Lễ Hội Ngày Xuân
(B́nh Định)
ĐÀO ĐỨC CHƯƠNG
Ở B́nh Định ngoài lễ hội Tế Ông nhằm
mồng 10 tháng năm âm lịch và lễ hội Đổ Giàn vào rằm tháng 7 hàng năm, các lễ hội
khác đều được tổ chức trong mùa xuân, nhiều nhất vào dịp Tết Nguyên đán.
Những ngày cuối năm, 23 và 28 tháng chạp
người ta rủ nhau mua sắm ở phiên chợ Tết G̣ Chàm, sang ngày mồng 1 và 2 đầu năm
dân chúng có lệ xuất hành gặp nhau ở hội tết Chợ G̣, rồi mồng 5 tết hẹn nhau về
Phú Phong dự lễ hội Đống Đa. Sau ngày khai hạ, tại thành B́nh Định có hội Hát
Xuân kéo dài hai ngày hai đêm, đến mồng 10 tháng giêng, và mồng 6 tháng 3 có lễ
hội Cầu Ngư. Và ngay cả đồng bào Thượng cũng đóng góp mừng xuân với lễ hội Đâm
Trâu được tổ chức hàng năm tại các buôn làng vùng Vĩnh Thạnh (.
Những lễ hội thường được tổ chức ở miền
quê, không một lời quảng cáo hay nhắc nhở thúc dục, nhưng hội nào cũng đông
nghẹt người. Dân chúng từ các nơi đổ về, quần áo tươm tất, tấp nập các ngả đường
dẫn vào lễ hội bằng đủ loại phương tiện cũng "ngựa xe như nước, áo quần như nêm"
(Truyện Kiều, Nguyễn Du). Và với dáng điệu thảnh thơi, mặt mày hớn hở, chứng tỏ
"Tháng giêng là tháng ăn chơi" (ca dao). Những ǵ chật vật trong năm cũ họ tạm
quên để nới rộng việc chi tiêu, sắm sửa, đăi đằng v́ dù sao quan niệm "có đói
cũng ngày Tết, có hết cũng ngày mùa" (tục ngữ) đă ăn sâu vào lối sống của người
dân B́nh Định.
CHỢ TẾT G̉ CHÀM
Cách thị trấn B́nh Định chừng hai cây số
về phía bắc, chợ G̣ Chàm tọa lạc trên một khoảnh đất cao, rộng chừng hai mẫu tây,
phía bắc giáp sông cầu Chàm, phía tây sát quốc lộ 1. Ngày nay, nơi ấy nhà cửa
mọc lên san sát lại có một bệnh xá, không c̣n dấu vết ǵ một ngôi chợ lớn nhất
tỉnh, nhưng địa giới là cây cầu bắc qua quốc lộ 1 vẫn c̣n đó và vẫn giữ nguyên
cái tên "Cầu Chàm" như thuở nào. Theo các vị bô lăo, ngày xưa chợ này tên chữ là
Lam Kiều thị, có dựng trụ ngay trước chợ khắc ba chữ ấy và vùng này gọi là xứ
Lam Kiều, thời Minh Mạng thuộc làng An Ngăi tổng Thời Đôn huyện Tuy Viễn phủ An
Nhơn. Mang tên xứ Lam Kiều v́ xưa kia trồng nhiều cây chàm để nhuộm vải, thế th́
đúng ra phải gọi là chợ Cầu Chàm nhưng dân chúng lại quen gọi là chợ G̣ Chàm.
Bởi đó, có người c̣n cho rằng chợ được lập trên vùng đất g̣ có nhiều mồ mả người
Chàm nên mới gọi là chợ G̣ Chàm.
Năm 1940, chợ G̣ Chàm dời vào khu đất
phía đông bắc bên ngoài thành B́nh Định, sát với khu phố của thị trấn và đổi
danh hiệu là chợ B́nh Định, nhưng dân chúng vẫn quen gọi tên cũ. Chợ mới vẫn giữ
vai tṛ lớn nhất tỉnh, nhóm chợ mỗi ngày và mỗi tháng có sáu phiên vào các ngày
mồng 3, 8, 13, 18, 23, 28. Ngoài ra, xưa nay vẫn giữ lệ phiên chợ 23, 28 tháng
chạp âm lịch nhóm suốt ngày đêm và đông hơn các phiên chợ khác trong năm.
Phiên chợ tết khác với phiên thường v́
có nhiều người đến chợ để dạo chơi, ăn uống, thết đăi bạn bè và càng về đêm
người dạo càng đông. Người đi chợ để mua bán cũng tăng lên gấp nhiều lần v́
phiên chợ này không thiếu món sơn hào hải vị nào cần mua sắm làm cỗ dọn tết. Họ
réo gọi nhau tốp năm tốp ba cùng đến chợ cho vui, trong bài vè chợ G̣ Chàm đă
diễn tả quang cảnh rộn rịp ấy:
Bớ chị em ơi! Đi chợ
Chợ nào bằng chợ G̣ Chàm
Tôm tươi cá trụng thịt ḅ thịt heo
C̣n thêm bánh đúc bánh xèo
Bánh khô bánh nổ bánh bèo liên u
Những con cá chép cá thu
Cá ngừ cá nục cá chù thiệt ngon
Người cần mua sắm quần áo, nữ trang để chưng diện
trong dịp tết, đến chợ G̣ Chàm tha hồ lựa chọn cho vừa ư:
Những c̣n hàng giép hàng giày
Nón ngựa nón chóp bán rày liên thiên
Lại c̣n những món nhiều tiền
Cà rá, hột đá, dây chuyền, dầu thơm...
Chợ G̣ Chàm c̣n có riêng một khu chuyên
bán súc vật, quen gọi là chợ Ḅ. Tuy đặt tên như vậy nhưng người ta đem bán đủ
loại gia súc: từ trâu, ḅ, heo, dê, cừu đến gà vịt, ngỗng, chim chóc... và có cả
thú rừng mới vừa săn bắt hay đă thuần hóa; cứ đến chợ G̣ Chàm, nhất là phiên chợ
tết là có ngay. Một đặc điểm nữa, phiên chợ tết có bán gà thiến, cho thịt thơm
ngon mềm và béo, dùng vào việc làm lễ vật rất thông dụng. Dân trong vùng có tục
lệ "mồng một tết cha, mồng ba tết thầy" Nào là chàng rể lễ tết cha mẹ vợ, tân
gia đi tết thầy địa và thợ cả dựng nhà, tang gia lễ tết thầy liệm, thầy cúng, vơ
sinh lễ tết sư phụ, học tṛ lễ tết thầy cô giáo... rầm rộ thành phong trào lễ
tết hàng năm.
