
Muốn làm lễ pơ thi, trước hết phải có
tượng mồ. Mà không phải ai trong làng
cũng có thể làm được tượng. Đồn rằng
Yang nhập vào ai người đó mới làm được
và cũng không phải lúc nào cũng có thể
làm. Các giáo sư nổi tiếng như Từ Chi,
Ngô Văn Doanh đă bỏ ra rất nhiều công
sức, thời gian nghiên cứu tượng mồ mà
vẫn chưa hết kinh ngạc. Nhiều họa sĩ
điêu khắc học hành bài bản cũng ngả mũ
chào thua trước những pho tượng bí ẩn
kia, bởi nó được làm ra từ bàn tay của
những người nông dân mù chữ, cả đời chưa
ra khỏi làng. Công cụ lại chỉ có một cái
ŕu và một dao rựa. Thế mà tượng mồ lung
linh sống động, mà mang trong nó cả nhân
gian dằng dặc, mà toàn bộ thần thái đời
sống, toàn bộ t́nh cảm của người sống
hiển hiện trong đó.
Ŕu và rựa, chỉ duy nhất hai thứ ấy mà
từ cây gỗ khổng lồ, các pho tượng ra đời.
Nhiều nhất là h́nh người ngồi ôm mặt
trong dáng của bào thai, h́nh trai gái
giao hoan, h́nh bộ phận sinh dục nam nữ,
h́nh chim, khỉ... Ngày này sang tháng
khác, bao giờ tượng mồ đủ th́ lễ pơ thi
mới bắt đầu.
Ngôi nhà mồ cũng là một đặc sắc kiến
trúc Tây Nguyên. Với rất nhiều hoa văn
tinh xảo từ trên nóc xuống mái đến hàng
rào xung quanh, nó vừa ấm cúng vừa gợi
lên sự xa ngái. Các tượng mồ được chôn
xung quanh ngôi nhà mồ. Nên nhớ, điều
trác tuyệt là ở chỗ tất cả những ǵ đẹp
đẽ tinh xảo đến rợn ngợp kia, sau lễ bỏ
mả là sẽ bỏ luôn, mặc nắng mưa, mặc mối
mọt, người sống không bao giờ quay lại
nữa, tác giả của nó, nghệ nhân siêu đẳng
kia cũng không một chút luyến tiếc. Tài
hoa của họ, người chết và Yang đă chứng
kiến hôm bỏ mả rồi.
Các
nghệ nhân ở làng M’rông
Yô đang tập cho lễ pơ
thi.
|
Bỏ mả
Thường người ta làm vào ban đêm, kéo
dài khoảng một tuần. Một đoàn vài
chục người, mỗi người một ngọn đuốc
cháy đùng đùng, sau lưng là những
ống nứa ngất nghểu trông hùng vĩ như
trong phim lịch sử. Ấy là họ đi gùi
nước về để chế rượu cần. Thường th́
gia chủ chỉ chuẩn bị ḅ, heo, gà, dê
và gạo nấu cơm. Dân trong làng và
làng lân cận sẽ gùi rượu nhà ḿnh
đến, hàng vài trăm ghè, có đám đến
cả ngàn.
Người giết ḅ, người đập heo, người
cắm rượu, người nấu cơm... rất nhiều
nhóm quần tụ trong một khu đất không
lớn lắm. Nếu có khách th́ bao giờ
sau khi được mời ăn, họ c̣n được
chia phần mang về. Phần nghi lễ th́
tất nhiên là có thầy cúng với các
thủ tục rất kỹ như lấy máu sống vẩy
lên cây nêu, lấy lục phủ ngũ tạng
cúng Yang, lấy thịt ngon cúng người
chết... và phần quan trọng là các
dàn chiêng vào cuộc. Thường th́ các
làng cử đến lễ bỏ mả những chàng
trai cô gái giỏi nhất, khỏe mạnh
nhất, đẹp nhất, chiêng hay và xoang
đẹp nhất để tham gia chia sẻ trong
lễ bỏ mả.
Những đội chiêng này ban đầu chơi
chiêng Atâu (chiêng dành cho đám
ma), nhưng sau đấy, đêm về khuya, là
chiêng ngẫu hứng. Họ đọ chiêng, so
chiêng, nói chuyện bằng chiêng. Nh́n
hai chàng trai cao lớn, khỏe mạnh đọ
chiêng th́ không một cô gái nào cầm
ḷng được. Mỗi chàng một chiêng, họ
nhảy, họ múa, rất nhịp nhàng và ăn
ư, họ vờn nhau ngoài xa, rồi xáp
lại, hai chiếc chiêng úp vào nhau.
