Cao-Lănh, Quê Hương Tôi
Nguyễn Vĩnh Thượng
„Hữu duyên thiên lư năng tương ngộ“
Cách đây hơn 10 năm, ông bà Trần Quang Hạo đă định
cư tại Toronto, Canada, do một người con bảo lănh. Ông cụ đă cho tôi
một số sách và tài liệu nói về đất Cao-Lănh đồng thời cũng kể lại
cho tôi nghe những nơi và những điều ông đă biết trong quăng đời ông
đă sống tại Cao-Lănh và Sa-Đéc. Cụ nay đă 83 tuổi.
Nhà văn Huỳnh Trung Chánh, từ một thành phố ở
California Hoa Kỳ, đă gởi cho tôi một số tài liệu về Cao-Lănh.
Mẹ tôi, Bà Nguyễn Thị Quỳnh, nay đă 90 tuổi, đang
định cư ở Paris, Pháp cũng đă kể cho tôi nghe nhiều điều mắt thấy
tai nghe về Cao Lănh, nhất là Bà đă chép lại một bài thơ duy nhất mà
bà đă sáng tác vào năm 1947, ghi lại tâm sự của Bà trong cuộc tản cư
của dân Cao-Lănh trước cảnh khói lửa chiến tranh vào hồi đó.
Thên vào đó, một số thân hữu của tôi ở xa và gần: có
vị gởi tài liệu, có vị điện thoại để lại việc này việc khác, có vị
đă gởi E-Mail (điện thư) góp ư và cho thên tài liệu về Cao-Lănh.
Tôi chân thành cám ơn tất cả các vị đă nêu trên.
Khi sắp xếp tài liệu lại để căn cứ vào đó mà viết về
Cao-Lănh, tôi nhận thấy rằng tài liệu vẫn hăy c̣n thiếu sót, có
nhiều điều tôi chưa biết hết, và ngay cả điều tôi được biết th́ cũng
chưa chắc đă đúng. Thiếu sót, lệch lạc th́ có thể đưa đến chỗ những
điều tôi viết có thể sai lầm. Tôi ước mong các độc giả sau khi đọc
những ǵ tôi viết về đất Cao-Lănh nếu có chỗ thiếu sót, có chỗ sai
th́ quí vị giúp giùm bổ sung và sửa chữa lại.
Cao-Lănh chỉ là một vùng đất nhỏ ở phương Nam của
đất nước Việt Nam. Ngày xưa, cả vùng đất mới ở phương Nam gọi là
Nam-Kỳ Lục Tỉnh v́ gồm có 6 tỉnh như sau: 1.
Biên Ḥa, 2. Gia Định, 3. Định Tường, 4. Vĩnh Long, 5.
An Giang, 6. Hà Tiên. Đất nước ta đă bắt đầu mở
mang bờ cơi đi về vùng đất phía nam, một miền đất trù phú và thịnh
vượng, đă được khoảng 300 năm nếu tính từ lúc chúa Nguyễn Phước
Nguyên gả công chúa Ngọc Vạn cho quốc vương Chân Lạp Chey Chetta II
năm 1620 rồi mượn đất Prey Nokor-Kaskobey để thiết lập trạm thuế
(1623), rồi được quốc vương Nặc Tôn của nước này dâng đất Tầm Phong
Long năm 1757 để tạ ơn. Rồi Nghi Biểu Hầu Nguyễn Cư Trinh lo việc
bảo vệ và mở mang đất Gia Định trong ṿng 11 năm (1754-1765), rồi
Tông Đức Hầu Mạc Thiên Tứ với chức vụ Khâm Sai Đô Đốc trấn thủ Hà
Tiên đă mở mang đất Hà Tiên (gồm Hà Tiên - Rạch Giá – Cà Mau) … cho
đến ngày nay, năm 2004.
Trong bài này, tôi sẽ viết về nguồn gốc địa danh
Cao-Lănh, di tích Tháp Mười và nền văn hóa Óc Eo.
Trong tương lai, nếu có cơ hội thuận lợi, tôi sẽ
viết tiếp về
-
Các nhà cách mạng kháng chiến chống Pháp tại Cao-Lănh và các
nhân vật có uy tín tại Cao-Lănh,
-
Tinh thần dân Cao-Lănh hay là phong cách của người dân
Cao-Lănh. Văn thơ Cao-Lănh, một mảnh văn chương của văn học miền
Nam;
-
Phật giáo xứ đàng trong ở tại Cao-Lănh, Ḥa Thượng Phạm Văn
Hổ, tức Ḥa Thượng Hấu, và quan niệm độc đáo của vua Tự Đức
(1847-1883) trong việc sắc phong các cư sĩ có đạo cao đức trọng làm
Ḥa Thượng, một chức sắc cao cấp trong hàng giáo phẩm của Phật Giáo.
I.
Nguồn
gốc địa danh Cao-Lănh
Cao-Lănh cách Sài G̣n 162 km đường bộ. Từ Sài G̣n
đi quốc lộ 4 (bây giờ là quốc lộ 1A) tới An Hữu rồi rẻ về phía phải
để đi vào đường liên tỉnh 40, tức là đường đi về phía Tây Bắc th́
Cao-Lănh cách ngả ba An Hữu 36 km. Chúng ta cũng có thể đi qua Sa
Đéc rồi từ Sa Đéc đi về Cao-Lănh cũng được, nhưng thời gian lâu hơn
v́ phải qua bắc Mỹ Thuận (bây giờ đă có bắt cây cầu ngang qua sông
Tiền khỏi phải chờ đợi qua bắc như trước) rồi qua Sa Đéc, từ Sa Đéc
đi Cao-Lănh, trước khi qua Cao Lănh th́ phải qua bắc Cao Lănh. Cao
Lănh nằm bên ḍng sông Cao Lănh dài 16 km là một nhánh nhỏ của Tiền
Giang.
Dưới thời vua Gia Long (1802-1819), Cao Lănh
(chưa có tên là Cao Lănh) là một phần đất phủ Tân Thành tỉnh Định
Tường. Phủ Tân Thành gồm hai huyện: huyện Kiến Hưng và huyện Kiến
Phong. Ông Chưởng Dinh Nguyễn Hữu Cảnh đă thi hành lịnh của triều
đ́nh Huế để kêu gọi các đồng bào từ miền Bắc và miền Trung vào khai
khẩn đất hoang ở vùng đất mới này. Một số lưu dân Cao Lănh từ Thuận
Hóa nhưng nhiều nhất là từ Quảng Nam, một ít từ Phú Xuân và từ miền
Bắc. Các lưu dân đến từ miền Bắc đă dứt khoát rời khỏi lũy tre làng
bao quanh các làng mạc ấm cúng của họ để đi vào vùng đất mới để khai
khẩn đất hoang, những người đến từ miền Trung cũng rời bỏ nơi chôn
nhao cắt rún để đi lập nghiệp ở vùng đất mới này. Lúc đầu, các lưu
dân Việt Nam tiền phong đến khai khẩn ở Cao Lănh phải cực nhọc và
đối phó với nhiều thú rừng như rắn độc, voi, cọp …, và phá các đám
rừng nhứt là các rừng tràm ở vùng Đồng Tháp Mười, thật sự th́ không
phải dễ ăn đâu. Cho măi tới mấy đời sau, con cháu mới được hưởng
cảnh “làm chơi ăn thiệt”, một khi các rừng rậm đă được khai khẩn để
trở thành đồng ruộng bao la, “c̣ bay thẳng cánh”.