Trong hai phiên chợ tết G̣ Chàm, phiên
23 lớn hơn và vui hơn v́ ngày tết tương đối c̣n xa, đủ thời gian kịp mua kịp bán.
Nhiều thương nhân từ các tỉnh khác chở hàng hóa đến bán:
Xem ra chẳng thiếu hàng nào
Quảng Nam, Quảng Ngăi cũng vào cũng vô ...
Có cả những lái buôn từ miền núi chở lâm sản xuống
và mua sỉ hàng hóa, thực phẩm ở đồng bằng đem về xứ bán lại kiếm lời:
Buôn mọi bán rợ
Mấy chú An Khê
Ở trển đem về
Xấp trần nài rể
Phiên chợ 23 c̣n một điểm thuận tiện nữa,
vừa lúc các trường thi xong kỳ đệ nhất lục cá nguyệt, chuẩn bị liên hoan, chia
tay về nghỉ tết. Những năm cuối thập niên 60 và đầu thập niên 70, ở thị trấn
B́nh Định có ba trường trung học đệ nhị cấp: một công lập, một bán công và một
tư thục, có thêm môt trường tiểu học; các thầy cô và học sinh đều rảnh rỗi, họ
rủ nhau dạo chợ đêm, mua vài món hàng đặc sản đem về xứ làm quà tết, cả nhân
viên của các ngành của quận An Nhơn cũng tham gia. Nhờ thế, chợ tết càng đông
đúc khách dạo chen chúc với kẻ bán người mua, suốt đêm dập d́u tấp nập, vui
không xiết kể.
Phiên chợ 28, cận ngày tết quá, nhất là
những năm gặp phải tháng thiếu (chỉ có 29 ngày) nên vắng khách phương xa nhưng
bù lại phiên cuối năm đặc biệt có thêm chợ hoa:
Đường cát Dương An
Đĩa bàn nội phủ
Thêm đủ hàng hoa...
Người ta đến xem hoa, mua hoa, nơi hội
ngộ của nghệ nhân trong vùng và tao nhân mặc khách. Ở đây có đủ loại hoa kiểng,
từ những cội mai núi h́nh thù kỳ dị đến những cành mai vườn đầy ắp nụ. Chỉ cần
mua vài chậu hoa lạ đem về tô điểm cho giàn cây kiểng (2) sẵn có là thấy cảnh
nhà hực hở lên rồi.
Sau phiên chợ 28, hầu như trong tỉnh không c̣n
phiên chợ nào đáng kể nữa, dân chúng cũng cần ở nhà lo làm cỗ cúng rước ông bà
và chuẩn bị đón giao thừa.
HỘI TẾT CHỢ G̉
Người ta quen gọi là Chợ G̣, thật ra
chẳng thấy chợ búa đâu cả. Không một túp lều, các ngày trong tháng không thấy
một ngày nào nhóm chơ, dù chỉ vài mươi người, mua bán nho nhỏ như chợ xổm cũng
không có. Nơi đó chỉ là một băi đất bằng phẳng, cao ráo, rộng chừng hai mẫu tây,
thời Minh Mạng thuộc thôn Phong Đăng tổng Tuy Hà, huyện Tuy Phước phủ An Nhơn
tỉnh B́nh Định, nay là thôn Phong Thạnh thuộc thị trấn Tuy Phước. Nơi đây, địa
thế hiểm yếu, phong cảnh lại hữu t́nh; phía đông và nam có núi Trường Úc ôm
choàng, phía tây giáp quốc lộ 1 cũ, phía bắc có nhánh sông Tọc, thuộc nguồn Hà
Thanh, chảy qua với bờ cao dốc, có hàng cây san sát ḷa x̣a soi bóng. Nếu không
muốn nói là đất thiêng th́ ít ra trên thực tế nơi đây là băi đất bất khả xâm
phạm v́ tuy gần khu dân cư đông đúc nhưng xưa nay chưa ai lấn chiếm cất nhà hay
trồng tỉa hoa màu.
Tương tuyền thời Tây Sơn, nơi đây dùng
làm chỗ tập trận của quân đội. Bộ binh đóng đồn trên núi Trường Úc, thủy quân từ
đầm Thị Nại vào cửa Làng Sông rồi ngược ḍng sông Tọc đổ bộ lên Trường Úc, hai
bên thủy bộ giáp chiến. Để khuây khỏa nỗi nhớ nhà trong dịp tết, các tướng Tây
Sơn tổ chức cuộc vui ngay trên băi thao trường vào sáng mồng 1 và mồng 2 tết,
nhưng khi trời vừa xế bóng thân nhân phải ra về để binh sĩ chuẩn bị canh pḥng
nghiêm nhặt về đêm. V́ vậy, hàng năm các gia đ́nh binh sĩ theo lệ đến nơi đây
thăm chồng con. Dân địa phương mang hoa quả, thức ăn, nước uống ra bán, lâu năm
thành lệ. Khi quân Tây Sơn tan ră, nơi đây trở thành Hội Tết Chợ G̣, mỗi năm chỉ
hội hai ngày mồng 1 và mồng 2 tháng giêng và cũng quen lệ tan chợ vào lúc xế
trưa.
Chợ G̣ có tính cách hội vui xuân dân
gian hơn là phiên chợ. Từ người bán đến khách hàng đều mặc quần áo mới, nói cười
vui vẻ, mặt tươi như hoa, các bà các cô phấn son trang sức lộng lẫy như dự lễ
cưới. Từ mờ sáng ngày đầu năm chợ đă nhóm, ai đến trước bày hàng trước, ai đến
sau kế tiếp thành dăy. Không ai đứng ra xếp đặt, tổ chức thế mà vẫn trật tự,
không hề tranh giành bán buôn theo lối kẻ chợ thông thường. Người bán là những
dân cư quanh vùng thu góp trong vườn mớ trái cây, gánh rau cải, vài buồng cau,
vài xấp trầu họ đem đến bán lấy hên đầu năm. Người mua không phải là thiếu thức
ăn nhưng muốn đem về một cái lộc đầu năm, nhất là gian hàng trầu cau, các cô
thường mua cầu may cho năm mới gặp duyên thắm t́nh nồng.