Họ gơ chiêng ngẫu hứng nhưng vô cùng
ăn ư. Các cô gái nín thở nghe và
nh́n. Bởi những điều các chàng trai
đang làm là nhằm vào họ...
Những đuôi khố kơ tếch phất phơ,
những ngực nở bụng thon chắc nịch.
Những loang loáng áo ló vai trần,
những khép mở gấu váy lộ những bắp
chân nâu mịn màng. Những đầu mày
cuối mắt, những va chạm hờ hững,
những bùng nổ, những khát khao,
những rạo rực, những hông, những eo,
những đường cong, những khối tṛn...
lúc này không c̣n liên quan ǵ đến
tang ma nữa, nó là một lễ hội văn
hóa. Những bài chiêng hay nhất được
tấu lên, những điệu nhún (xoang)
uyển chuyển nhất được phô ra, những
ǵ hay nhất, đẹp nhất có thể đều
được các chàng trai, cô gái phô
diễn. Núi rừng rạo rực, đêm xôn xao,
cây cối phập phồng...
Tất cả mọi người đều nhập vào như
một nhu cầu tự thân, không có diễn
viên, không có khán giả, tất cả là
một khối quyến rũ và si mê, đắm say
và nồng nhiệt. Ai say nằm lại, ai
buồn ngủ th́ chợp mắt, tỉnh dậy lại
vào ṿng. Thi thoảng một cặp nam nữ
lại trốn khỏi cuộc vui... Tất nhiên
là làng có những quy định rất khắt
khe để không được đi quá giới hạn.
Nhưng yêu nhau, thổ lộ với nhau, ḥ
hẹn với nhau th́ ai cấm được, và
sang năm, biết đâu lại có những công
dân ra đời từ cái đêm pơ thi huyền
diệu ấy. Vậy th́ nó c̣n là đêm của
t́nh yêu, lễ của t́nh yêu và sự sống
nữa.
Bản sắc hay hủ tục
Không ở đâu có một lễ hội mang tính chất
nhân văn đến như thế. Bỏ mả, chia tay
người chết bằng một lễ hội hoành tráng,
bằng những phẩm vật cả vật chất và tinh
thần vừa lộng lẫy vừa sang trọng, vừa
tinh tế vừa huyền diệu. Những phẩm vật
được dâng một cách thành kính, không vụ
lợi.
Lễ này trở thành một hoạt động văn hóa
tự thân huy động được hết khả năng sáng
tạo vô tận và kỳ diệu của các nghệ nhân
và toàn thể dân làng. Từ người tạc tượng
đến người đánh chiêng, chỉnh chiêng, đến
các cô gái xoang, đến cả những thày cúng
hiểu sự đời và các bà cụ vừa khóc vừa kể
rất hay.
Nhưng quả thực, với việc hàng mấy trăm
con người tụ tập ăn uống ngày này qua
ngày khác ở một khu đất hẹp, dưới trời
nắng, dưới sương lạnh, thức ăn để qua
nhiều ngày, nấu nướng mất vệ sinh, lấy
nước suối pha rượu cần... th́ dịch bệnh
xảy ra là điều không tránh khỏi. Rất
nhiều ổ dịch, đặc biệt là dịch tả đă
xuất hiện từ những lễ pơ thi như thế này,
thậm chí đă có người chết...
Pơ thi là một lễ hội văn hóa lành mạnh,
nó phát huy được hết sức mạnh tinh thần
diệu kỳ và c̣n nhiều bí ẩn của nhân dân
nếu chúng ta có cách ǵ đó giúp đồng bào
giữ vệ sinh hơn khi hành lễ. Ở đây, vai
tṛ của bộ đội biên pḥng là rất lớn.
Một mặt ḥa đồng vào với đồng bào trong
các dịp lễ, mặt khác, thông qua sự ḥa
đồng ấy, hướng dẫn và giúp bà con giữ
ǵn vệ sinh. Pơ thi không phải hủ tục mà
là một lễ hội mang đậm tính nhân văn và
tài hoa của người Tây Nguyên.
Văn Công Hùng
LỄ
HỘI ĐÂM TRÂU - GIA LAI |
Lễ
hội đâm Trâu: Đồng bào Jrai, Bahnar
thường tổ chức lễ hội đâm trâu trong
khoảng thời gian từ đầu tháng chạp
năm trước đến tháng 3 âm
lịch năm sau. Người Bahnar tổ
chức trong 3 ngày, c̣n người Jrai tổ
chức trong một ngày rưỡi. Lễ hội đâm
trâu được tổ chức vào dịp mừng chiến
thắng , mừng thắng lợi của cộng đồng,
khánh thành nhà rông, lễ cầu an, lễ
xoá điềm xấu, điềm gở cho cả buôn
làng hoặc tạ ơn thần linh.