Các vị tiền phong khai khẩn đă nói:
“Muỗi kêu như sáo
thổi,
Đỉa lội tựa bánh canh.
Cỏ mục thành tinh,
Rắn đồng biết gáy.”
Ca dao
Tương truyền vào năm Đinh Sửu (1817) dưới đời vua
Gia Long (1802-1819), Ông và Bà Đỗ Công Tường gốc ở Quảng Nam đă
hưởng ứng lời kêu gọi của Chưởng Dinh Nguyễn Hữu Cảnh di dân tới lập
nghiệp tại làng Mỹ Trà. Ông Đỗ Công Tường, có tục danh là Lănh, là
người chánh trực, nho học am tường nên được cử làm chức Câu Đương,
chức này có nhiệm vụ phân xử các vụ tố tụng trong làng. Ông lập một
vườn quưt rộng lớn, các cây quưt có rất nhiều trái nặng trĩu, trong
vườn quưt này có một sân rộng sát bên nhà được ông và nhiều người
dân dùng làm nơi buôn bán đổi chác như một cái chợ.
Vào năm Canh Th́n (1820), tại làng Mỹ Trà đă xảy
ra một nạn dịch trời, dịch này lan tràn quá nhanh chóng, dân chúng
bị dịch chết như rạ, không thuốc nào chữa trị được để ngăn chận dịch
này. Cái chợ bên nhà ông Tường dần dần vắng bóng người lui tới v́
nạn dịch này. Ông Bà Đỗ Công Tường động ḷng trắc ẩn trước cảnh dân
chúng ở đây chết chóc bởi nạn dịch này mà không có thuốc nào chữa
chạy, nên hai Ông Bà mới nghĩ ra cách đặt bàn hương án giữa trời,
tại sân chợ bên nhà ông, rồi Ông Bà khấn vái xin Trời Phật cho Ông
Bà chết thế mạng cho dân chúng ở vùng này. Rồi vào mùng 6 tháng 6
năm Canh Th́n (1820), Ông Bà bắt đầu ăn chay liên tục và cầu khấn
Phật Trời mỗi ngày để dân t́nh thoát khỏi nạn dịch này. Qua ngày
mồng chín th́ Bà Tường lâm bịnh dịch trời, tắt hơi thở vào lúc 10
giờ đêm. Ngày hôm sau, tức ngày mồng mười, th́ Ông bất thần ngả ra
chết theo Bà. Dân làng xúm lại lo an táng cho hai Ông Bà cùng một
lượt.
Một điều thần bí và kỳ diệu xảy ra là sau khi dân
chúng đă chôn cất Ông Bà xong th́ dịch trời chấm dứt và dân chúng
không c̣n bị dịch trời hoành hành nữa, dân chúng được b́nh phục và
trở lại cuộc sống b́nh thường. Lời cầu nguyện rất thành tâm của Ông
Bà Đỗ Công Tường đă được ơn trên chứng giám.
Dân chúng lại tiếp tục nhóm chợ ở vườn quưt bên
nhà Ông Bà Tường. Để tưởng nhớ công đức Ông Bà Đỗ Công Tường, dân
chúng đặt tên cái chợ ở vườn quưt bên cạnh nhà Ông Bà là chợ “Câu
Lănh”. Dân chúng đă họp lại, bàn luận, quyết định lấy chữ “Câu”
từ chức “Câu Đương” của ông, và chữ “Lănh” là tục danh của
ông mà kết hợp lại thành “Câu Lănh”. Lâu dần chữ “Câu” đă được đọc
trại ra là “Cao”, có nhiều bô lăo đă giải thích v́ có nhiều
người Việt gốc Hoa buôn bán ở chợ này phát âm là “Cao” thay v́
“Câu”, âm Cao nghe cũng suông tai nên rồi mọi người đều phát âm là
“Cao Lănh” cho đến ngày nay.
Sau đó dân chúng đă cùng nhau đóng góp: kẻ góp
công, người góp tiền mua vật liệu, để lập miếu thờ Ông Bà Đỗ Công
Tường ở ngay nơi hai ngôi mộ của Ông Bà ở làng Mỹ Trà làm nơi thờ
phượng hai Ông Bà.
Hằng năm, vào ngày mùng 9 và mùng 10 tháng 6 âm
lịch là ngày vía Ông Bà, ban Tế Tự và dân chúng tấp nập kéo đến miếu
cúng vái và cầu nguyện khói hương nghi ngút. Dân chúng ở đây đă và
đang hết ḷng kính trọng Ông Bà Cao Lănh, nên trải qua nhiều biến cố
và chiến tranh lâu dài ở Việt Nam, miễu thờ Ông Bà Cao Lănh vẫn c̣n
nguyên vẹn trước nhiều cảnh thay chủ đổi ngôi ở đây. Miễu thờ ở dựa
mé kinh Thầy Khâm, cách châu thành quận lỵ độ ba trăm thước. Theo
dân chúng, miễu thờ Ông Bà Cao Lănh rất hiển linh, họ thường đến đây
để khấn vái cho tai qua nạn khỏi và làm ăn phát đạt thịnh vượng, gia
đ́nh b́nh an v.v…
Rất nhiều người đến đây để xin xâm, lấy quẻ xem
điềm tốt xấu mỗi khi muốn quyết định làm một việc ǵ, chẳng khác nào
quang cảnh xin xâm ở lăng Quan Thượng Tả Quân Lê Văn Duyệt tại bà
Chiểu, thuộc tỉnh Gia Định ngày trước.
Trần Quang Hạo trong quyển “Cao Lănh đến 1954”
xuất bản tại Cao Lănh tháng 7 năm 1963, tr. 24 đă ghi “Ủy Ban Hành
Chánh địa phương (1945) và tướng Nguyễn Ḥa Hiệp, đệ tam sư đoàn
(1946) trước khi rút vô Đồng Tháp Mười lập chiến khu đều đến xin xâm
nơi đây”.
Văn tế Ông Bà Câu Lănh ở làng Mỹ Trà
“Ḷ tạo ai xây, mảnh h́nh ai đấp, tiếng tiêu
thiều chín chặp; sùi sụt kia v́ nỗi đắng cay, thiết vắn tế mấy hàng
t́nh tự kể ra tích lớp.
Thuở Minh Mạnh kinh quyền, người có chức chốn
thị thuyền, sắm sửa cũng xuê xang, năm Canh Th́n (1820), phong khí
đất khôn dời, thấy thiên hạ nhộn nhàng như sấm chớp.
Ngài thấy vậy đau ḷng xót dạ, thiết đàn cầu
an ổn nhơn dân; Trời nghe cho trước vợ, sau chồng, muốn tiếng để cho
thạnh ḥa hương ấp, thời đồng theo đi xuống chốn huỳnh tuyền, đều dị
oái mới về miền thạch lập, cơn sóng gió phu thê là nghĩa trọng, đem
thân cầu thế từ ít muôn ngàn; cuộc sống tang thương biến cải khó bao
nài.
Thay phận cứu tri sanh nhiều mấy thập, thảm là
thảm Bà mồng chín ngày trong tháng sáu, bước chân lên Ngọc Đế qú
tâu; thương là thương Ông mồng mười sau có một ngày, nhón gót xuống
Diêm Vương mà báo cấp.