Vui vẻ nhất là các gian hàng pháo, bán đủ
loại nào pháo tre, pháo tống, pháo điển, pháo chuột, pháo dây, pháo thăng thiên,
pháo bông... Đó đây, giọng lái buông chào hàng ngân nga câu vè (3) theo điệu bài
cḥi:
Mời chư vị giai nhần tài tử
Tới đây nghe tôi thử pháo tre
Của bán ra không phải nói khoe
Thời thực vật sắm vừa túc dụng
Có pháo nhiều đốt mới vui t́nh
Từ cựu thời bộc trước nhi thinh
Có pháo mới văn minh xuân nhựt
Dưới con cháu cũng vui cũng ức
Trên ông bà khỏi bực khỏi phiền
Nếu như mà cứ giữ tiếc tiền
Lấy ǵ đặng minh niên hỉ hả...
Năm mới, người ta kiêng cữ nhất là mua
phải pháo điếc, đốt không nổ, gây xui xẻo cho cả năm. Khai thác tâm lư ấy, người
bán pháo cao giọng quảng cáo hàng:...
Mua pháo này về đốt
Vốn tôi không nói tốt
Hay thật t́nh có một ḿnh tôi
Nhiều người bán xảo làm mồi
Đốt đây khá về rồi lại dở
Có kẻ làm kêu cũng đỡ
Vấn nhiều tay tôi sợ không đều
Của bán ra là biết bao nhiêu
Một ḿnh vấn nên kêu đều đặn
Mười như chục tiếng kêu đúng đắn
Đốt cả trăm cũng chẳng điếc câm
Tiếng nổ lên chuyển động sơn lâm
Như đại bác vang gầm trời đất
Hễ đốt th́ xác tan bay mất
Không khi nào gió phất ngún hừng
Của tôi làm tôi đă biết chừng
Xin quí vị mua đừng có ngại
Các gian hàng bán đồ chơi trẻ em cũng
vui nhộn không kém. Đặc biệt nhất, những sản phẩm làm bằng vật liệu địa phương,
thuần túy Việt Nam như gà cồ chút chít nặn bằng đất sét, rỗng ruột, sơn phết
xanh đỏ, có lỗ thổi ra tiếng kêu o... o..; trống rung (trống bỏi) thành và cán
bằng tre phất bong bóng heo hay da ếch có tra hai cây đính cục ch́ nhỏ mỗi lần
rung tạo âm thanh thật vui tai: thằng nhào lộ; cối xay lúa; cối giă gạo; tướng
quân múa vơ đều làm bằng tre và gỗ cây g̣n. Từ cuối thập niên 60, có xen những
đồ chơi bằng nhựa hoặc bằng kim loại như búp bê, xe tăng, tàu bay, súng lục...,
có lẽ v́ đắt giá hay chưa quen với thị hiếu nên ít thông dụng.
Những gian hàng thức ăn, nước giải khát
cũng góp mặt không kém. Các món đặc sản địa phương được khách hàng ưa thích như
nem Chợ Huyện của bảy Ù, chim mía ở Lộc Lễ, rượu nếp và rượu gạo ở Trường Thuế (dân
chúng quen gọi là Trường Thế) đă măi măi đi vào ca dao của dân tộc:
Rượu ngon Trường Úc mê ly
Gặp nem Chợ Huyện bỏ đi không đành
Đến với Chợ G̣ không những để ăn uống,
mua rau quả để lấy lộc, mua pháo để lấy hên đâu năm, hoặc để thưởng thức tài
viết chữ "phượng múa rồng bay" trên liễn đối, mà đến với Chợ G̣ c̣n có đủ các
tṛ vui chơi mang màu sắc dân gian như đánh bài cḥi, chơi lô tô, giải đáp câu
thai, đánh cờ tướng, đá gà... Nếu ai nặng máu đỏ đen th́ tha hồ sát phạt ở các
ṣng bài như xóc dĩa, bầu cua tôm cá, x́ lác... nhưng phần lớn họ đến đây để gặp
gỡ bạn bè, trao nhau những lời chúc tụng, kéo nhau đi xem chợ và khi mặt trời
đứng bóng th́ chia tay ra về.
Hội tết Chợ G̣ đơn giản chỉ có thế nhưng
rất vui, đậm đà t́nh bạn, t́nh quê hương; năm nào bận việc không đến được vẫn
thấy tiếc. V́ thế, từ sáng sớm đoạn đường quốc lộ 1 cũ từ ngả tư Phủ Mới đến ngả
ba Chợ Dinh (khoảng 5 cây số) đông nghệt người đi, xe chở hành khách không thể
qua lại được. Muốn đến Chợ G̣ phải xuống xe, đi bộ vài cây số, có thể dùng xe
đạp hay xe gắn máy đến gần địa điểm, rồi t́m chỗ gửi xe an toàn, mới rảnh tay
vào cuộc vui xuân.
LỄ HỘI ĐỐNG ĐA
Lễ hội Đống Đa được tổ chức từ năm 1960,
địa điểm hành lễ là Điện thờ Tam Kiệt Tây Sơn, tại làng Kiên Mỹ (đất Tây Sơn cũ)
xă B́nh Thành quận B́nh Khê (nay là huyện Tây Sơn) vào ngày mồng 5 tết. Đây là
lễ hội truyền thống lớn nhất tỉnh B́nh Định.
Lần giở lại trang sử oai hùng của dân
tộc, cuối năm 1788 vua Kiền Long nhà Thanh sai Tôn Sĩ Nghị đem 20 vạn quân sang
chiếm nước ta. Trước khí thế mạnh như vũ băo của giặc, ngày 21 tháng 11 năm Mậu
Thân (18-12-1788) Tư mă Ngô Văn Sở nghe theo lời bàn của Ngô Thời Nhậm, cho
chuyển quân từ Thăng Long về Tam Điệp để bảo toàn lực lượng.
Ngày 24 tháng 11 năm Mậu Thân
(21-12-1788) tin cấp báo về tới Phú Xuân th́ ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân,
Nguyễn Huệ làm lễ đăng quang ở Bàn Sơn (phía nam núi Ngự B́nh) và chỉ 4 ngày sau
(29 tháng 1 Hoàng đế Quang Trung cùng đại binh đă có mặt tại Nghệ An. Nhà vua
cho dừng quân ở đây để tuyển thêm tân binh và hội kiến với La Sơn Phu tử.