Hàng năm dân làng tổ chức một lần lễ
hội đâm trâu
tại nhà rông, mọi phí tổn
trong ngày hội do dân làng đóng góp
lại. Người chủ tŕ ngày hội là già
làng, đứng gần cột buộc trâu. Thanh
niên nam nữ đánh chiêng, cồng, múa
đứng sau lưng già làng. Những thanh
niên có nhiệm vụ đánh trống, chiêng,
cồng trong ngày hội, đầu chít khăn
đỏ, mặc áo (loại áo ngày lễ dành cho
con trai), đóng khố. Nữ thanh niên
mặc áo phia, váy koteh (loại áo, mặc
ngày hội của con gái).
Khi già làng khấn
xong, tiếng chiêng, cồng bắt đầu nổi
lên ḥa với tiếng hú của dân làng.
Cảnh buôn làng trở nên rộn ràng,
sinh động. Những ngày ở lễ hội đâm
trâu, là những ngày hội của nghệ
thuật cồng chiêng v́ nhiều nhà đem
bộ cồng chiêng của ḿnh tới tham dự.
Hết ngày thứ nhất,
sang ngày thứ hai, tiếng cồng chiêng
càng nổi lên rộn ră, những thanh
niên khoẻ mạnh, đầu chít khăn đỏ,
tay cầm khiên, gươm sáng loáng lao
ra, vừa múa vũ khí, vừa đi ṿng tṛn
để lừa dịp đâm trâu. Sau cuộc nhảy
múa, họ bắt đầu đâm trâu. Khi con
trâu đă tắt thở, thầy cúng mang
chiêng, nồi đồng nhỏ đến hứng huyết
trâu ḥa với rượu, bộ phận đao kiếm
tiếp tục xẻ thịt trâu, làm thịt trâu
xong, họ chia đều cho từng bếp trong
buôn làng. Một phần thịt trâu sẽ
được dành lại để uống rượu chung tại
nhà rông. (internet)
|
|
LỄ BỎ MẢ NGƯỜI GIARAI - GIA LAI
|
Người
Giarai Mthur thuộc một nhóm người
Giarai vừa khá lớn vừa khá đặc biệt
của dân tộc Giarai. Địa bàn cư trú
chính của người Giarai Mthur là
huyện Krông Pa và phía nam huyện
Ayun Pa (xă Ia Rbol) của tỉnh Gia
Lai. Nếu nh́n trên bản đồ, chúng ta
sẽ thấy, người Giarai Mthur sống ở
phía đông nam của tỉnh Gia Lai và
cũng thuộc phía đông nam địa bàn cư
trú của người Giarai. Nơi cư trú của
người Giarai Mthur nằm gọn trong khu
vực giáp ranh với hai nhóm dân tộc
lớn cùng thuộc ngữ hệ Malayô -
pôlinêdiêng; người Chăm ở phía đông.
Điều khá đặc biệt
là, cái tên Mthur (nghĩa là nghèo
nàn) không chỉ là cái tên để chỉ một
nhánh của người Giarai mà cũng là
cái tên chỉ một nhánh người Êđê phía
đông - người Êđê Mthur. C̣n người
Giarai Mthur ở giáp với người Chăm (như
ở xă Đắc Bằng, huyện Krông Pa, tỉnh
Gia Lai) lại tự gọi ḿnh là người
Chăm Hroi. Ngoài người Êđê Mthur ra,
người Êđê Ktul, Êđê Mă Laiô và Êđê
Kđrắc đều có rất nhiều nét tương
đồng về văn hóa với người Giarai
Mthur. Do đó, có thể nói, trong văn
hóa truyền thống của người Giarai
Mthur có nhiều sắc thái chung cho cả
người Êđê và người Chăm Hroi. Ngay
trong tang ma nói chung và lễ bỏ mả
nói riêng của người Giarai Mthur,
theo những kết quả điều tra nghiên
cứu của chúng tôi, có không ít những
yếu tố gần với người Êđê.
- Theo quan niệm của người
Giarai Mthur ở Đắc Bằng và
Ia Rto, khi người ta chết
th́ hồn người chết (m'ngắt
dêi) biến thành ma (atầu).
Sau khi làm lễ bỏ mả, hồn ma
của người chết mới được đi
tới thế giới của bà Jung,
các hồn ma sinh sống và làm
việc như những người sống,
nghĩa là cùng ăn uống, lấy
vợ, lấy chồng, ốm đau và
chết. Sau khi chết, hồn ma
biến thành con nhện (vak vai).