Người dường ấy mà công trạng dường ấy, nay
hương thôn cám tưởng tấm ḷng vàng; thấy giang san mà tủi hổ với
giang san, nên phổ hội sấm dưng bàn lễ bạc, ngọn rau tấc đất nhân
ân, bát nước cây hương xin hưởng giúp cho hương lư thờ thay, vơ lao
thiểu nhựt tân, trong phổ hội đặng khương cường sĩ dân tập.
Hởi ôi ! Thương thay !
(Khuyết danh)
Bài thơ vịnh Ông chủ chợ Cao Lănh
Muôn miệng như nhau đă nói rành,
Câu-Đương là chức, Lănh là danh.
Lập làng khó nhọc, công vừa dứt,
Cất chợ chăm nom, việc mới thành.
Dân đụng giặc trời, cam thọ tử,
Cụ đền nợ nước, quyết hy sinh.
Thoát nàn, bá tánh lo thờ phượng,
Miễu đó ngàn thu rạng tiết lành.
Lăng Ba
Miễu ông chủ chợ Cao Lănh
(ảnh Lê Hương)
(in lại trong “Cao Lănh
đến 1954” của Trần Quang Hạo, 1963, tr. 21)
Ở trước giữa miếu thờ Ông Bà Cao Lănh có 4 chữ lớn :
CHỦ THỊ ĐỖ CÔNG
Hai câu liễn ở trước hai bên miếu :
Mỹ kiểng Câu Đương hữu chí lập thành sanh bửu cuộc,
Trà giang Lănh thị triêm ân thương măi nhựt vinh
ba.
Một tấm liễn treo ở trong miếu do ông Đại Hương Cả
Huỳnh Kim Sanh cúng dường :
“Chủ Thị Miếu”
Một tấm liễn treo tại bái đường do ông Huỳnh Thanh
Phẩm cúng dường :
“Hiển Thế Lưu Danh”
Năm 1914, dưới triều vua Duy Tân (1907-1916) quận
Cao Lănh được thành lập thuộc tỉnh Sa Đéc. Châu thành quận Cao Lănh
được đặt tại làng Mỹ Trà. Lúc đó tỉnh Sa Đéc gồm có 3 quận : Quận
Châu Thành, quận Cao Lănh và quận Lai Vung. Sa Đéc do tiếng Miên là
Phsar-Dek, nghĩa là chợ sắt.
Hồi năm 1935, ông Huỳnh Kim Sanh là Đại Hương Cả
làng Mỹ Trà đă thỉnh cầu ông Đốc Phủ Lê Văn Giáp, chủ quận (bây giờ
là quận trưởng) Cao Lănh đệ tŕnh lên triều đ́nh Huế xin phong thần
cho ông Chủ Chợ Cao Lănh. Qua năm 1936, vua Bảo Đại (1926-1945) đă
ra sắc phong ông Đỗ Công Tường là “Dực Bảo Trung Hưng Thành Hoàng
Chi Thần”
Chợ Cao Lănh (nhà lồng
trên) (ảnh Lê Hương) in lại trong “Cao Lănh đến 1954” của Trần Quang
Hạo, 1963, tr. 4
Cầu đúc bắc ngang sông Cao
Lănh (1932) (ảnh Lê Hương) in lại trong “Cao Lănh đến 1954” của Trần
Quang Hạo, 1963, tr. 39
Cầu Đ́nh Trung nối liền
Cao Lănh với Sài G̣n (ảnh Lê Hương) in lại trong “Cao Lănh đến 1954”
của Trần Quang Hạo, 1963, tr. 31
Quận cao Lănh ở giữa
Nam Việt, nằm bên phía trái sồng Tiền, phía đông giáp tỉnh Mỹ Tho
(sau đổi là tỉnh Định Tường và Kiến Tường), tây giáp tỉnh Long Xuyên
(An Giang) phía nam giáp Sông Tiền, phía bắc giáp tỉnh Tân An (Long
An).
Quận Cao Lănh có 3 tổng là :
1.
Tổng An Tịnh gồm có các làng Ḥa An, Tân Thận Đông, Tân Thuận
Tây, Tân Tịch, Tân Thới.
2.
Tổng Phong Thạnh thuộc châu thành quận Cao Lănh đặt tại làng
Mỹ Trà gồm có các làng An B́nh, Mỹ Ngăi, Mỹ Trà, Nhị Mỹ, Phong Mỹ,
Tân An.
3.
Tổng Phón Nẫm gồm có các làng B́nh Hàng Tây, B́nh Hàng Trung,
B́nh Thạnh, Mỹ Hiệp, Mỹ Hội, Mỹ Long, Mỹ Thành, Mỹ Thọ, Mỹ Xương.
Năm 1956, dưới thời đệ nhất Việt Nam Công Ḥa, chính
phủ Sài G̣n đă thành lập tỉnh Kiến Phong, tỉnh lỵ đặt tại Cao Lănh,
từ đó Cao Lănh tách rời khỏi tỉnh Sa Đéc. Kiến Phong có các quận
Hồng Ngự, Thanh B́nh, Cao Lănh … Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, hai
tỉnh Kiến Phong và Sa Đéc được sát nhập thành tỉnh Đồng Tháp. Tỉnh
Đồng Tháp gồm có hai thị xă là Cao Lănh và Sa Đéc. Thị xă Cao Lănh
là tỉnh lỵ của tỉnh Đồng Tháp; như vậy, Sa Đéc không c̣n là tỉnh lỵ
nữa; tỉnh Đồng Tháp có các quận : Tân Hồng, Hồng Ngự, Tràm Nông,
Thanh B́nh, Tháp Mười, Cao Lănh, Lấp Ṿ, Châu Thành, Lai Vung.
Tỉnh Đồng Tháp là một trong ba tỉnh của vùng Đồng
Tháp Mười, là một trong 9 tỉnh của đồng bằng sông Cửu Long, là một
trong 58 tỉnh của Việt Nam.
Vị trí Cao Lănh ở miền Nam
Tỉnh Đồng Tháp (1999)
Cao Lănh Phong Cảnh
Cao
Văn tự thử kiến đa tài,
Lănh
địa tằng văn cửu sĩ giai.
Phong
sương sơ đáo t́nh vô hạn
Cảnh
sắc xuân quang phụng hỉ hài.
(khuyết danh)
Vịnh Cao-Lănh
Cơi Việt trời Nam tiếng sấm vang,
Nước sông Cao-Lănh trở màu vàng,
Đất vung ng̣i viết ḍng to nhỏ,
Cồn nổi ḷng nghiên cái dọc ngang;
Việt-thạch hiện-thường ngôi chủ-tể,
Bửu-tinh chớp nhoáng cửa văn-chương;
Mỹ-Trà trông thấy Văn-khôi vượng,
Ngựa tía cương buông đă chật đàng.
Ng. M. T.
(Sadéc nhơn-vật chí, 1926)
Trong thời gian chiến tranh ở Việt Nam, Cao Lănh là
một vị trí chiến lược cho cả hai phía: Pháp và Việt Minh; bởi v́ Cao
Lănh ở gần biên giới Cao Miên, và Đồng Tháp Mười là nơi rừng rậm hiểm
trở nên Việt Minh lấy đó làm chiến khu. Theo hiệp định Genève 20 tháng 7
năm 1954, Việt Nam bị phân chia làm hai miền Nam và Bắc lấy vĩ tuyến 17
làm giới tuyến, Cao Lănh là một trong các điểm Việt Minh tập trung quân
để đi tập kết ra Bắc trong ṿng 300 ngày.