Ngày 20 tháng 12 năm Mậu Thân, đại quân
đến núi Tam Điệp. Quang Trung tuyên bố trước tướng sĩ: "Chỉ nội 10 ngày nữa ta
sẽ đuổi hết được giặc Thanh. Bữa nay ta ăn tết Nguyên Đán trước, sang xuân ta sẽ
ăn tết Khai Hạ vào ngày mồng 7 ở Thăng Long" (Việt Sử Tân Biên, quyển 3, trang
43.
Quang Trung chia quân làm ba đạo:
- Đại đô đốc Lộc và Đô đốc Tuyết lănh hữu quân(có
sách chép là tả quân) đi đường biển. Đại đô đốc Lộc theo sông Lục Đầu tràn lên
Bắc Ninh và Bắc giang, Phượng Nhăn chận đường về của giặc. C̣n Đô đốc Tuyết đổ
bộ vào Hải Dương tiếp ứng cho mặt trận miền Đông.
- Đại đô đốc Bảo và Đô đốc Long (có sách chép là
Mưu) đem tả quân, có tượng và kỵ binh tăng cường, đi bọc đường núi đánh tạt cạnh
sườn vào pḥng tuyến địch. Đại đô đốc Bảo mở mặt trận phía tây, dùng tượng binh
từ huyện Sơn Minh (phủ U¨ng Thiên, trấn Sơn Nam thượng) đánh vào căn cứ địch ở
xă Đại Án, Nguyệt Án (tổng Vĩnh Hưng, huyện Thanh Tŕ, phủ Thường Tín, trấn Sơn
Nam thượng). C̣n Đô đốc Long đem tượng binh và kỵ binh đi đường tắt từ huyện
Chương Đức (phủ Ứng Thiên, năm 1814 đổi thành phủ Ứng Ḥa) đến huyện Thanh Tŕ (phủ
Thường Tín) hành quân chớp nhoáng từ tây bắc xuống nam, chiếm gọn hai căn cứ
Nhân Mục và Yên Quyết, rồi nửa đêm mùng 4 vây kín đồn Khương Thượng. Đề đốc Sầm
Nghi Đống nhà Thanh chưa kịp xoay trở th́ mũi nhọn cảm tử quân đă phá vỡ thành
xông vào như nước vỡ bờ. Đống phải mở đường máu chạy về Thăng Long nhưng khi đến
g̣ Đống Đa, lại bị một cánh quân của Đô đốc Long đón sẵn, bí đường hắn phải thắt
cổ tự ải.
- Đạo quân thứ ba do chính Quang Trung thống lĩnh
cả ba doanh: Tiền, Trung, Hậu quân; có Tư mă Sở và Nội hầu Lân lănh Tiền quân
làm mũi nhọn tiên phong. Tân binh ở Nghệ An sung vào Trung quân do nhà vua trực
tiếp chỉ huy. Hậu quân có Hô Hổ hầu thủ vai đốc chiến và đề pḥng địch tập hậu.
Ngày 30 tháng chạp, đại quân vượt bến đ̣ Gián Khuất (Ninh B́nh), dùng chiến
thuật đấm so đũa tức là ngược chiều tiến quân của giặc, chớp nhoáng hạ các đồn
Thanh Liên, Nhật Tảo, Phú Xuyên, Hà Hồi, Ngọc Hồi...
Sáng mồng năm Tết, tại cung Tây Long,
Tôn Sĩ Nghị đang sốt ruột theo dơi mặt trận phía nam, bỗng nghe tin cấp báo quân
của Đô đốc Long như trên trời giáng xuống, tiến vào cửa Tây với khí thế ngùn
ngụt. Nghị hoảng quá, không kịp mặc áo giáp, bỏ cả sắc thư và ấn tín, vội nhảy
lên ngựa chưa kịp thắng yên cương, chạy thoát ra thành Thăng Long, vuợt cầu phao
qua sông Nhị Hà. Quân Thanh tranh nhau chạy theo, cầu phao bị ứ nghẽn, đứt dây,
ném cả xuống sông, chết vô số kể.
Trong lịch sử Việt Nam, nhiều lần đánh
đuổi quân ngoại xâm, nhưng chỉ có lần này quét sạch 20 vạn quân Thanh trong 5
ngày và sớm hơn dự định 2 ngày. Trên hết là thiên tài quân sự của Đại đế Quang
Trung. Bên cạnh đó, có ba người góp công đắc lực:
- Một văn thần đầy mưu lược và ḷng cả quyết, đă
thuyết phục đám vơ thần theo chiến lược "Dĩ dật đăi lao", dưỡng lấy cái nhàn cho
quân ta để chống lại cái mệt nhọc của giặc, rất hợp ư của Quang Trung. Đó là Hy
Doăn Ngô Th́ Nhậm, ngôi sao sáng của sĩ phu Bắc hà.
- Một ẩn sĩ người làng Mật Thôn xă Nguyệt Ao, tổng
Lai Thạnh, huyện La Sơn, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An (nay thuộc Hà Tĩnh) đă hiến
kế "Quân quư thần tốc" trong chiến dịch đại phá quân Thanh, cũng hợp với ư nhà
vua. Đó là Lam Hồng dị nhân Nguyễn Quang Thiếp (sau bỏ chữ Quang v́ kiêng húy,
được người đời phong danh hiệu La Sơn Phu Tử.
- Một danh tướng của miền đất vơ B́nh Định, với
chiến thuật sét đánh ngang tai, uy hiếp tinh thần địch quân đến cùng độ. Chỉ một
đêm, Sầm Nghi Đống sợ quá phải tự tử; chỉ một sáng, dồn Tôn Sĩ Nghị phải chạy
trốn một cách nhục nhă. Đó là Đô đốc Đặng Văn Long, tự là Tử Vân, người huyện
Tuy Viễn, phủ Qui Nhơn (nay là tỉnh B́nh Định), được người đời phong danh hiệu
Đặng Thiết Tư (cánh tay của họ Đặng cứng như sắt).