Bà Jung thả con nhện lên mặt
đất. Khi chết, nhện biến
thành giọt sương (ia ngom)
rồi tan vào đất. Bà Jung lấy
đất có thấm giọt sương đó
làm ra người - rồi cho nhập
vào những người phụ nữ có
chửa. Khi người phụ nữ sinh
con th́ hồn ma lại trở về
với kiếp người. Người Ê Đê
cũng có những truyền thuyết
và quan niệm tương tự về
buôn làng tổ tiên (buôn Atao)
do vợ chồng thần Băng Bơ
Dung, Băng Bơ Đai cai quản.
V́ thế, để cho hồn ma của
người chết đến được với buôn
làng của tổ tiên, người
Giarai Mthur và các nhóm
người Êđê phía đông đều có
tục làm lễ bỏ mả cho người
chết. Tập tục này đă có từ
lâu và c̣n tồn tại cho đến
tận hôm nay. Ngay trong các
trường ca (khan) của người
Giarai Mthur và người Êđê,
có những đoạn nói về lễ bỏ
mả thật sinh động. Ví dụ,
trường ca Xing Nhă của người
Êđê và Giarai mô tả việc
Xing Nhă làm lễ bỏ mả cho
cha ḿnh như sau: "Măn mùa
lúa. Vào một buổi sáng đẹp
trời, sương trốn nắng. Xing
Nhă sai nô lệ vào rừng chặt
cây kơnia, chặt những cây
g̣n to nhất để dựng nhà mồ
cho cha là Giarơ Kốt ở gần
núi Bơlô. Tin ấy truyền đi
buôn phía đông. Tin ấy lan
sang làng phía tây. Từ người
Bi Kơrông sống dọc bờ sông,
tối người Mơnông cắm lông
chim trên đầu ở bên bờ suối;
tất cả đều nô nức mang
rượu,thịt, chiêng trống đến
mừng chàng Xing Nhă dựng nhà
mồ cho cha". C̣n lễ bỏ mả
cho Đăm Bi và Xinh Chơ Niếp
được trường ca Xinh Chơ Niếp
mô tả: "Về phần Chiêm Tơ Mun,
th́ sau mấy mùa trăng lặn,
trăng lên, sức khỏe của mẹ
chàng đă phục, làn da đă trở
lại như xưa. Một buổi tối
đầy sao, nhiều gió, chàng
gọi Chiên Mơ Nga tới nhà bàn
việc làm lễ bỏ mả cho Đăm Bi
và Xinh Chơ Niếp. Sau đấy,
họ đem rượu ra uống suốt mấy
ngày liên tiếp bên đồi Lơ
Mui. Mả Xinh Chơ Niếp và Đăm
Bi làm chung một chỗ, xây
chung một hướng. Cây nêu cao
tận trời, khắc chạm tận gốc.
Bốn phía mồ đều đẽo tượng gỗ
lớn. Tượng ngồi, tượng đứng,
trông rất linh thiêng. Trai
gái ở buôn gần dắt ḅ, ở
buôn xa đem rượu tới ăn lễ.
Chiêng trống không ngừng,
nhảy múa không ngớt. Âm vang,
chấn động cả vách núi, lưng
trời".
-
- Mặc dầu không c̣n những
lễ bỏ mả lớn của các tù
trưởng lớn mà các trường ca
mô tả, nhưng người Giarai
hôm nay vẫn làm cho người
chết những ngôi nhà mồ kút (bơxát
kut hay nok kut). Đồ sộ uy
nghi và tổ chức lễ bỏ mả
trọng thể, đông vui.
-
- Như các nhóm Giarai khác,
người Giarai Mthur vẫn giữ
tục chôn chung và bỏ mả
chung. Do đó, để tổ chức
được lễ bỏ mả, trước đó cả
tháng trời, các gia đ́nh có
người chết cùng dân làng đă
phải bắt tay vào chuẩn bị.
Mọi người phải lên rừng chặt
gỗ đem về đẽo các cột kút,
kơlao, chạm khắc tượng người,
tượng thú, phải chuẩn bị
rượu, thịt, gạo nước cho lễ
bỏ mả. Chỉ sau khi mọi thứ
đă làm xong, lễ bỏ mả mới có
thể tổ chức được.
-
- Người Giarai Mthur
thường chọn những ngày trăng
sáng nhất (tuần thứ hai tức
tuần trăng tṛn của tháng)
để bắt đầu làm lễ bỏ mả hay
ăn bỏ mả (hoă lui bơxát) như
người Giarai thường gọi. Khi
vầng trăng của ngày 14 đă
nhô lên treo lơ lửng trên
đỉnh các cây cột kút và klao
của nhà mả (tức khoảng 10-11
giờ đêm) các gia đ́nh có
người thân phải làm lễ bỏ mả
cùng cả dân làng tấp nập đi
ra khu nhà mồ đă được dọn
dẹp sạch sẽ để bắt đầu lễ
hội bỏ mả của làng. V́ thế
mà người Giarai Mthur gọi
hôm đầu tiên của lễ bỏ mả là
ngày vào nhà mả (mưt bơxát).