Quân đội Hoa Kỳ đă đặt căn cứ quân sự ở Cao Lănh,
ngày nay trên internet chúng ta có thể đọc nhiều bài các cựu quân nhân
Hoa Kỳ đă từng phục vụ tại Cao Lănh. Các cựu chiến binh này có người
viết bài kỷ niệm, hồi bút hoặc tùy tùy bút về vùng Cao Lănh.
II.
Di Tích
Tháp Mười và nền Văn Hóa Óc Eo
Cao Lănh nằm trên khu
vực sông Cửu Long. Theo các lư thuyết của các nhà địa lư học th́ vào
khoảng vài ngàn năm trước, mực nước Biển Đông đă lên đến mức tối đa,
nhiều nơi ở đồng bằng sông Cửu Long - Ở hai bên nhánh Sông Tiền và Sông
Hậu – đă từng bị ngập nước. Rồi dần dần mực nước biển rút xuống và phù
sa sông Cửu Long (hai nhánh Tiền và Hậu giang) đă bồi dần dần thành đồng
bằng bao la như ngày nay. Và từ nay cho đến vài trăm năm tới th́ mực
nước Biển Đông có thể tăng thêm vài thước nữa, do đó hiện nay thường có
nhiều nạn lục ở châu thổ sông Cửu Long. Rồi khoảng vài ngàn năm nữa th́
mực nước Biển Đông sẽ rút xuống rất nhiều, Vịnh Thái Lan có thể trở
thành khô cạn, đồng bằng sông Cửu Long sẽ mở rộng ra.
Đồng bằng Sông Tiền và Sông Hậu gồm có các tỉnh sau
đây: An Giang, Long An, Đồng Tháp, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà
Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau.
Ngày xưa, người ta đă thấy những di tích của các tàu
biển, có thể đă bị ch́m, như cột buồm, ḷi tói, mỏ neo v.v., gần Cao
Lănh c̣n thấy các g̣ cát trắng như G̣ Bắc Vung, G̣ Da, G̣ Bắc Chiên, G̣
Đồng Tháp, G̣ Động Cát; mà xưa kia có lẽ là các cù lao cát ở ven biển.
Cánh đồng bao la bao quanh Cao Lănh, Đồng Tháp Mười là một vùng đất
trũng được phù sa sông Cửu Long bồi đắp, nước mặn vẫn c̣n ứ đọng nhiều
nơi, đất đai ngày xưa hăy c̣n bỏ hoang và rất thích hợp cho cây tràm, ở
đây có nhiều rừng tràm dày đặc; có nhiều bàu sen, láng bông súng, lung
năng, đồng lác. Ngày xưa rừng rậm ở đây có nhiều thú dữ như rắn, cọp,
voi…, ngày xưa có nơi voi đi hàng đàn nên gọi là “Láng Tượng” ở gần làng
tân Phú. Người Việt Nam tiền phong đến khai khẩn đất hoang ở Cao Lănh
ngày xưa đă nhận xét về Đồng Tháp Mười
“Muỗi kêu như sáo thổi,
Đỉa lội tựa bánh canh.
Cỏ mục thành tinh,
Rắn đồng biết gáy.”
Ca dao
Cụ Trần Quang Hạo (1899-1981) suốt đời sống tại đất
Cao Lănh, là một nhân sĩ có nhiều uy tín ở nơi đây đă chép:
“Hồi năm 1931, ông Đốc Phủ Trần
Văn Mẫng, chủ quận Cao Lănh, sau khi đi kinh lư ở vùng đầm lầy này đă
làm phúc tŕnh nói về một ngôi tháp mà ông thấy ở cánh đồn này lên cấp
trên của ông. Cho nên qua năm 1932, ông Parmentier, nhà khảo cổ trứ danh
của trường Bác Cổ Viễn Đông ở Hà Nội đến viếng di tích này, phái đoàn
này đi bằng xuồng, bằng lỉa trâu v́ chưa có đường giao thông. Chính nhà
bác học này xem chữ Phạn khắc trên mấy bia đá nứt nẻ v́ phong sương, tuế
nguyệt và tan tác ngổn ngang, đă cho biết rằng đây là cái “Tháp Thứ
Mười” trong số mười cái tháp của vua chúa Thủy Chân Lạp hồi thời
xưa. V́ thế thiên hạ đă gọi cánh đồng mênh mông có cái tháp thứ mười ấy
là “Đồng Tháp Mười””
“Tháp Mười” làm toàn bằng những tảng đá xanh ở
trên một g̣ cát tại làng Mỹ Thọ thuộc quận Cao Lănh vào lúc bấy giờ.
Chung quanh g̣ cát là một cánh đồng bao la cây cối um tùm, lau sậy chằn
chịt. Muốn vào Tháp Mười th́ chỉ có thể đi bằng con sông Cần Lố (tiếng
Miên gọi là Nước Lộn), con sông này chảy quanh co giữa hai bờ lau sậy.
Ở phía trước Tháp Mười có một tượng đá sư tử và
một trụ cự thạch (trụ đá lớn) gọi là Linga (dương vật) ở trạng thái đầy
sinh lực tượng trưng cho sự sinh thành, sinh tồn tức là sự truyền giống.
Trong tôn giáo ở Ấn Độ, thần Siva-Bhadresvara được tượng trưng bằng
Linga.
Một số di tích cổ cũng được t́m thấy ở đây như tượng
Phật, các tượng thờ khác bằng đá, bằng đồng đều được đem về Viện Bảo
Tàng Sài G̣n. Viện Bảo Tàng Sài G̣n được xây cất từ năm 1927 và hoàn
thành năm 1929, lúc ấy có tên là Viện Bảo Tàng Blanchard de la Brosse,
đó là tên của Thống Đốc Nam Kỳ vào lúc đó. Năm 1954 có tên mới là Bảo
Tàng Viện Quốc Gia. Bảo Tàng Viện Quốc Gia có trên 5000 cổ vật thuộc các
nền văn hóa của các nước Đông Nam Á.
Hồi năm 1964, giáo sư Nghiêm Thẩm (đă qua đời ở Sài G̣n
sau năm 1975) đă hướng dẫn các sinh viên môn nhân chủng học đến thăm
viện khảo cổ Sài G̣n nói trên, ở trong khuôn viên Sở Thú/Thảo Cầm Viên
Sài G̣n. Tôi cũng đă thấy Linga và c̣n cả Yoni (âm vật) là một trụ đá
lớn mà phần trên có h́nh như một cái chậu không sâu lắm. Linga và Yoni
hợp lại để chỉ cho sự sinh thành của vũ trụ. G.s. c̣n giải thích trên
đầu cột trụ đá “Linga” được bóng láng là v́ các phụ nữ, theo tôn giáo
thờ các h́nh tượng này, tin rằng khi muốn cầu tự th́ có thể lấy bàn tay
xoa lên đầu Linga và khấn vái cho được có con.
