Địa
danh trong ca dao Bình Định |
|
1.
Địa danh là tên riêng các đơn vị hành chính các cấp:
Chúng tôi tìm thấy trong cuốn Văn học dân gian Nghĩa
Bình, tập 1(1) trong số 160 câu ca dao ở phần ĐẤT NƯỚC -
LỊCH SỬ thì có 83 câu có nêu các địa danh là tên riêng
đơn vị hành chính thuộc tỉnh Bình Định. Trong đó riêng
địa danh Bình Định trong tư cách là tên tỉnh xuất hiện
16 lần ( # 19,28%) và thường đặt trong thế đối sánh với
Kinh đô (Huế), và các tỉnh lân cận: Quảng Nam, Quảng
Ngãi, Phú Yên, Khánh Hoà.
Ví dụ:
Tiếng đồn Bình Định tốt nhà
Phú Yên tốt lúa, Khánh Hoà tốt trâu
Cụ thể số lần xuất hiện của địa danh các cấp như sau:
Tỉnh
(số lần) |
Huyện( số lần) |
Xã ( số lần) |
Thôn, Làng( số lần) |
Bình Định:(16) |
Quy Nhơn (1) |
|
Hưng Thạnh (1)
|
Tuy Phước(1)
|
Phước Sơn(1) |
Luật Lễ (1)
Gò Bồi (4)
Kì Sơn(1)
Trường Úc(2) |
(Phù Cát)
|
|
Chánh Lí(1)
Chánh oai (1)
Hoà Đại (2)
Hoà Hội(1)
chợ Gồm(1)
Phú Hội(1)
Cánh An(1) |
(An Nhơn) |
Bình Định
(Thị trấn) (1) |
Đập Đá(3)
Gò Găng (6)
Phú Đa (2)
An Thái (4)
An Ngãi (1)
Hưng Long(1)
An Vinh(1)
Cầu Chàm(3)
Trung Dinh
Trung Thuận Trung Liên
Trung Định
Trung Lý
|
( Hoài Nhơn) |
Tam Quan (7)
Bồng Sơn (1) |
Bồ Địch (2.)
Giếng Vuông (2) |
Phù Mỹ (4) |
|
An Lương (1)
Dương Liễu(1)
Ô Long(1)
Tam Tượng(2)
Trà Ô(1) |
(Tây Sơn) |
Phú Phong |
Đồng Phó
Hà Nhung |
(Ghi chú: Tên huyện đặt trong ngoặc đơn không xuất
hiện trên văn bản ca dao. Chúng tôi đưa vào để biết tên
thôn xã là thuộc huyện nào)
Tên huyện, thị trấn và xã ít được nhắc đến trong ca dao.
Cụ thể: huyện được nhắc đến nhiều nhất là Phù Mĩ (4
lần); Quy Nhơn, Tuy Phước (1 lần). Địa danh xã được nhắc
đến nhiều nhất là Tam Quan (7 lần) vì đây là xã nổi
tiếng nhiều dừa và luôn gắn với hình ảnh cây dừa:
Công đâu công uổng công thừa
Công đâu gánh nước tưới dừa Tam Quan
Tên các thôn, các điểm cư dân tương đương thôn được nhắc
nhiều nhất. Đứng đầu là “Gò Găng” (Thị tứ phía bắc huyện
An Nhơn) được nhắc 6 lần ; tiếp đến là An Thái (An Nhơn)
-4 lần; Gò Bồi (Tuy Phước); Đập Đá (An Nhơn) - 3 lần. 23
địa danh thôn khác được nhắc đến từ 1 đến 2 lần. Tổng
cộng tên làng được nhắc đến 44 lần / 83 câu (# 53 %)
-
Em về Đập Đá quê cha
Gò Găng quê mẹ, Phú Đa quê chồng
-
Anh về Đập Đá , Gò găng
Bỏ em kéo vải sáng trăng một mình
Theo thống kê, các địa danh xuất hiện ở ca dao Bình Định
thuộc chủ đề ca ngợi cảnh vật và truyền thống địa phương
chiếm số lượng lớn hơn ở chủ đề ca ngợi tình yêu nam nữ,
phản ánh tình cảm vợ chồng. Điều này có ngược lại với
kết quả thống kê chung về toàn bộ ca dao Việt Nam của
tác giả Nguyễn Xuân Kính trong công trình Thi pháp ca
dao (2) .Qua khảo sát tỉ lệ các địa danh là tên các đơn
vị hành chính ta thấy tên tỉnh được nhắc nhiều nhất, sau
đó là tên các thôn, các làng chứng tỏ người dân Bình
Định cũng giống như nhân dân cả nước rất gắn bó với
thôn, với làng và luôn luôn tự hào về địa phương mình
sống.