-
- Trước khi cuộc vui của
lễ hội bùng lên, người chủ
của lễ (người đại diện cho
gia đ́nh có người chết được
chôn đầu tiên ở khu nhà mả)
đến bên ngôi nhà mồ mới, xụp
trước bàn thờ (P'nang) đă
bầy sẵn rượu, thịt cúng và
đọc bài cúng với những lời
mở đầu như sau: lễ bỏ mả đến
ngay sau lưng rồi. Từ nay,
người sống ăn cơm trắng, c̣n
ma th́ ăn cơm đỏ, ăn hoa tím,
hoa đỏ của các thần... Sau
đấy, người chủ lễ mới bày tỏ
tâm tư và nguyện vọng của
những người sống: "xin ma
đừng gọi, đừng lại gần, đừng
thương yêu con cháu nữa. Từ
nay, chúng tôi sẽ không c̣n
mang cơm, sẽ không c̣n mang
nước cho ma nữa. Nếu muốn ăn
thịt ǵ, xin ma hăy hỏi thần
Trăng; nếu muốn ăn cá, ăn
thịt, xin may hăy hỏi thần
trên trời. Thôi, từ nay, thế
là hết, như lá m'nang đă ĺa
cành như lá m'tư đă tàn úa".
-
- Khi tế cúng vừa xong,
th́ lập tức, trong ánh lửa
bập bùng của hàng chục đống
lửa và dưới ánh trăng mát
dịu, tiếng cồng chiêng rộn
ră nổi lên. Theo nhịp âm
thanh cồng chiêng mọi người
ḥa vào đoàn múa diễu quanh
ngôi nhà mồ nhấp nhô huyền
ảo trong đêm. tiếng nhạc
cồng chiêng của đêm bỏ mả,
như một sức hút diệu kỳ, kéo
tất cả dân làng, kéo bà con
họ hàng ở buôn gần, buôn xa
tới. Càng về khuya, tiếng
cồng chiêng càng rộn ră,
thôi thúc, các đống lửa càng
bùng to hơn, nhịp chân múa
nhảy càng rộn ră hơn. Hầu
như suốt cả đêm cho đến sáng,
cả làng quây quần bên ngôi
nhà mồ: ai múa nhảy cứ múa
nhảy, ai đánh cồng chiêng cứ
đánh; ai uống rượu cứ uống,
ai mệt th́ ngủ ngay bên
những đống lửa ấm áp để sáng
hôm sau bước vào ngày hội
chính của lễ bỏ mả - ngày vỡ
(p'chăh) hay ngày ăn lớn (hoă
prong).
-
- Sáng hôm hoă prong, vào
khoảng 6, 7 giờ sáng, các
gia đ́nh cùng chung làm lễ
bỏ mả dắt trâu hoặc ḅ đến
buộc quanh ngôi nhà mả; đem
những ché rượu tới cột thành
từng hàng dài bên nhà mả.
Sau đấy, những con vật bị
giết đem thui và làm thịt.
Thịt, xương trâu ḅ được chế
biến ra thành nhiều loại
thức ăn, nhiều món thức ăn:
có loại dành riêng để chia
cho những người chết được
gọi là thịt tế lễ (m'nong
dưm), có loại để chia cho
những người tới dự (chơnút
m'nong). Khi thức ăn đă được
chế biến xong, các bà, các
chị nổi lửa đun nấu thức ăn
rồi chia ra những chiếc mâm
lá chuối được bày la liệt
quanh ngôi nhà mồ.
-
- Trong khi dân làng lo
chuẩn bị cho bữa ăn lớn hay
bữa cơm bỏ mả (hoă sơi bơxat),
th́ các gia đ́nh có người
chết đem mía (phun tbou) và
chuối (phun a'tơi) đến trồng
bên cạnh nấm mộ, đem gói cơm
và gói thịt cùng ché rượu và
con gà nhỏ (ană mnu) đặt lên
mộ rồi ngồi khóc lần cuối
vĩnh biệt người chết. Để
không khí hôm bỏ mả đỡ buồn,
dân làng và khách các nơi
tới đánh cồng chiêng, múa
nhảy thành đoàn đi quanh nhà
mả. Đến quá trưa, cả khu nhà
mả thật sự đă thành một bữa
ăn cộng cảm lớn. Từng tốp,
từng tốp ngồi quây quần bên
các mâm cơm (mâm bằng lá
chuối) cạnh những ché rượu
cần vừa ăn uống vừa tṛ
chuyện vui vẻ. Các bà, các
cô cũng đem phần cơm, thịt
và rượu vào nhà mả để những
người trong các gia đ́nh có
người chết ăn uống và tâm sự
lần cuối với người thân đă
khuất của gia đ́nh ḿnh.