Ở Nhật Bổn, có vài nơi thờ Linga và Yoni được tạc bằng
gỗ. Cứ mỗi năm trước khi làm mùa, người ta thường làm lễ hội để cho
Linga và Yoni đụng chạm với nhau với một niềm tin là các vị thần này sẽ
giúp cho được mùa.
Sư tử và linh phù (Linga) bằng
đá trước Tháp-Mười (ảnh của Trần Quang Hạo trong “Cao Lănh đến 1954”,
1963, tr. 13)
Nhà khảo cổ Pháp Parmentier đă căn cứ vào minh văn ở một
tấm bia nơi tháp cổ này mà xác định rằng ngôi tháp cổ này được vua
Javavarman VII (1181-1281) cho xây dựng nên.
Tháp Mười cách chợ Cao Lănh khoảng 9 km.
Ngoài ra chúng ta thấy c̣n 2 truyền thuyết nữa đă giải
thích về nguồn gốc của “ngôi tháp cổ lịch sử” này như sau:
1.
Tháp Mười là cây tháp có 10 tầng của Thiên Hộ Dương đă xây cho
nghĩa quân làm trạm canh gác. Thuyết này không đứng vững, v́ cách kiến
trúc của ngọn tháp cùng với những di tích để lại chứng tỏ Tháp Mười
thuộc nền văn hóa Óc Eo đă có từ thế kỷ I đến thế kỷ VI. Có thể Thiên Hộ
Dương đă sử dụng cây tháp có sẵn để làm vọng gác.
2.
Tháp Mười là ngôi mộ tháp của vị vua thứ mười của vương quốc Phù
Nam. Thuyết này không có ǵ chứng minh một cách rơ ràng, như đă nói
trên, nhà khảo cổ Parmentier đă xác định là vua Jayavarman VII
(1181-1201) cho xây ngôi tháp cổ này.
“Tháp Mười nước mặn đồng chua,
Phù sa muôn dậm của vua chùa vàng”
Ca dao
Đồng Tháp Mười nằm trong
khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Đồng bằng sông Cửu Long thuộc về vương
quốc Phù Nam vào thời xa xưa. Phù Nam (Fu Nan) là tiếng phiên âm trong
các sử liệu cổ của Trung Hoa như Tấn Thư, Lương Thư từ hai chữ Phạn
“B´iu Nam” để chỉ một vương quốc có trước vương quốc Khmer. Theo truyền
thuyết, vương quốc Phù Nam được thành lập do sự phối hợp của hai ḍng họ
Soma (Mặt trăng) và Kaundynia (Người thuộc đẳng cấp giáo sĩ Bà La Môn)
vào đầu thế kỷ I. Đế đô của đất Phù Nam là Vyadhapura (tiếng Phạn có
nghĩa là đô thị của các nhà săn bắn) nằm gần đồi núi “Ba Phnom” (Phnom
có nghĩa là núi) và ở gần xă “Ba Nam” ở trong tỉnh Prey Veng thuộc Cao
Miên (Campuchia) ngày nay. Hồi ấy, Phù Nam nằm trên đồng bằng sông Cửu
Long bao gồm nhiều lưu vực của các con sông như Sông Tiền, Sông Hậu,
sông Vàm Cỏ, sông Đồng Nai và sông Sài G̣n.
Qua thế kỷ II cho đến
thế kỷ VI, vương quốc Phù nam đă phát triển thế lực sau một thời gian
củng cố và xây dựng nên một triều đại lớn. Triều đại Phạm Sư Man (Sri
Mara, tiếng Phạn) trị v́ khoảng 225-230 Tây lịch là thời kỳ hưng thịnh
của xứ Phù Nam, trước sức hùng mạnh đang lên, nhà vua cho đóng nhiều
chiến thuyền để vượt biển đánh chiếm thêm các nước ở ngài hải đảo để mở
mang bờ cơi. Vương quốc Phù Nam đă thống trị cả vùng đất bao la trải dài
từ đồng bằng sông Cửu Long đến sông Ménam (Thái Lan) và xuống đến tận
các hải đảo Indonesien, Mă Lai.
Từ giữa thế kỷ III đến giữa thế kỷ VI, Phù Nam đă đặt
liên hệ ngoại giao với Trung Hoa và Ấn Độ.
Phù Nam đă là một cường quốc đầu tiên xuất hiện trong
lịch sử Đông Nam Á, cũng như đế quốc La Mă trong lịch sử Âu Châu. Uy thế
của cả hai xứ này c̣n tồn tại khá lâu sau khi bị sụp đổ.
Năm 1944, nhà khảo cổ người Pháp là Louis Mallaret,
thuộc trường Viễn Đông Bác Cổ, đă đào được nhiều cổ vật ở Óc Eo. Óc Eo
là nơi thuộc xă Mỹ Lâm, tỉnh Long Xuyên bây giờ; ở gần núi Ba Thê (Ba
Phnom) ở Châu Đốc. Óc Eo là hải cảng của Vyadhapura, theo sách cổ Trung
Hoa th́ đế đô Vyadhapura cách bờ biển 120 hải lư. Tại Óc Eo thấy có nền
một thành cổ dài 1500 thước, có nhiều đồ trang sức với nhiều loại khác
nhau: đất nung, thủy tinh, đá quí, kim cương, ch́ thiếc, bạc vàng v.v…,
c̣n có bùa đeo, con dấu và đồng tiền nhiều loại, có cả đồng tiền La Mă
nữa. Đặc biệt có nhiều đồng tiền cắt đôi, cắt tư, cắt tám làm tiền lẻ …
Tôi nhớ lại hồi khoảng 1953, 1954 ở Việt Nam người ta xé 1 đồng bạc giấy
“Bảo Đại” ra làm 2 phần bằng nhau theo chiều dọc để làm tiền lẻ, mỗi bên
5 cắc (50 xu). Tại Óc Eo, nhà khảo cổ c̣n t́m thấy các khuê bài bằng
vàng của hoàng đế La Mă, Antonius Pius, năm 152 T.L. và các ấn chiếu ghi
chữ Phạn thời này.
Óc Eo là trung tâm thương măi của nhiều người ngoại
quốc ở trên xứ Phù Nam kể từ thế kỷ I. Xứ Phú Nam ở trên con đường thủy
giao thông giữa Ấn Độ và Trung Hoa. Các sử liệu của Trung Hoa đă chép
rằng xứ Phù Nam có nhiều sông rạch lớn, đă giúp người Trung Hoa có thể
chạy thuyền buồm đi xuyên qua Phù Nam để đến hải Đảo Mă Lai.
Theo truyền thuyết, có một cơn băo lụt dữ dội đă tàn
phá hải cảng Óc Eo và kinh đô Vyadhapura của vương quốc Phù Nam thành
b́nh địa. Các nhà khảo cổ và nhà sử học chưa xác định được năm nào.
Các nhà khảo cổ đă giải thích và xây dựng lại đời
sống kinh tế, phong tục, tập quán cũng như đời sống tinh thần, tín
ngưỡng của cư dân ở đây. Căn cứ trên các cổ vật, di tích t́m được tại Óc
Eo, các nhà khảo cổ gọi nền có đặc tính như ở Óc Eo là văn hóa Óc Eo.
Văn hóa Óc Eo đă trải khắp trên vương quốc Phù nam từ thế kỷ I đến thế
kỷ VI. Riêng ở Việt nam, nền văn minh này được trải rộng từ cao nguyên
Lâm Đồng cho đến vùng rừng rậm U-minh ở Rạch Giá và Cà Mau.