Năm 1802, Gia Long lật đổ được nhà Tây
Sơn, ngôi nhà từ đường, nơi ba anh em Tây Sơn chôn nhau cắt rún, bị san bằng;
chỉ có cái giếng là di tích c̣n lại. Sau nhờ sáng kiến của dân làng, ngôi đ́nh
Kiên Mỹ được dựng lên trên khu đất ấy. Mặt ngoài, lập đ́nh để thờ thần nhưng
trong ḷng không ai bảo ai, họ vẫn ngầm hiểu lập ra để thờ Tam Kiệt Tây Sơn; v́
mỗi lần tế xuân thu, họ không bao giờ đọc văn tế mà chỉ khấn vái thầm.
Trong thời Việt Minh (1945-1954) đ́nh
Kiên Mỹ bị phá hủy. Năm 1960, nhân dân quận B́nh Khê góp công của lập đền thờ
Tây Sơn trên khu đất ấy. Điện thờ có ba gian, gian giữa thờ Quang Trung, gian
hai bên thờ vua Thái Đức và Đông Định vương cùng các tướng sĩ. Nơi đây, hàng năm
tỉnh B́nh Định tổ chức lễ Đống Đa, số người trẩy hội lên đến hàng trăm ngàn
người. Dân chúng cho rằng, ăn tết mà không biết hội dân gian ở Chợ G̣ là điều
đáng tiếc, nhưng không đi dự lễ hội Đống Đa th́ coi như năm ấy chưa hưởng trọn
hương vị Tết của tỉnh nhà.
Sáng ngày mồng 5 Tết, đoạn quốc lộ 19 từ
ngả ba Cầu Gành đến thị trấn Phú Phong, khoảng 50 cây số, đông nghẹt xe cộ.
Người ở Tuy Phước, Qui Nhơn lên Cầu Gành bằng hai ngả đường, ngang qua thị trấn
Tuy Phước và thị trấn Diêu Tŕ. Người ở tận đèo Cù Mông, thị trấn Phú Tài và
tỉnh Phú Yên theo quốc lộ 1 ra Cầu Gành. Người ở huyện Vân Canh và xă Phước
Thành theo liên tỉnh lộ 6 xuống Diêu Tŕ rồi ra Cầu Gành. Người ở cao nguyên An
Túc xuống đèo An Khê rồi theo quốc lộ 19. Người ở huyện Vĩnh Thạnh th́ xuôi ḍng
sông Côn về dự hội. Người ở tận miền bắc tỉnh B́nh Định như các huyện An Lăo,
Hoài Ân, Hoài Nhơn, Phù Mỹ, Phù Cát cũng theo quốc lộ 1 vào Cầu Gành. Người ở An
Nhơn th́ từ thị trấn B́nh Định đi đường tắt đến An Thái rồi qua ngả B́nh Nghi
đến Phú Phong.
Muốn xem trọn vẹn lễ Đống Đa phải đến
điện Tây Sơn từ trưa mùng 4 Tết v́ chiều hôm đó các nghi lễ cổ truyền đă được tổ
chức. Lễ tế rất long trọng, cả khu vực rộng lớn cờ lọng nghi trượng rợp trời,
chiêng trống rền vang, người xem như cảm thấy ḷng ḿnh ḥa nhập vào hồn thiêng
sông núi địa linh nhân kiệt. Tối hôm ấy phải ngủ trọ tại xă B́nh Thành hay tốt
nhất là tại thôn Kiên Mỹ để sáng sớm hôm sau kịp chen chân đến khu vực hành lễ.
Chương tŕnh ngày mồng 5 tuy có thay đổi
hàng năm nhưng các mục chính th́ năm nào cũng có: Đó là bài diễn văn ôn lại lịch
sử Tây Sơn với cuộc đại phá quân Thanh, biểu diễn vơ thuật, trống trận Tây Sơn
và thao diễn trận pháp.
Tiết mục vơ thuật Tây Sơn, trong những
năm đầu thập niên 70, người ta thường thấy nữ vơ sĩ Thanh Tùng, con nhà vơ ba
đời lừng danh đất Tây Sơn, biểu diễn các bài quyền như Lăo Mai Độc Thọ hay các
bài roi như Tấn Nhất Ô Du, được tán thưởng với biệt danh "Hổ cái Miền Trung".
Tiết mục nhạc vơ Tây Sơn là môn nghệ
thuật độc đáo của B́nh Định, người biểu diễn vừa phải có tâm hồn nghệ sĩ vừa là
bậc vơ siêu đẳng và luyện đôi tay thần diệu để tác dụng lên tṛng trống, vành
trống và thân trống bắng cả hai bàn tay, cổ tay, khuỷu tay, cánh tay, tiếp xúc
vào một bộ trống gồm 12 chiếc lớn nhỏ khác nhau, gọi là Song Thủ Đả Thập Nhị Cổ,
tạo nên những âm thanh hùng tráng khác lạ, khiến người xem như bị lôi cuốn, thúc
dục.
Tiết mục biểu diễn chiến trận Đống Đa
lại càng hào hứng và hấp dẫn hơn nữa, được tổ chức trên địa thế qui mô, dàn dựng
công phu, tập dượt chu đáo, có cả ngàn người thao diễn với cờ xí, chiêng trống,
sắc phục, đồn lũy y như cảnh thật. Người xem tưởng ḿnh đang sống trong thời đại
Tây Sơn, dậy lên ḷng tự hào dân tộc và từ đó muốn làm một việc ǵ để đời cho
đất nước, cho quê hương.
Có những năm dân B́nh Định c̣n được xem
lực lượng quân đoàn II biểu diễn, trên trời các phi đoàn oanh kích, duới đất có
bộ binh tiến chiếm mục tiêu, với xe tăng và pháo binh yểm trợ rầm rộ. Người xem
được ôn cố tri tân, vừa ngưỡng mộ kỳ tích của tiền nhân vừa hài ḷng với thành
quả hôm nay, làm nức ḷng tuổi trẻ.
Lễ hội được tổ chức trong tỉnh B́nh Định, nhưng
lại là tầm cỡ quốc gia v́ có đông quan khách cấp trung ương của các ngành hành
chánh, quân sự, văn hóa, giáo dục và các nhà trí thức từ Sài G̣n ra dự.
HỘI HÁT XUÂN
Hội Hát Xuân có từ lâu, có lẽ phát xuất
từ lúc tỉnh thành B́nh Định được xây dựng năm Mậu Th́n (1808), Gia Long thứ 7,
khi khánh thành có hát mừng và từ ấy năm nào cũng tổ chức, lâu năm thành lệ.