-
- Lúc bữa cơm cộng cảm kết
thúc cũng là lúc người chủ
lễ đến bên bàn thờ đọc lời
cúng bỏ mả với nội dung như
sau: "Xin ma đừng gọi, đừng
lại gần, đừng thương yêu con
cháu của ma nữa. Chúng tôi
đă làm nhà mồ rồi, đă tạc
những cột kút, cột klao, đă
vẽ những h́nh vẽ bằng máu
trâu, máu ḅ rồi. Ché rượu
cúng đă đặt xuống mà rồi,
con gà con đă được thả rồi.
Chúng tôi đă bỏ ma rồi". Đợi
cho người chủ lễ đọc lời
khấn xong, mọi người vào nhà
mả đưa những người góa ra
sông tắm, chải đầu, mặc áo
váy, khố mới cho họ rồi đưa
họ về khu nhà mồ đang rộn
ràng tiếng cồng chiêng và
nhịp chân múa nhảy. Ai nấy
đều vui vẻ, hồ hởi mời, kéo
những người góa vào ṿng múa
của dân làng. Lúc này, những
người góa không c̣n xơa tóc,
không c̣n mặc khố, váy bẩn
rách của thời kỳ để tang nữa.
Lúc này họ đă mặc lên người
những bộ quần áo lễ hội mới,
đă nở nụ cười trên môi. Khi
những người góa nhập vào
đoạn nhảy múa của dân làng
là lúc họ đă được giải phóng,
đă không c̣n phải ràng buộc
ǵ với người đă chết nữa. Từ
nay, họ được sống cuộc sống
b́nh thường như mọi người,
nghĩa là được đi ăn uống vui
chơi ở các lễ hội, được
quyền tái giá nếu họ muốn.
Nước sông đă rửa sạch những
năm tháng chịu tang trên
người họ, lễ cúng cuối cùng
đă cắt đứt mọi quan hệ giữa
họ và những người chết. C̣n
những hồn ma của người chết
th́, sau lễ cũng cuối cùng,
đă được con gà con đưa về
buôn làng tổ tiên bắt đầu
một cuộc sống mới - cuộc
sống của những hồn ma để chu
kỳ tiếp theo sẽ lại trở về
làm người.
-
- Sau những ṿng múa tưng
bừng sôi nổi giữa dân làng
và những người góa, lễ bỏ mả
coi như đă kết thúc và mọi
người ai nấy về nhà nấy, bỏ
lại phía sau ngôi nhà mả
xinh đẹp mà ḿnh vừa làm
xong cho thời gian và thiên
nhiên hủy hoại. Trước khi ra
về, mọi người bốc thóc ném
lên mái nhà mồ rồi tranh
nhau cướp lấy một số hạt
thóc từ mái nhà mồ rơi xuống
đem về để được phúc và để
mùa tới làm ăn thịnh vượng.
Khi mọi người ném thóc lên
mái nhà mồ, ông chủ lễ nói
lời cuối cùng tuyên bố
(p'thao) bỏ mả: Thế là xong
hết tất cả rồi. Gia đ́nh và
dân làng đă bỏ mả rồi. Từ
nay chúng tôi không c̣n dính
líu ǵ với nhà mả nữa. Từ
nay, nếu xảy ra chuyện ǵ
không hay, không tốt với nhà
mả th́ cũng đành vậy thôi v́
chúng tôi không c̣n ǵ dính
líu nữa.
-
- Mặc dầu các nghi lễ đă
chấm dứt, ngôi nhà mồ đă bị
bỏ và các hồn ma đă ra đi,
những hội lễ bỏ mả c̣n tiếp
tục thêm một ngày nữa tại
các gia đ́nh của những người
chết vào ngày hôm sau. Hôm
đó, bà con họ hàng tới thăm
hỏi, ăn uống, vui chơi cùng
các gia đ́nh tại nhà họ chứ
không ra nhà mả nữa. Thức ăn
c̣n ǵ, gia chủ đem hết ra
đăi khách. V́ thế ngày cuối
cùng này của lễ bỏ mả được
gọi là ngày rửa nồi (săch
go).
|
|
LỄ HỘI ĐÂM TRÂU
NGƯỜI GIA RAI - GIA LAI |
Thời
gian: Khi cây H’lưng đầu buôn, cây
Ê-táp giữa làng ra nụ, nở hoa, đó
chính là lúc buôn làng Gia Lai chuẩn
bị đón Hội đâm Trâu.