Gần đây, một số cổ vật
được khai quật có những đạc tính được xếp vào nền văn minh Óc Eo, các di
chỉ này được khai quật ở: Nền Chùa (1982-1983), nhiều di chỉ mới khai
quật thêm ở Óc Eo vào năm 1983, 1984, 1993, G̣ Tháp (1984,1993), Đá Nổi
(1985), Cây Gáo (1986-1987), G̣ Rộc Chanh (1986); Đồng Bơ (1986), Đồng
Bơ (1987), Lưu Cừ (1986-1987), B́nh Tả, thuộc quận Đức Ḥa tỉnh Hậu
Nghĩa (1987-1989), G̣ Thành (1988).
Các nhà khảo cổ học Tây Phương chia ra 7 thời kỳ để
nghiên cứu về khảo cổ học ở vùng đồng bằng sông Cửu Long như sau:
1.
Thời kỳ tiền sử và sở sử: từ nguyên thủy cho đến đầu Tây Lịch;
2.
Thời kỳ Óc Eo: đầu Tây Lịch đến thế kỷ VI-VII (tương ứng với
vương quốc Phù Nam);
3.
Thời kỳ tiền Angkor: thế kỷ VI-VII-cuối thế kỷ VIII;
4.
Thời kỳ chuyển tiếp: đầu thế kỷ IX- cuối thế kỷ IX (thời kỳ tiền
Angkor và thời kỳ chuyển tiếp tương ứng với thời kỳ hậu Óc Eo, thời hậu
Óc Eo tương ứng với thời kỳ Thủy Chân Lạp);
5.
Thời kỳ Angkor: cuối thế kỷ IV- giữa thế kỷ XV;
6.
Thời kỳ hậu Angkor: giữa thế kỷ XV trở về sau.
Về phương diện tín ngưỡng, các di tích thuộc nền văn
hóa Óc Eo chứng tỏ rằng Ấn Dộ giáo và Phật giáo đă được phổ biến và lưu
hành trong dân gian ở xứ Phù Nam. hai tôn giáo này đă du nhập vào đồng
bằng sông Cửu Long vào thế kỷ thứ nhất của Tây Lịch.
Về Ấn Độ giáo, người ta t́m thấy Linga bằng đá, biểu
tương của Siva-Bhadresvara, Yoni bằng đá hoa cương, tượng thần Visnu to
bằng người thật. Lại c̣n có các bùa đeo làm bằng đá quí, thủy tinh, hợp
kim bằng thiếc có h́nh ḅ bứu, đinh ba (biểu tượng của Siva) h́nh con ốc
(biểu tượng của Visnu); người đeo bùa tin tưởng rằng sức mạnh của các vị
thần có thể che chở hay bảo vệ cho họ. Ta nhận thấy từ thời xa xưa, con
người đă có niềm tin vào ma thuật, tức là tin tưởng rằng các bùa đeo có
thể có ma lực tác động một cách có hiệu quả và trực tiếp vào ngoại cảnh.
Các nhà khảo cổ c̣n thấy tượng h́nh người đàn bà khỏa thân ngồi trong
một tư thế rất thoải mái, thường thường là một người đàn bà có bầu.
Người Phù Nam ngày xưa tin tưởng rằng người đàn bà
đang mang thai tượng trưng cho một năng lực giúp cho sự sinh sôi nảy nở,
đem lại sự phồn thịnh cho việc làm ăn buôn bán và mang lại sự ph́ nhiêu
cho đất đai để có thể gặt hái được vụ mùa tốt.
Trong quyển “Sử liệu Phù Nam”, Lê Hương đă dịch một
bản văn viết bằng Phạn ngữ t́m thấy trong di tích G̣ Tháp (ở đồng Tháp
Mười). Bản văn này đă chép lại những nghi thức thờ thần Visnu nhân dịp
thái tử Gunavarman được sắc phong để trị v́ ở vùng Đồng Tháp Mười hồi
thế kỷ thứ VI:
“Nhà vua đă cưới một người
đàn bà đẹp có một dáng đi … và một thắt lưng xinh xắn, sinh đứa con trai
tên Gunavarman, tâm hồn cao thượng và trí thông minh…
Do nhà vua gặp vận may có dáng đi hùng dũng của vị
thần Vikramin và chính là “Mặt trăng” của ḍng dơi tiên vương Kaundinya,
vị thái tử này, dù c̣n nhỏ tuổi, đă dược chỉ định lănh đạo một địa
phương sùng đạo chinh phục trên bùn lầy, nhờ ngài là người có đạo đức và
phẩm hạnh.
Do thái tử Gunavarman … của bà mẹ ngài, đă đặt trên
mặt đất một dấu chân của thần Bhagavat, dấu chân mà cách tŕnh bày với
sắc thái không thể so sánh được do ngài xây dựng, (ngài) không c̣n muốn
h́nh ảnh nào khác trên đời nữa.
Ngày thứ tám, dấu chân này cúng dâng chư thần do các
vị tu sĩ Bà La Môn, thông hiểu kinh Veda, kinh Upavada và kinh Vedanga,
giống như những người bất tử, đă nhận những huấn điều trong kinh điển
Cruti, tuyên bố danh xưng trên mặt đất là Crakratirthasvamin.
Mong rằng người sùng đạo đối với vị thần ngự tại địa
điểm đă kính dâng lên thần Sri Cakratirtha, điều thiện … của thái tử
Gunavarman đạo đức, hiếu thuận và nhân từ hoặc người nào chỉ đi vào
(đến), sẽ đến nơi an nghỉ tối cao của thần Visnu với tâm hồn hoan hỉ,
giải thoát được nghiệp chướng xấu xa của ḿnh
Người nào được Gunavarman là vị thái tử rất chuộng sự
công b́nh kư thác cho thần Bhagavat phải tuân theo lệnh ngài, tùy theo
sự sắp xếp của tất cả tu sĩ Bhagavatas, những kẻ khốn khổ không được bảo
vệ và những kẻ làm việc tại nơi ây, chiếu theo luật định, kẻ nào làm
trái ngược quy tắc sẽ sa xuống địa ngục của diêm vương Yama cùng với
những kẻ mang nặng trọng tôi.
Mong rằng người có tâm hồn cao thượng sẽ làm khởi sắc
những điều tốt đẹp của thần Bhagavat…được đến nơi nghỉ tối cao của thần
Visnu và đạt được một thanh danh to tát, vui hưởng niềm hạnh phúc vô
biên.”
Cũng trong quyển “Sử liệu Phù Nam” này, Lê Hương c̣n
dịch bản minh văn “Neak Ta Dambang Dek (Takeo) chép về việc lập tu viện
thờ thần Visnu do hoàng hậu Kulaprabhavati, chánh cung của vua
Kaundinya-Jayavarman vào thế kỷ thứ V:
“Cho người nặng ḷng suy tưởng an giấc ngàn thu nơi
lăng tẩm này là vùng Biển Sữa, nằm trên giường đầy những rắn Sesa uốn
cong ḿnh; chúc người yên nghỉ nơi đây gồm ba thế giới trong ḷng ḿnh,
người nằm đây có một đóa hoa sen mọc từ cuốn rún*, bảo vệ
hoàng hậu, chánh cung của quốc vương Sri Jayavarman.