Đặc biệt, người Bình Định tự hào về tỉnh mình trong đối
sánh với các tỉnh lân cận, đặc biệt là Phú Yên và Quảng
Ngãi- những tỉnh đã có thời được sáp nhập với Bình Định
qua các thời đại nhưng thủ phủ vẫn đóng tạo Bình Định.
Mặt khác, địa danh cấp tỉnh Bình Định xuất hiện sớm hơn
các địa danh cấp huyện trong tỉnh.
Các tên thôn và đơn vị tương đương được nhắc đến nhiều
thường là các địa phương có nghề hay, thợ khéo nổi
tiếng. Ví dụ Gò Găng (An Nhơn) là nơi chằm nón và buôn
bán nón nổi tiếng khắp vùng. An Thái (An Nhơn) là địa
phương có nghề trồng dâu nuôi tằm nổi tiếng, lại có có
truyền thống thượng võ. Gò Bồi (Tuy Phước) gần cửa biển,
thuận đường sông là một thị tứ cổ, trên bến dưới thuyền,
mua bán tấp nập (sau khi đô thị Nước Mặn bị tàn lụi) và
còn phát triển đến ngày nay.
Người con trai trong bài ca sau kể ra thật nhiều nơi,
nhưng không phải để tỏ ra mình đi nhiều, biết rộng mà vì
thấy mình cần lấy mảnh đất quê hương để thề bồi:
Anh nguyền cùng em chợ Giã cho chí Cầu Đôi
Nguyền lên Cây Vốc, vạn Gò Bồi giao long
Anh nguyền cùng em Thành Cựu cho chí Thành Tân
Cầu Chàm , Đập Đá giao lân kết nguyền
Trung Dinh, Trung Thuận cho chí Trung Liên
Trung Định, Trung Lý cũng nguyền giao ca
(Tháp
Cánh Tiên, An Nhơn, Bình Định)
-------------------------------------
(Nguồn Blog Đinh Hà Triều) |
2
- Địa danh là tên những địa điểm vốn là đối tượng lao
động và những địa điểm phục vụ giao thông: sông suối, ao, đầm,
núi, rừng, đèo, hang, động, cù lao, bãi, bến …và địa danh là tên
những địa điểm thực hiện sinh hoạt xã hội và những địa điểm sinh
hoạt văn hoá tín ngưỡng được nhắc đến nhiều trong ca dao Bình
Định. Trong đó núi, đèo, truông, tháp (vì tháp được xây dựng
trên các quả đồi) được nhắc đến nhiều nhất.