Địa điểm: Lễ hội đâm Trâu được tổ
chức
tại buôn làng Gia Lai.
Đối tượng suy tôn: Giàng (thần).
Đặc điểm: Lễ hội đâm Trâu là do
người Gia Rai và Bà Na tổ chức. Con
Trâu được cột quanh cây nêu và có
một thanh niên lực lưỡng được cử ra
để lănh trách nhiệm đâm Trâu. Máu
ḥa với rượu để cúng Giàng (thần).
- Mỗi khi cây H’lưng đầu
buôn, cây Ê-táp giữa làng ra
nụ, nở hoa, đó chính là lúc
con trai, con gái các buôn
làng Gia Lai chuẩn bị đón
hội hè. Gặt hái xong xuôi là
thời gian nghỉ ngơi, mọi nhà,
buôn làng đều tổ chức các lễ
hội như Hội bỏ mả (Mnăm Lui
Msat), Lễ ăn cơm mới (Huă
Esei Mrâo), Lễ đâm trâu (Mnăm
thu)... tưng bừng, rộn rịp
với các tṛ vui chơi, ăn
uống no say.
-
- Cũng như nhiều dân tộc
khác ở Tây Nguyên, người Gia
Rai, Bà Na ở Gia Lai tổ chức
Lễ hội đâm trâu vô cùng hào
hứng thu hút đông đảo mọi
người cùng tham dự. Tùy theo
gia cảnh và tùy theo số
lượng người đến tham dự mà
gia chủ có thể giết nhiều
trâu để đăi khách. Và lần
lượt mọi nhà có thể thay
phiên nhau tổ chức những
cuộc vui suốt sáng thâu đêm
bên ghè rượu cần thơm ngon,
bên gùi cơm lam nóng hổi và
những xâu thịt nướng thơm
phức...
-
- Gần ngày lễ Mnăm Thu.
Gia chủ cử người vào rừng
chặt tre, cây blang (cây g̣n
núi) đem về làm cột blang
Kbâo. Cột blang Kbâo giống
như cây nêu ở miền xuôi
nhưng công dụng th́ khác
hẳn.
-
- Thầy cúng sẽ giúp gia
chủ chọn chỗ để đào lỗ trồng
cây nêu, thường là ở giữa
sân nhà. Trong lúc đào lỗ,
cả nhà ăn mặc quần áo mới
đứng vây quanh, vừa la vừa
hú, vừa khấn vái trời đất,
xong mới chôn trụ nêu.
-
- Sau khi dựng nêu xong,
họ đem trâu đến cột dưới cây
nêu. Dây cột trâu phải lựa
dây thật mềm và chắc. Thế
rồi giờ cử hành lễ bắt đầu.
Người trong buôn làng kéo
đến vây quanh cây blang
Kbâo, khua chiêng, thúc
trống rồi múa hát với giọng
ê a. Trong lúc đó, thầy cúng
lấy một chiếc nồi đồng đem
ra đặt ở trước nhà, đứng hai
chân trên miệng nồi rồi làm
phép cúng vái. Một thanh
niên nhanh nhẹn, thông minh
và lực lưỡng nhất được cử ra
để nhận lănh trách nhiệm đâm
trâu.
-
- Anh chạy theo con trâu
quanh cột cây nêu, tay cầm
con dao Kgă, vừa chạy vừa
múa dao, thừa lúc thuận tiện
anh chém đứt khuỷu chân trái
sau con trâu. Bị đau, con
vật lồng lộn chạy bằng ba
chân, anh rượt theo, vừa múa
dao, thừa lúc thuận tiện
nhất anh chém tiếp chân phải
của nó. Con vật ngă khuỵu
hai chân sau, lết quanh chân
nêu. Lúc bấy giờ anh mới
dùng cây giáo dài, vừa múa
vừa chạy theo con trâu trong
tiếng reo ḥ cổ vũ của mọi
người tham dự. Đúng lúc
thuận tiện, anh đâm mạnh cây
giáo vào sườn trâu, trúng
thẳng vào tim con vật làm
cho nó chết ngay tức khắc.
-
- Qua tài đâm trâu của
anh, mọi người đều nhiệt
liệt tán thưởng, c̣n các cô
gái th́ bàn tán xôn xao.
-
- Con trâu vừa chết, các
thanh niên trong buôn làng
nhào ra phanh thây trong khi
thầy cúng mang sẵn chiếc nồi
đồng to tướng trong đó có
chứa ít rượu đem đặt ngay
cạnh vết thương con vật để
hứng lấy máu. Máu ḥa với
rượu để cúng Giàng (thần).