Hàng năm, sau tết Nguyên đán, trong
tháng giêng âm lịch có lệ hát bội tại B́nh Định, quen gọi là Hát Xuân, do quan
đầu tỉnh tổ chức, đám hát này lớn nhất, được tổ chức chu đáo nhất, diễn xuất hay
nhất và khán giả cũng đông đảo nhất , so với các cuộc hát xướng trong năm ấy tại
tỉnh nhà.
Con hát được lựa chọn, toàn đào kép
thượng thặng, rút ra từ các gánh hát trong tỉnh, nên gọi là "hát rút". Hát Xuân
cũng chỉ diễn lại các tuồng nổi tiếng như "Sơn Hậu, Phụng Nghi Đ́nh, Ngũ Hổ B́nh
Tây, Hộ Sanh Đàn, Diễn Vơ Đ́nh, Tân Dă Đốn, Tam Nữ Đồ Vương..." nhưng rất hấp
dẫn v́ đào kép xuất sắc đảm nhận từ vai chính đến các vai phụ, nên diễn xuất
hoàn hảo từ đầu tới cuối.
Mặc dù sân khấu đặt trong sảnh đường
rộng lớn, nhưng quan lại và dân chúng từ các nơi đổ về đông nghẹt, phải cất nhà
tạm bằng tranh tre để dung nạp quan khách có chỗ ăn uống và nghỉ ngơi. Tuy là
nhà tạm nhưng cũng xén cắt mái tranh ngay thẳng, trần thiết kỹ lưỡng, cũng
trướng rũ màn che, liễn hoành rực rỡ.
Tỉnh có đội lính dàn chào để đón quan
khách, cờ lọng rợp trời, gươm tuốt trần, súng cầm tay trông thật long trọng.
Ngày khai mạc có đủ mặt các quan lớn nhỏ trong tỉnh và có nhiều đại biểu từ các
tỉnh khác đến dự. Hàng ghế đầu, ngồi giữa là quan Tổng Đốc, bên tả có quan Bố
Chánh, bên hữu có quan Án Sát, ngoài ra c̣n có các vị thượng khách, các quan đại
thần về hưu. Thường th́ quan đầu tỉnh lănh vinh dự cầm chầu điều khiển cuộc hát,
tuy nhiên cũng có khi nhường lại roi chầu cho một vị quan khác v́ không rành hát
bội. Các hàng ghế kế tiếp lần lượt dành cho các tri phủ, tri huyện, các quan hưu
trí, thân hào nhân sĩ, các viên thơ lại, rồi đến Chánh, Phó tổng, các chức sắc
làng xă, sau cùng là dân chúng đứng xem trong trật tự, yên lặng. Mọi người từ
già trẻ lớn bé đều phải mặc áo dài, sang th́ bận áo cặp trong trắng ngoài đen,
hèn th́ cũng phải áo đơn, đàn ông đội khăn đóng, đàn bà chít khăn hay đội nón.
Đám hát kéo dài suốt hai ngày hai đêm,
diễn hết tuồng này đến tuồng khác, đào kép thay phiên nhau tŕnh diễn liên tục.
Sáng bắt đầu từ 7 giờ đến 11 giờ, chiều hát từ 1 giờ đến 5 giờ, tối tiếp tục từ
7 giờ đến quá nửa đêm và phải tŕnh diễn cho hết tuồng mới thôi. Ban ẩm thực làm
việc suốt ngày đêm, sẵn sàng cỗ bàn, mỗi ngày ba bữa chu đáo. Ḅ, heo, dê, gà
vịt nhốt sẵn, cần th́ đem ra xẻ thịt ngay.
Gánh hát nào có nhiều đào kép được quan
tỉnh chọn vào đám Hát Xuân th́ được nổi tiếng. Riêng cá nhân của diễn viên cũng
có nhiều quyền lợi, được các quan thưởng tiền trong những pha độc đáo, nếu rất
xuất sắc được xét ban cho phẩm hàm trong làng nghệ sĩ như chức danh Chánh ca (hàm
Chánh Cửu phẩm rồi lên Tùng Bát phẩm), Phó Chánh ca, Quản ca... v́ thế, các diễn
viên thi nhau trổ tài, đem hết ngón nghề ra cống hiến.
Năm 1934, dinh quan tỉnh dời về Qui Nhơn,
thành B́nh Định giao lại cho quan Phủ, tuy nhiên hàng năm quan Tổng đốc vẫn về
đây chủ tŕ việc Hát Xuân. Lần hát cuối cùng vào xuân Ất Dậu (1945), sau đó là
thời kỳ Việt Minh, thành B́nh Định bị san bằng và Hội Hát Xuân cũng chấm dứt
vĩnh viễn.
LỄ HỘI CẦU NGƯ
Cầu Ngư là lễ hội hàng năm của dân chài
chuyên nghề đánh bắt cá biển. Làng Xương Lư, quen gọi là Vũng Nồm (4) tổ chúc lễ
vào mồng 10 tháng giêng âm lịch, c̣n làng Hưng Lương (4) quen gọi là Vũng Bấc
lại chọn ngày mồng 6 tháng 3 âm lịch và đây là lễ hội lớn nhất trong năm của hai
làng này.
Buổi chiều trước ngày hành lễ, tất cả
dân chài, chỉ trừ phự nữ đang có kinh nguyệt không được bén mảng đến, c̣n bao
nhiêu đều phải có mặt tại lăng thờ ông Nam Hải (cá voi) và đợi quá nửa đêm, cuối
giờ Tí đầu giờ Sửu (1 giờ sáng) mới cữ hành lễ.
Ban tế lễ gồm vị chánh tế đứng giữa
chiếu tế trực diện với chánh điện, vị bồi tế đứng sau các một bước sải chân (khoảng
1 mét). Ngoài ra c̣n bốn học tṛ gia lễ mang trống chiến (mặt trống gần bằng
trống chầu nhưng thân trống ngắn bằng một phần ba), từng cặp đối xứng đứng hầu
hai bên án trong và hai bên tiến đường. Ban nhă nhạc gồm một người đánh trống
chầu đứng bên tả và một người đánh chiêng đứng bên hữu sân tế.
Lễ vật gồm có ḅ, heo. Các con vật chịu
lễ bị trói chặt, tắm rửa sạch sẽ, đật nằm trên sạp trước sân tế.