Thống kê:
Núi- Đèo- Truông-Tháp |
Sông- Suối- Cầu- Bến đò |
Đầm , Biển,Cù lao |
Chợ- Chùa- Di tích |
Vọng Phu (2)
Tháp Bánh Ít
Tháp Chàm
Thủ Thiện
Dương Long
Đèo Son
Đèo Cù Mông2
Núi Bà (2)
Núi Mò O (2)
Đèo Đá Dăm
Hòn Ông (2)
Hòn Bà
Kình Sơn
Chóp Vung
Non Tây
Linh Đỗng
Hòn Bình
Cù Mông
Truông Mây |
Cầu Bà Gi
Cầu Tấn
Sông Hà Thanh
Bến Trường Thi
Sông Đá Đàn
Suối Hầm Hô
Bến Trầu
Suối Bèo
Bến Giang
Cầu Đôi
|
Biển Đông2
Đầm Thị Nại
Cù lao Xanh
Phương Mai
Gành Ráng
Giã
Thị Nại
Cửa Đề Gi
Bến Chụt |
Chùa Thập Tháp
Cây Me
Chợ Luỹ
Chợ Cây Da
chợ Thành
Chợ Giã
Chợ Dinh,
Chợ Huyện
Cây Dừa
Phú Trung
Chợ Gò Chàm
Chợ Kiểng Hàng
Cây Vốc
Thành Cựu
Thành Tân |
Cắt
nghĩa hiện tượng này - theo chúng tôi - có hai lí do:
Thứ
nhất, đồi núi chiếm 3/4 diện tích cả tỉnh nên cũng là địa điểm
mà người dân Bình Định làm ăn, tiếp xúc nhiều. Thứ hai, địa hình
tự nhiên thường được lấy làm địa giới hành chính. Theo đó, Bình
Định phân cách với Quảng Ngãi ở phía Bắc bằng đèo Bình Đê, ở
phía Nam phân cách với Phú Yên bằng đèo Cù Mông; phân cách với
Tây Nguyên bằng đèo An Khê và trước đây thường được bố trí thành
những đồn luỹ phiên trấn, nhất là khi biên giới Đại Việt mới
dừng lại ở đèo Cù Mông (1471). “Từ núi Cù Mông về Nam vẫn
là người Man, người Lạo ở chưa có thì giờ để kinh lí đến „
(3) là.. Mà những con đèo ngày xưa thường rất khó đi, lên đèo
cũng có nghĩa là đi phòng thú; vượt đèo cũng có nghĩa là đi đánh
trận xa quê nên thường gây ra nhiều nỗi lo lắng:
Tiếng ai
than khóc nỉ non
Vợ chàng
lính thú trèo hòn Cù Mông
Các địa
danh phần lớn được sử dụng trong các trường hợp:
Nhắc lại
cuộc khởi nghĩa của Chàng Lía, cuộc khởi nghĩa không những đi
vào kí ức dân gian mà còn đi vào lịch sử Đàng Trong giữa thế kỉ
XVIII:
Chiều
chiều én liệng Truông Mây
Cảm
thương Chú Lía bị vây trong thành
Hay ngợi
ca, tự hào về công tích của Tây Sơn Tam kiệt:
Non Tây
áo vải cờ đào
Giúp dân
dựng nước xiết bao công trình
(Có lẽ
đây là câu ca dao mượn ý câu thơ của Bắc cung hoàng hậu Lê Ngọc
Hân trong Ai tư vãn, thể hiện sự đồng tình với Ngọc Hân trong
lời than tiếc, ngợi ca vua Quang Trung : Mà nay áo vải cờ
đào/ Giúp dân dựng nước xiết bao công trình)
Triều
đại Tây Sơn sụp đổ, Nguyễn Ánh trả thù thật tàn bạo nhưng tấm
lòng ngưỡng mộ của nhân dân Bình Định đối với Tây Sơn Tam kiệt
không bao giờ nguội tắt. Cây me, giếng nước, mảnh vườn xưa, bến
Trường Trầu … vẫn còn đó và đã đi vào ca dao, trở thành biểu
tượng không bao giờ phai:
Cây Me
cũ, Bến Trầu xưa
Dẫu không
nên tình nghĩa cũng đón đưa cho trọn niềm.
Rõ ràng
tác giả dân gian đã mượn vỏ ái tình để kín đáo gửi gắm tấm lòng
ngưỡng mộ “ ngụy triều” - vốn là điều triều đình nhà Nguyễn
nghiêm cấm gần suốt một thế kỉ rưỡi (1802-1945) trị vì.