Người thầy cúng c̣n cắt một
tí tai, mũi, mắt và lông
đuôi con trâu rồi lấy máu
bôi vào hai que tre để xin
keo. Sau đó, thầy cúng đem
những thứ nói trên vào nhà
làm lễ và đặt hai que tre
lên mái nhà.
-
- Buổi lễ kể như đă xong,
mọi người cùng nhau uống
rượu cần, ăn thịt trâu nướng,
dùng cơm lam và trứng gà...Trong
khi đó, từng tốp thanh niên
lực lưỡng khua chiêng, trống
âm vang lan tỏa khắp buôn
làng, nương rẫy, sông suối,
núi rừng...
-
- Nhiều bà con đến tham dự
cũng mang theo các ghè rượu
cần để góp vui cùng gia chủ.
Rượu vào, lời ra. Các cụ già
bắt đầu kể Khan Hơmon, c̣n
gái trai Trường Sơn ra sức
múa hát, quay cuồng bên bếp
lửa hồng cho đến thâu đêm.
-
- Con gái lớn lên để ngực
trần
- Tay tṛn trịa múa mềm
ngọn lửa
- Họ đâm trâu thiêng liêng
tiếng hú
- Đôi mắt em thăm thẳm
hoang sơ
- Hơmon ơi có tự bao giờ
- Nghe ai hát em theo về
làm bạn
- Không uống rượu sao ấm
nồng giữa ngực
- Bài hơmon nào không có
chuyện yêu đương
- (Thơ Xuân Mai)
-
- Người ta túm tụm xung
quanh các ghè rượu cần thơm
ngon. Kẻ kéo, người mời,
tiếng cười nói râm ran.
Người ăn cứ ăn, người uống
cứ uống, ai kể khan cứ kể,
ai múa hát cứ tiếp tục...
nguồn vui kéo dài hầu như
bất tận. Nhiều người no say
quá nằm ngủ ngay tại chỗ măi
đến ngày hôm sau mới trở về
nhà.
-
- Cứ như thế, từ gia đ́nh
này đến gia đ́nh khác, từ
buôn làng này đến buôn làng
khác, lễ Mnăm Thu - tức lễ
đâm trâu - được tổ chức suốt
mùa tạnh ráo khắp buôn làng
Gia Lai.
|
LỄ HỘI
LÂM ĐỒNG |
LỄ HỘI GIỖ TỔ NGHỀ
THÊU - LÂM ĐỒNG |
Theo
thông lệ hàng
năm, ngày
12-13/6 âm
lịch
tại khuôn
viên "Đà Lạt Sử
Quán" lại tổ
chức nghi lễ
tưởng nhớ Ông tổ
nghề thêu là cụ
Lê Công Hành.
Đây là ngày hội
giỗ tổ của các
nghệ sĩ, nghệ
nhân, người thợ
của nghề thêu
tay
Nghi thức giỗ tổ
chia làm hai
phần, trong phần
lễ, du khách sẽ
thấy không khí
trang trọng buổi
lễ hành hương về
pḥng thờ Đức tổ
nghề thêu của
các của các nghệ
sĩ, nghệ nhân,
người thợ. Phần
hội là phần
chính trong hai
ngày lễ này, rất
sôi động, như lễ
hội ẩm thực ba
miền và những
món ăn của đồng
bào dân tộc ít
người miền cao
nguyên. Trong lễ
hội hoa, mọi
người tha hồ
chiêm ngưỡng
những hoa đẹp,
độc đáo của
thành phố Đà Lạt.
Hay như lễ hội
rượu vang, lễ
hội rượu hương
tri kỉ...tất cả
đều mang lại một
chút ấm áp cho
du khách khi
sương trời buông
xuống. Trong dịp
này du khách sẽ
được chiêm
ngưỡng những tác
phẩm thêu đặc
sắc, tinh tế do
bàn tay người
thợ thêu từ các
nơi làm ra.
Về đêm, các
chương tŕnh như
đêm thơ, đêm
nhạc, chương
tŕnh biểu diễn
thời trang...tạo
nên không khí
vui tươi. Trong
chương tŕnh lễ
hội giỗ tổ hàng
năm, cuộc thi
đôi bàn tay vàng
thu hút được rất
nhiều người quan
tâm. Tại đây các
nghệ sĩ, nghệ
nhân, người thợ
đến từ nhiều nơi
sẽ cùng nhau thể
hiện tài năng
thêu thùa của
ḿnh, lúc này
chúng ta tận mắt
chứng kiến từng
công đoạn cầu kỳ,
phức tạp để làm
ra được một bức
tranh thêu
|
|
|
|