Đứng đầu ban tổ chức là vị hương lễ
tuyên bố khai mạc, tức th́ ba hồi chín tiếng trống chầu gióng lên rồi đến ba hồi
chín tiếng chiêng vang dậy. Trên bàn thờ hương trầm nghi ngút, tăng thêm vẻ uy
nghiêm. Bốn học tṛ gia lễ vừa đi vừa đánh nhịp trống, từ từ tiến vào vị trí đă
định sẵn. Rồi đến hai vị chánh tế và bồi tế, mặc áo rộng xanh, đội mũ lễ, đi
giày hia, hai tay chắp lại, cung kính tiến vào chiếu tế trước chánh điện, theo
nhịp trống của bốn học tṛ lễ.
Các đồ tể mặc áo gọn gàng, buộc thắt
lưng đỏ, cầm dao phang bén nhọn, đứng bên sạp đợi lệnh. Một lần nữa ức và cổ con
vật chịu lễ được chùi sạch bằng khăn ướt và lau lại bằng khăn khô, rối cắt tiết,
máu tươi được hứng vào thau sạch, đem dâng tế Thủy thần.
Bốn học tṛ gia lễ đồng loạt xướng hưng,
bái. Khi xướng "hưng" th́ hai vị chánh tế bồi tế đứng thẳng người, chắp tay
trước ngực. Khi xướng "bái" th́ cả hai qùy xuống, đầu cúi sát cho trán chạm đất.
Lạy đúng ba lần, học tṛ lễ xướng "hưng, b́nh thân".
Xong tiết mục lễ bái, vị Hương lễ đọc
văn tế với đại ư cầu xin thủy thần Đông Hải pḥ hộ cho trời yên bể lặng, năm mới
được mùa cá. Sau đó, màn hát bả trạo (hát có cầm mái chèo) tượng trưng cho con
thuyền ra khơi đánh cá. Đây là loại dân ca nghi lễ ở vùng ven biển miền nam
Trung Việt, tŕnh bày hoạt cảnh bơi thuyền qua nghệ thuật diễn tuồng. Diễn viên
toàn là đàn ông, vừa hát vừa múa nhịp nhàng theo động tác chèo lái. Đội h́nh hát
bả trạo gồm một Tổng tiền (tức Tổng mũi) đứng trước, tiếp theo có 8 hay 12 hoặc
16 con trạo (tức bạn chèo) xếp thành hai hàng dọc, một Tổng thương (tức Tổng
khoang) đứng giữa hàng bạn chèo và sau cùng là Tổng hậu (tức Tổng lái). Về trang
phục và trang cụ, Tổng mũi và Tổng lái mặc lễ phục cổ truyền nhưng Tổng mũi hóa
trang rực rỡ, nai nịt oai vệ như một vị tướng, tay cầm cặp sênh, mặt quay về
phía bạn chèo, gơ nhịp điều khiển; c̣n Tổng lái tay cầm chèo dài khoảng 2 mét,
múa động tác lái thuyền. Các bạn chèo đồng phục trắng, đầu chít khăn, thắt lưng
đỏ, chân đi bít tất có quấn xà cạp, tay cầm mái chèo ngắn độ 1,2 mét múa động
tác chèo thuyền. Về nghệ thuật, có sự phối hợp nhịp nhàng giữa âm nhạc, lời ca
và động tác. Về nhạc cụ, ngoài cặp sênh của Tổng mũi c̣n có đàn c̣, trống kèn
đệm âm. Về diễn xuất, Tổng mũi phải là một nghệ sĩ biết đủ các làn điệu dân gian
từ ca, ngâm, lư, hát bài cḥi, phú, ḥ đến các làn điệu hát tuồng như nói lối,
tán, oán, thán, xướng, hát nam...
Xong màn hát bả trạo, đến lượt hát bội, hát đến
sáng. V́ hát lễ nên phải chọn tuồng cho hợp với sự cung nghiêm như Hoa Dung Lộ (Quan
Công tha Tào Tháo), Cổ Thành (Quan Công quá quan)...
Tiếp sau đêm tế ở lăng ông Nam Hải, dân
làng c̣n tổ chức hát bội ba đêm liền nhưng dời sân khấu ra băi cát rộng bên
ngoài lăng cho mọi người xem, tránh sự xâm nhập tà tạp, mang ô uế đến nơi thờ
phượng.
LỄ HỘI ĐÂM TRÂU
Theo tài liệu thống kê và nhân chứng ,
đồng bào Bania (Bahnar, Bana) hiện nay có 136.859 người ở rải từ Kontum, Pleiku,
An Túc và phía tây hai tỉnh B́nh Định, Phú Bổn (nay thuộc Phú Yên). Dân tộc
thiểu số Bana có bảy chi nhánh nhưng chỉ có ba nhánh: Alakông, Tơ lô và Bơ Nam (B.Mơ
Nam) là tập trung ở An Túc, dọc biên giới phía tây tỉnh B́nh Định và đông đảo ở
huyện Vĩnh Thạnh (.
Hàng năm, từ tháng chạp đến tháng ba âm
lịch, dân tộc Bana theo truyền thống mở lễ hội tạ ơn Giàng (Yang) là đấng thần
linh tối cao của họ. Người Bana gọi lễ ấy là Koh Kpô hay Groong Kpô Tonơi, tiếng
Việt gọi là Lễ Hội Đâm Trâu.
Theo Đặc san Văn hóa B́nh Định (ấn hành
tại Qui Nhơn, 1992) và các tài liệu khác, già làng chọn băi đất rộng, bằng phẳng
thuộc địa phận buôn làng ḿnh để dựng giàn tế (gưng) là một quân thể gồm: Một
cây tre cao, thẳng, c̣n nguyên ngọn, gốc được chôn vững vàng gọi là nêu, sát bên
cây nêu là một cột lớn rắn chắc bằng cây muôn hay cây plang, cũng được chôn chặt
để đỡ cây nêu và dùng vào việc buộc trâu; nhưng nếu chọn được cây săn thẳng, đủ
vững chắc để làm nêu th́ không cần trụ buộc trâu nữa. Và quanh cây nêu c̣n trồng
4 hay 8 trụ gỗ tṛn, cao độ 3 mét, đường kính khoảng 15cm. Các trụ gỗ này được
bố trí theo h́nh hoa thị đối xứng từng cặp và trang trí thành những vành khuyên
sơn màu đen, trắng, xanh, đỏ xen kẽ nhau. Ở đầu các trụ gỗ có các thanh ngang
buộc nối hai trụ lại với nhau, cấu kết theo thế liên hoàn vững chắc. Dọc theo
chân cây nêu có các dây buông dài, tết bằng lạt tre buộc những tấm nan h́nh tam
giác và các ống tiêu gió bằng cây lồ ô đưa vi vu trước gió. Trên cùng cây nêu có
treo túi thiêng, tiếp theo là cánh phướng đan bằng lạt giang, biểu tượng cho
chim đại bàng (kring), h́nh ảnh của sức mạnh và trí tuệ (5).