Thời
Pháp thuộc, anh hùng Mai Xuân Thưởng (1860-1887) ứng nghĩa Cần
Vương đánh Pháp, nêu gương bất khuất kiên cường. Nhân dân Bình
Định đã có câu ca ngợi:
Ngó vô
Linh Đỗng mây mờ
Nhớ Mai
nguyên soái dựng cờ đánh Tây
Hầm Hô cữ
nước còn đầy
Còn gương
phấn dũng , còn ngày vinh quang
Khi thì
ca ngợi những thắng cảnh kì thú của quê hương. Cùng môtip “chờ
chồng hoá đá” nhưng Hòn Vọng Phu Bình Định khác với nàng Tô thị
(Lạng Sơn). Nàng Tô thị đứng trên mỏm núi đá Tam Thanh bế con
hướng về phía Bắc đợi chồng đi sứ về; còn nàng Vọng Phu Bình
Định bồng con đứng trên đỉnh Núi Bà nhìn ra biển Đông chờ chồng.
Ai đến Bình Định mà chẳng từng nghe câu hát:
Bình Định
có đá Vọng Phu
Có đầm
Thị Nại có Cù lao Xanh
Trải bao
năm tháng dãi dầu mưa nắng giữa trời biển mênh mông, Hòn Vọng
Phu đã làm xúc động tâm hồn bao con người với một sự tích về nỗi
bất hạnh của một mối tình éo le để rồi đợi chờ đến nỗi “hoá đá”
của người con gái.
Nếu hòn
Vọng Phu là biểu tượng cho lòng chung thuỷ sắt son của người vợ
thì nón Gò Găng là biểu tượng cho bàn tay khéo léo, nét duyên
dáng của cô gái Bình Định, cùng với lụa Phú Phong, lãnh An Thái
tạo nên niềm tự hào chính đáng vì nét thanh lịch đáng yêu:
Lụa Phú
Phong nên duyên nên nợ
Nón Gò
găng khắp chợ mến thương.
Tục ngữ
có câu “Trai An Thái, gái An Vinh” để tự hào, khen ngợi những
trai tài gái đảm của hai địa phương trên. Và không ít chàng trai
An Thái đã phải lòng những cô gái An Vinh:
Bên kia sông, quê anh An Thái
Bên này sông, em gái An Vinh
Thương nhau chung dạ chung tình
Cầu cha mẹ ưng thuận cho hai đứa mình lấy nhau
Chàng
trai hứa hẹn với người thương anh sẽ cưới nàng bằng một sính lễ
hậu hĩ:
Cưới nàng
đôi nón Gò Găng
Xấp lãnh
An Thái, một khăn trầu nguồn.
Cũng có
khi cô gái không ưng một chàng trai nào đó nên đã bày ra “chiêu”
thách cưới:
“Năm chục quan tiền
Xây vòng trái bưởi
Con heo bỏ cũi mang đi
Tấm lụa An Thái em bận chơi cho mát
Lụa Kiểng Hàng , em bận lót mồ hôi
Nón Phủ Trung , anh chạy đồi mồi
Gấm Nước Mặn chạy bông hoa cúc
Tiền thời cho chẵn một trăm
Bạc thời năm nén , vàng ròng mười đôi
Lụa năm bảy gọn anh ơi
Nhiễu thêm một gọn thì tôi mới về
Rõ ràng
cô gái “thách cưới” ở đây không quá quắt, cầu kì, nhiễu nhương
bằng cô gái trong bài ca dao dài ở Bắc Bộ (Cưới em trăm tấm
gấm đào/ Một trăm hòn ngọc, hai mươi tám ông sao trên trời/...).
Điều muốn nói ở đây là bài ca đã liệt kê hàng loạt những “
thương hiệu” như lụa An Thái, Lụa Kiểng Hàng, Nón Phủ Trung, Gấm
Nước Mặn như “ biểu diễn đặc phẩm của các huyện phủ”, như một
biểu tượng của sự thanh lịch, làm tôn thêm vẻ đẹp con người.