… nơi cư ngụ của tín đồ Bà La Môn giáo tại thành
Kurumba … đă dựng một tượng thần trang sức bằng vàng … với tâm tư tŕu
nặng v́ những kết quả không tốt của việc làm … dù có điều vui vẻ nhưng
thiếu niềm hạnh phúc.
Nổi danh trên hoàn vũ như hoàng hậu, như chánh cung
Saci của quốc vương Sakra, Svaha, của thần lửa, Rudrami, của Hara và Sri
của Sripati, rất muốn được kết duyên với quốc vương Sri… đă nhiều phen
nhận xét sự bất nhất của nhà vua trên thế giới …
Rất thân mật với quốc vương Sri Jayavarman … đă nhận
như là người bạn của bà và hưởng nhiều hạnh phúc… đă ư thức rằng việc
thụ hưởng nhiều lạc thú chóng tàn như bọt nước … (bà xây cất) một tu
viện có hồ nước có một tư thất …”
--------------
*
“người nằm đây
có một đóa hoa sen mọc từ cuốn rún” là thần Visnu
Tại chùa Bửu Sơn, ở thị
xă Biên Ḥa, tỉnh Đồng Nai hiện nay, có thờ một tượng thần Visnu bốn tay
bằng đá, ở trong một tư thế ngồi, lưng dựa vào một phiến đá h́nh ṿng
cung đỉnh nhọn có khắc 9 ḍng chữ Chiêm Thành cổ, các nhà khảo cổ dự
đoán tượng này được tạc khoảng thế kỷ thứ XIII.
Tượng thần Visnu ở chùa Bửu Sơn
Tượng thần Visnu ca 1 thước 09, ngồi trên bệ đá dày 0
thước 39. Thần Visnu ngồi xếp bằng, hai tay trước đặt lên đùi, mỗi tay
cầm một cây gậy ngắn. Hai tay sau đưa lên cao, tay phải cầm một bánh xe
nhỏ, tay trái cầm con ốc. Thần Visnu mang nhiều đồ trang sức: măo gồm
một vương miện và một chóp tṛn nhọn trên đỉnh đầu, hoa tai lớn rủ xuống
vai. Ṿng đeo cổ lớn, rộng đến nửa vai và che phần trên ngực, gồm hai
hạt chuỗi dài treo thơng xuống. Một dây quàng chạy từ vai trái xuống
bụng, ṿng qua hông phải, luồng dưới mép trên ở cổ tay; hai tay sau có
đeo ṿng có chạm trổ ở cổ tay.
Về Phật Giáo, song song với sự phát triển của Ấn Độ
Giáo, Phật Giáo cũng phát triển vượt bực nhờ sự truyền bá đạo Phật từ Ấn
Độ dưới thời vua Asoka (A-Dục Vương). Nhiều tượng Phật bằng gỗ, đá và
đồng đă t́m thấy ở nhiều nơi, các di tích này thuộc thời đại văn hóa Óc
Eo như ở Kiên Giang (Rạch Giá), Đồng Tháp Mười, Hậu Giang, Vũng Tàu v.v…
Nhiều bia đá ở Chiêm Thành (Chân Lạp, Lâm Ấp) khắc bằng chữ Phạn giảng
về Phật Pháp cũng đă được t́m thấy. Các nhà khảo cổ tây Phương đă t́m
thấy ở Mă Lai 2 tấm ngói lợp nhà trong một khu đă hoang phế có khắc chữ
Phạn, có lẽ trước đây là một căn pḥng của một vị thiền sư, một trong
hai tấm ngói ấy có ghi lời giảng của kinh Phật về thuyết nhân quả, được
dịch như sau:
“Nhân quả là căn nguyên của
sự luân hồi, khi người ta sáng suốt th́ luật nhân quả không c̣n tái sinh
nữa, và nếu dứt được nhân quả th́ không c̣n tái sinh nữa (luân hồi).”
Hall, D.G.E.: Đông Nam Á sử lược, Nguyễn Phúc Tấn dịch, NXB Khai
Trí, Sài G̣n 1968.
G.S. Mai Thọ Truyền, trong bài giảng “Lịch sử Phất
Giáo Đông Nam Á”, khóa mùa xuân 1965, tại viện Cao Đẳng Phật Học Sài
G̣n đă giảng rằng vào đầu thế kỷ thứ VI, hai nhà sư Phù Nam là
Sanghapala (Tăng Già Bà La) và Mandra (Mạn Đà La) đă qua Trung Hoa và
dịch kinh Phật cho triều đ́nh nhà Lương. Mandra đến kinh đô Trung Hoa
vào năm 503; kể từ năm 506 ngài cùng với Sanghapala cộng tác trong việc
dịch thuật kinh điển nhà Phật. Năm 546, triều đ́nh nhà Lương đă yêu cầu
vua Phù Nam gởi cao tăng đến Trung Hoa, vua Phù Nam đă phái đại sư
Paramartha qua thuyết giảng Phật Pháp ở Trung Hoa.
Trước đó, vào năm 484, đặc sứ của xứ Phù Nam là đại
sư Sakya Nagasena (Sa-Kỳ-Na-Già-Tiên) tại triều đ́nh nhà Nam Tề, đă dâng
lên hoàng đế Vĩnh Minh một tờ biểu có một đoạn dài nói về Phật, Bồ
Tát,và những khái niệm về ba-la-mật (paramita), kiếp, nghiệp, luân hồi,
tam bảo v. v. …
Tư tưởng Phật Giáo cũng đă được biên soạn để truyền
bá, nhiều minh văn được thấy đă ghi lại tư tưởng Phật Giáo bằng chữ
Phạn. Lê Hương, trong quyển “Sử Liệu Phù Nam” đă dịch bia Vơ Canh
(ở Khánh Ḥa) do vị vua kế nghiệp của Sri Mara lập vào khoảng cuối thế
kỷ thứ III, có đoạn ghi:
… ḷng trắc ẩn đối với muôn loài …
Người thuộc gịng vua Sri
Mara, người được danh dự cùng huyết thống với (vua) Sri Mara đă tuyên bố
giữa (buổi họp) những kẻ ấy, lời nói đầy hảo ư đối với muôn loài. Người
là bậc ưu tú nhất của hai “Karin” khi ngự trên ngai vàng. Người xem xét
t́nh trạng bất an của thế gian mà rằng:
“Khi con trẫm và em trẫm cùng người nào khác được
thỏa măn ư muốn chiếm tài sản làm của riêng … những ǵ (tạo thành) kho
tàng của trẫm, bạc, vàng, những vật hay dời đổi và bất động, tất cả món
ấy, trẫm cúng hiến cho họ với niềm vui sướng và sự lợi ích (cho muôn
loài)…”
Tư tưởng thương xót muôn loài thể hiện triết ly Đại
Từ Đại Bi của Phật Giáo và quan niệm về lẽ vô thường của cuộc đời là nền
tảng căn bản của triết lư đạo Phật. Sự hy sinh của cải vật chất để giúp
đỡ, bố thí cho người nghèo khổ là thể hiện ḷng từ bi của nhà Phật. Qua
đoạn minh văn trên chứng tỏ vị hoàng đế của xứ Phù Nam lúc ấy đă thấm
nhuần tư tưởng Phật Giáo.