Lễ hội Đâm Trâu được tổ chức trong ba
ngày, hai ngày đầu tại giàn tế (gưng), ngày cuối ở sân Nhà Làng (nhà Rông). Ngày
thứ nhất, người ta dắt một con trâu to béo, đầy sức lực đến giàn tế, nối cổ trâu
vào cột tế (Plang Kpô) bằng một dây thừng bện thật chắc, dài độ 2 mét tây. Dân
trong buôn và người xem đứng bao quanh giàn tế thành một ṿng tṛn rộng.
Giờ hành lễ bắt đầu, dàn cồng rộn ră nổi
lên chen lẫn âm thanh của bộ chiêng rền vang, kết hợp với bộ trống lớn (Bnưng)
dồn dập, dậy lên bản giao hưởng hùng tráng như tiếng gọi từ hồn thiêng ngày hội.
Các thanh niên nam nữ xếp hàng dọc, tay
cầm gậy múa Kơ tếch (điệu múa dành riêng cho lễ hội Đâm Trâu), đi ṿng quanh
giàn tế theo chiều ngược kim đồng hồ, vị tù trưởng đứng vai chủ tế dẫn đầu các
vị bô lăo (chừng 5, 6 người), mặc lễ phục sặc sỡ từ từ tiến đến giàn tế, quỳ rạo
khấn vái thần Giàng (Yang). Tiếp theo bài khấn là lễ Hiến tế, một bô lăo mạnh mẽ
nhất trong ban tế lễ, tay cầm giáo, tay cầm khiên bước ra khỏi hàng, lựa thế đâm
một nhát vào con vật tế thần. Tuy bị thương nhưng trâu vẫn c̣n sức mạnh, cố bứt
dây chạy thoát nhưng không được, đành chạy ṿng quanh giàn tế. Mọi người trong
buôn đồng loạt hú lên, rung chuyển cả núi rừng và đi quanh giàn tế đánh cồng,
múa hát đến chiều tối mới măn.
Ngày thứ hai, cả buôn tập trung bao
quanh giàn tế để làm lễ hiến sinh. Lần này trai tráng trong buôn vào cuộc. Họ
cầm vũ khí và khiên, la hét, dồn đuổi con trâu chạy quanh giàn tế. Họ thi nhau
bắn cung, phóng lao, đâm giáo vào con vật tế thần. Ḷng dũng cảm và sự khôn khéo
của họ được thể hiện qua cách săn đuổi con mồi, và phần thưởng chiến thắng dành
cho chàng trai nào lựa được thế, đâm thẳng tim con vật gục xuống chết ngay. Già
làng cầm bát đồng hứng máu tươi, ḥa với rượu dâng thần linh. Tiếng hú mừng
chiến thắng lại một lần nữa vang trời dậy đất.
Trâu được xẻ thịt ngay tại chỗ, chọn
thịt ngon và toàn bộ lá gan chia đều cho năm nhóm rồi vảy máu đă ḥa rượu, cung
kính đật trên bàn thờ thần Giàng. Già làng đứng ra khấn bái. Xong lễ, gan trâu
được chia đều cho tất cả trai tráng trong buôn. Họ tin rằng ăn gan đó sẽ tăng
cường sức mạnh và ḷng dũng cảm v́ đă có thần Giàng chứng nhận.
Ngày thứ ba, túi thiêng trên cây nêu
được rước về thờ ở nhà Rông, đặt ngay chỗ để ṿ rượu chính. Già làng làm lễ khấn
xong, gọi mọi người đến uống rượu này v́ tin rằng ảnh hưởng của túi thiêng đă
ḥa trong rượu, uống vào sẽ tiêu trừ những rủi ro bệnh tật. Họ c̣n tổ chức những
tṛ chơi thượng vơ ngay trước sân nhà Rông như bắn cung, đấu kiếm, phóng lao,
đấu vơ... cuộc vui suốt ngày và kéo dài đến thâu đêm suốt sáng.
Lễ hội ngày xuân ở B́nh Định c̣n nhiều
lắm, v́ bài viết giới hạn trong khuôn khổ trang báo, không thể nêu lên hết được.
Ngày nay, các lễ hội như Chợ Tết G̣ Chàm, Hội Tết Chợ G̣, Lễ Hội Đống Đa vẫn c̣n
đó, tuy có thay đổi ít nhiều cho phù hợp với hoàn cảnh của mỗi thời đại. Hội Hát
Xuân đă tắt lịm từ lâu, nhưng dân chúng vẫn c̣n nuối tiếc. Mỗi dịp xuân về, ở
một vài nơi c̣n gắng gượng tổ chưc đám hát nho nhỏ tại địa phương. Dĩ nhiên
không thể nào có được cái huy hoàng ngày cũ và cũng không thể giữ lệ đều đặn
hàng năm. Lễ Hội Cầu Ngư tuy vẫn c̣n nhưng thu gọn lại nhiều, màn diễn bả trạo
đă vắng bóng, c̣n hát bội th́ năm có năm không, lệ cắt tiết các con vật trước
sân tế đă bỏ hẳn v́ không ai muốn đem vào cuộc vui cảnh lưu huyết thương tâm.
C̣n Lễ Hội Đâm Trâu của người Bana đă
rút ngắn c̣n một ngày đêm, con vật chịu lễ được các tay thiện nghệ nhanh chóng
đâm chết, không c̣n cảnh săn đuổi kéo dài sự hăi hùng đau đớn và người dự lễ hội
đỡ bị căng thẳng thần kinh v́ thương cảm.
ĐÀO ĐỨC CHƯƠNG
Đặc san QUANG TRUNG & TÂY SƠN Xuân
Canh Th́n 2000
|