Bình
Định có nhiều ngọn tháp Chăm, đó là những công trình văn hoá
kiến trúc tuyệt mĩ của người Chăm - chủ nhân cũ của mảnh đất này
- mà người dân Bình Định không những đã ra sức gìn giữ và bảo vệ
trên thực địa mà còn đưa vào ca dao như một biểu tượng. Khi là
biểu tượng cho vẻ đẹp văn hoá quê hương:
Ai về Tuy
Phước ăn nem
Ghé qua
Hưng Thạnh mà xem Tháp Chàm
Tuy
Phước (nhất là Chợ Huyện – nay thuộc xã Phước Lộc) làm nem chua
ngon nổi tiếng, từng có câu ca rằng:
Rượu ngon
Trường Thuế mê li
Gặp nem
Chợ Huyện bỏ đi sao đành.
Khi là
biểu tượng cho một lời hứa hẹn trung trinh, son sắt:
-
Tháp Bánh Ít đứng sít cầu Bà Gi
Sông xanh, núi cũng xanh rì
Vào Nam, ra Bắc ai cũng đi con đường này
Nghìn năm gương cũ còn đây
Lòng ơi! Phải lo nung son sắt kẻo nữa đầy bể dâu
-
Cầu Đôi nằm cạnh Tháp Đôi
Dễ chi nhân ngãi mà rời được nhau
Bởi vì:
Tháp kia
còn đứng đủ đôi
Cầu còn
đủ cặp huống cho tôi với nường ( nàng)
Nếu danh
sĩ Nguyễn Văn Siêu (1799-1872) tài hoa rất mực khi đề trên Tháp
Bút (Hồ Tây- Hà Nội) 3 chữ “ Tả thanh thiên” thì người dân Bình
Định cũng tự hào:
Biển Đông
sóng vỗ rạt rào
Tháp kia
làm bút ghi tiếng anh hào vào mây xanh
Bình Định là đất lắm dừa. Ven biển, ven sông, ven núi đồi, trong
thôn xóm, đọc đường đi …đâu đâu cũng có bóng dừa che mát: Dừa
xanh trên bến Tam Quan, dừa che nắng che mưa, sóng vỗ bẹ dừa,
mài dừa dưới trăng, bí đỏ nấu canh nước dừa,… Người Bình Định từ
lâu đã chọn bóng dừa làm biểu tượng có tính tập trung nhất trong
ca dao của mình. Không chỉ xuất hiện với tần số cao mà dừa còn
là hình ảnh có giá trị gợi cảm sâu xa trong đời sống tâm hồn
người dân. Dừa là biểu tượng cho tình yêu chung thuỷ:
Suốt bốn
mùa xuân, hạ, thu, đông
Thiếp
ngồi dệt vải chỉ mong bóng chàng
Dừa xanh
trên bến Tam Quan
Dừa bao
nhiêu trái thương chàng bấy nhiêu
Phỏng
theo môtip trong ca dao truyền thống : “Đình bao nhiêu ngói,
em thương mình bấy nhiêu”; “Cầu bao nhiêu nhịp dạ em sầu bấy
nhiêu”, nhưng người Bình Định đã chọn bóng dừa làm biểu
tượng, vì dừa gần gũi với đời sống hằng ngày của họ, là nguồn
sống của họ. Bao nhiêu sản phẩm từ dừa là một nguồn lợi đáng kể
cho người dân Bình Định. Còn gì khoan khoái và bổ dưỡng hơn giữa
trưa hè mà được ăn một trái dừa nạo. Cơm dừa già dùng để nấu
dầu, đồ xôi, làm kẹo, làm mứt…. Lá dừa lợp nhà cực bền, vỏ dừa
làm vỏ bọc bình trà, đánh dây thừng , bện thảm, sọ dừa dùng làm
gáo, để đun và ngày nay dùng để điều chế than hoạt tính. Thật
vậy, kể sao hết công dụng của cây dừa!