Cũng trong quyển “Sử Liệu Phù Nam” Lê Hương đă
dịch bia Ta Prohm ở Bati như sau:
“Vinh diệu thay cho kẻ chiến thắng được kẻ thù là
tất cả sự đam mê với những dấu vết của chúng (mầm móng, nghĩa là sự đam
mê trong trạng thái ngủ say). Vinh diệu thay cho những kẻ đạt được trạng
thái hoàn toàn trong mọi việc mà lư trí không nhận chân những chướng
ngại, hiểu được kinh Jina với ḷng từ bi và hướng vào hạnh phúc của
người khác, mà điểm vinh quang vĩ đại và không có t́ vết truyền bá trong
khắp lănh vực của không gian.
Sau khi cứu vớt được thế giới đắm ch́m trong ḷng đại
dương của ba điều kiện tạo dựng (ưa nhục dục, nhục thể, vô h́nh) và đạt
tới Niết Bàn là vùng đất cao nhất không thể thấy được, không thể so sánh
được… đấng Tôn Sư ấy mà những thánh tích nhắm vào sự tạo hạnh phúc cho
muôn loài, hiện nay vẫn c̣n ban bố hạnh phúc cho kẻ khác.
Tất cả việc thiện của nhà vua rất mực trung thành với
Phật pháp (dharma) … mục đích thực hiện những ư định tốt của ngài đối
với thế gian và không phải (để thực hiện) những việc làm của tên
Ksatrija trái ngược với ư ngài.
Đức Thích Ca, đức Dharma, đức Sangha, mỗi vị với tất
cả đức tốt, ưu tú… người thực hiện mọi hành vi của một Upasaka, không bị
sa ngă…”
Si mê là một mầm móng của tam độc: Tham, Sân, Si. Tam
bảo: Phật, Pháp, Tăng, Niết Bàn, điều thiện và cách hành tŕ để khỏi bị
sa ngă đều được giảng dạy. Các điều này đă chứng tỏ các nhà sư Phù Nam
đă có một kiến thức về tư tưởng Phật Giáo thật là uyên thâm để đi thuyết
pháp và hoằng dương chánh pháp của nhà Phật.
Qua các sử liệu nêu trên, chúng ta có thể kết luận
rằng Phật Giáo đă được truyền bá qua Trung Hoa, xuyên qua ngă Phù Nam,
vào cuối thế kỷ thứ V sang đầu thế kỷ thứ VI. Như vậy Phật Giáo đă được
thuyết giảng ở Trung Hoa là triết lư Phật Giáo đă hấp dẫn các đại sư
Huyền Trang (629), Nghĩa Tịnh (671) và đă là trợ duyên cho các ngài
trong việc quyết định đi qua Ấn Độ để nghiên cứu Phất pháp.
Người ta đă t́m thấy một pho tượng Phật bằng đá lớn
và nhiều tượng nhỏ ở núi lớn gần Gành Rái có đặc tính của thời hậu Óc
Eo. Tượng Phật này đang được thờ phượng ở trong một ngôi chùa ở xă Thắng
Tam thuộc thị xă Vũng Tàu.
Tượng Phật ở xă Thắng Tam thuộc thị xă Vũng
Tàu
Tượng Phật bằng sa thạch cao 1 mét, bệ đá cao 0.18
mét. Đức Phật ở trong tư thế ngồi thiền, chân xếp bằng theo lối hoa sen,
hai tay nối trước bụng, bàn tay phải đặt trên bàn tay trái, cả hai bàn
tay đều tựa trên chân phải. Gương mặt đức Phật theo dóc dáng Ấn Độ,
miệng mỉm cưới một cách nhân từ, tóc xoăn, khoác áo cà sa bó người để lộ
vai phải.
Trong bài này chúng tôi đă không tŕnh bày chi tiết
về đời sống kinh tế, phong tục, tập quán v.v… của các cư dân của vương
quốc Phù Nam vào thời đại Óc Eo. Chúng tôi chỉ tŕnh bày một số nét
chính về Ấn Độ Giáo và Phật Giáo mà thôi.
Các nước Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng
là thiên đàng của các nhà khảo cổ, v́ nơi đây có nhiều cổ vật, nhiều di
tích đă, đang và sẽ được khai quật nên các nhà khảo cổ có cơ hội để khám
phá và thực hiện khả năng của ḿnh trong việc giải thích và phác họa lại
đời sống tinh thần và vật chất của các cư dân sống vào một thời kỳ xa
xưa trong lịch sử Đông Nam Á.
Toronto, 26 tháng 12, năm 2004.
Nguyễn Vĩnh Thượng
Sách tham khảo chính yếu
Bùi văn Liêm: Vài
nét về Đồng Tháp Mười, Đặc san Tiền Giang-Hậu Giang số 7,
California, 2003, tr. 314-316
Đại Nam Nhất Thống Chí:
Lục tỉnh Nam Việt, tập hạ, dịch giả Tu Trai Nguyễn tạo, Nha Văn
Hóa Giáo Dục, Bộ Giáo Dục, Sài G̣n, 1959
Huỳnh Minh: Sa Đéc
xưa, Sài G̣n, 1970
Hall, D. G. E.: Đông
Nam Á sử lược, Nguyễn Phúc Tuấn dịch, Khai Trí, Sai G̣n, 1968
Lê Lương: Những người
Việt tiên phong trên bước đựng Nam tiến tại Cao Lănh, Sài G̣n, 1970
Châu Lạc Quan: Chân
Lạp phong thổ kư, dịch giả Lê Lương, Kỷ nguyên mới, Sài G̣n, 1973
Lê Lương: Người Việt
gốc Miên, do Đại Nam in lại, California, 1980
Lê Lương: Angkor, Đế
Thiên, Đế Thích, do Đại Nam in lại, California, 1980
Lê Lương: Chợ trời
biên giới Việt Nam – Cao Miên (giải thưởng phóng sự năm 1969) in lại
ở Mỹ
Mạng internet của các tác giả Viện Nam và các cựu
quân nhân Mỹ đă từng phục vụ tại các căn cứ Cao Lănh.
Mai Thọ Truyền: bài
giảng “Lịch Sử Phật Giáo Đông Nam Á”, Viện cao đẳng Phật Học Sài
G̣n, khóa mùa xuân 1965
Nguyễn Thanh Liêm: “Những
biến đổi trong văn hóa Việt Nam”, California: tập san nghiên cứu văn
hóa Đồng Nai - Cửu Long, số 1, 2004, tr. 9-20
Nguyễn văn Xuân: Khi
những người lưu dân trở lại, Lửa Thiêng, Sài G̣n, 1967
Phan Khang: Việt sử:
xứ đàng trong, Khai Trí, Sài G̣n, 1967
Sơn Nam: T́m hiểu
đất hậu Giang, Phù Sa, Sài G̣n, 1959
Sơn Nam: Lịch sử
khẩn hoang miền Nam, Xuân Thu in lại, California, 1979
Trần Trọng Kim: Việt
Nam sử lược, Tân Việt, Sài G̣n, 1958
Trịnh Hoài Đức: Gia
Định Thành thống chí, Nguyễn tạo dịch, Bộ Văn Hóa Giáo Dục, Sài G̣n,
1972
Trần Quang Hạo:
Cao Lănh Đến 1954, Cao Lănh, tháng 4 năm 1963 |