Dừa Tam
Quan trường tồn bất diệt cũng như nghĩa tình đôi lứa chẳng thể
nào phai:
Ôm đàn
gảy khúc Cầu hoàng
Thiếp xin
gõ nhịp để chàng lựa dây
Bao giờ
rừng quế hết cây
Dừa Tam
Quan hết nước thì em đây mới hết tình
Cây dừa
còn là biểu tượng của cốt cách, phẩm chất cao quý của con người:
Dừa xanh
sừng sững giữa trời
Đem thân
mà hiến cho đời thuỷ chung
Biểu
tượng “ Dừa xanh sừng sững giữa trời” đã mang lại cho câu ca dao
một vẻ đẹp sử thi của con người Bình Định: khẳng khái, trượng
nghĩa, xả thân vì sự nghiệp cứu dân, giúp đời. Biểu tượng bóng
dừa trong ca dao Bình Định cũng như biểu tượng trúc tre trong ca
dao miền Bắc, đều là những biểu tượng đẹp cho con người Việt Nam
truyền thống. Không gian nghệ thuật đó góp phần thể hiện tình
yêu, lòng tự hào về quê hương Bình Định, qua đó, thể hiện cái
đẹp trong tâm hồn con người Bình Định trong đời sống , lao động
và đấu tranh xã hội.
3
- Tóm lại, theo khảo sát của chúng tôi, ca dao Bình
Định xuất hiện nhiều địa danh là đơn vị hành chính. Nhiều nhất
là địa danh Bình Định trong tư cách là đơn vị hành chính cấp
tỉnh vì khi đi đó đi đây người ta phải lấy tỉnh của mình ra để
giới thiệu, để tự hào. Vả lại, Bình Định lại là một địa danh đã
có bề dày lịch sử trên hai trăm năm. Tuy không bằng các tỉnh Bắc
Bộ và Khu Bốn nhưng lịch sử cũng dài hơn nhiều tỉnh Miền Nam.
Tên các
huyện, xã được đưa vào ca dao ít hơn tên thôn, làng vì trong chế
độ cũ những làng nghề nổi tiếng chưa thể có quy mô toàn xã, toàn
huyện như thời hiện đại. Vì thế mà tên làng trở thành niềm tự
hào lớn nhất của người dân. Các làng được nhắc đến nhiều nhất là
các làng có nghề khéo, có sản phẩm nổi tiếng,.... Đập Đá, Gò
Găng, An Thái...là các tên làng có tần số xuất hiện cao là vì
thế.
Các địa
danh là những địa điểm vốn là đối tượng lao động và những địa
điểm phục vụ giao thông như sông, suối, ao, đầm, núi , rừng,
đèo, phá, cù lao, mũi , biển, cầu đường, bãi, bến trong ca dao
Bình Định thì những địa danh gắn với núi non xuất hiện nhiều
nhất. Vào Nam, ra Bắc, ngược lên Tây Nguyên đều phải qua đèo,
chỉ có mặt Đông là biển. Truông Mây, Non Tây (Tây Sơn); Linh
Đỗng lại là nơi gắn với lịch sử đất tranh chống phong kiến,
chống thực dân hào hùng của người dân Bình Định. Nghề biển dưới
thời phong kiến vốn không phát triển. Tuy nhiên các bến biển ,
bến sông vốn là tụ điểm buôn bán trao đổi hàng hoá và giao thông
cũng được nhắc đến nhiều. Nhiều nhất là Gò Bồi và Giã ( Quy Nhơn
ngày nay). Các địa danh gắn với các phương diện sinh hoạt này
này ngoài chủ đề ca ngợi, tự hào về truyền thống địa phương còn
được sử dụng để bày tỏ tình yêu và khát vọng hạnh phúc, thuỷ
chung. (Hết)
Tác giả Đinh Hà Triều
---------------------------------------
Chú thích:
(1) Đào Văn
A, Cao Văn Chư, Văn học dân gian Nghĩa Bình, tập 1 Sở Văn hoá và
Thông tin Nghĩa Bình; 1986
(2)- Nguyễn
Xuân Kính, Thi pháp ca dao, NXB khoa học xã hội, H, 1992, trang
102
(3)- Uỷ ban
nhân dân tỉnh Bình Định, Địa chí Bình Định, tập 1 (Thiên nhiên-
Dân cư- Hành chính); Quy Nhơn, 2005, trang 268
(Nguồn: Blog Đinh Hà Triều) |