Trước khi nói đến h́nh thức tục ngữ, ta nên phân biệt mấy danh từ hay bị dùng
lẫn lộn. Tục ngữ (tục: thói quen có từ lâu đời; ngữ: lời nói) là những câu nói gọn
ghẽ, có ư nghĩa, lưu hành từ xưa do cửa miệng người đời truyền lại. Ngạn ngữ, cũng nghĩa như tục ngữ: v́ chữ ngạn có nghĩa là lời nói người
xưa truyền lại. Phương ngôn, là những câu tục ngữ chỉ lưu hành trong một vùng chứ không
thông dụng khắp nước. Cách ngôn, là những câu tục ngữ có nghĩa cao xa.
A. Khái niệm về Tục ngữ - Ca dao
- Dân ca:
1. Tục ngữ và Thành ngữ: - Tục ngữ: Là một câu tự nó diễn trọn vẹn một ư, một nhận xét, một kinh
nghiệm,
một luân lư, có khi là một sự phê phán. - Thành ngữ: Là một phần câu sẵn có, nó là một bộ phận của câu, mà nhiều
người
đă quen dùng, nhưng tự riêng nó không diễn được một ư trọn vẹn
Về h́nh thức ngữ pháp , mỗi thành ngữ chỉ là một nhóm từ, chưa phải là một câu
hoàn chỉnh.
C̣n tục ngữ dù ngắn đến đâu cũng là một câu hoàn chỉnh..(Xem
thêm
)
MỐI TƯƠNG ĐỒNG LƯ THÚ
GIỮA TỤC NGỮ VIỆT NAM VÀ TỤC NGỮ NƯỚC NGOÀI
GS Đàm Trung Pháp (khoahoc.net)
Mọi ngôn ngữ đều có những câu nói ngắn gọn nhưng chứa đựng những
nhận xét sắc bén về kinh nghiệm sống. Tên của những câu nói ngắn gọn
đó là TỤC NGỮ trong tiếng Việt và Hán, PROVERB trong tiếng Anh,
PROVERBE trong tiếng Pháp, DICHO trong tiếng Tây ban nha, PROVERBIO
trong tiếng Ư, và SPRICHWORT trong tiếng Đức. Với khả năng tóm gọn ư
tứ, tô điểm cho lời văn thêm mặn mà, và chứng minh lư lẽ một cách
hùng hồn, tục ngữ đóng một vai tṛ đáng kể trong ngôn ngữ thường
nhật. Điều nổi bật nhất là sự tương đồng trong nội dung của tục ngữ
nhân loại.
Ngẫm cùng ngạn ngữ
Nói đến văn hoá dân
gian, người ta thường nhắc tới các nhân tố của nó như ca dao, truyện cổ,
dân ca, cách làm nghề thủ công, kiến trúc nhà ở... mà ít khi nhắc tới
ngạn ngữ. Thậm chí trong văn học dân gian người ta cũng ít nhắc tới ngạn
ngữ. Kỳ thực ngạn ngữ lại là kho "trí tuệ nhân dân", như nghĩa gốc của
từ folklore mà các nhà nghiên cứu ngày nay hay dùng để chỉ văn hoá dân
gian. Ngạn ngữ hay tục ngữ là văn chương mà không hẳn là văn chương, là
tri thức mà không hoàn toàn là tri thức.
TỤC
NGỮ - CA DAO - DÂN CA NGHỆ TĨNH
Theo "Tục ngữ - ca dao - dân ca việt nam"
của Giáo sư Vũ Ngọc Phan,(Nhà Xuất bản Văn học)
A. Khái niệm về Tục ngữ - Ca dao - Dân ca:
1. Tục ngữ và Thành ngữ:
- Tục ngữ: Là một câu tự nó diễn trọn vẹn một ư, một nhận xét, một kinh
nghiệm, một luân lư, có khi là một sự phê phán.
- Thành ngữ: Là một phần câu sẵn có, nó là một bộ phận của câu, mà nhiều
người đă quen dùng, nhưng tự riêng nó không diễn được một ư trọn vẹn.
Về h́nh thức ngữ pháp , mỗi thành ngữ chỉ là một nhóm từ, chưa phải là
một câu hoàn chỉnh.
C̣n tục ngữ dù ngắn đến đâu cũng là một câu hoàn chỉnh.
Có thể nói một cách h́nh ảnh: thành ngữ ngang hàng với từ. Thành ngữ là
anh, từ đơn độc là em.
Thành ngữ trong tiếng Việt
hồng huy
Tất cả các ngôn ngữ có vốn từ vựng phong phú đều có thành ngữ. Từ vựng càng
phong phú, thành ngữ càng nhiều. Nếu chỉ so về số lượng, th́ số thành ngữ của
tiếng Việt không nhiều bằng số thành ngữ của tiếng Anh, tiếng Pháp, và tiếng Hán.
Nhưng tính tỉ lệ giữa số thành ngữ và từ vựng, th́ tiếng Việt có tỉ lệ cao hơn.
Lư do là v́ người Việt chúng ta, trong khi nói, trong khi viết, thích dùng những
ư, những mẫu có sẵn.
Thời gian làm phai nḥa bao trang giấy, làm mờ nhạt bao tấm bia đă từng
ghi khắc những lời hay ư đẹp. Riêng những ǵ được ghi tạc trong thâm tâm,
trong kư ức của con người, vẫn trường tồn với thời gian. Chính những ǵ
được ghi nhớ trong ḷng người đă làm nên văn chương truyền khẩu, đă là
nền tảng của bao nền văn hóa của nhân loại. Kư ức con người ghi tạc
những điều tốt và điều xấu để truyền lại cho những thế hệ kế tiếp. Cứ
như thế, thiên niên vạn đại về sau.
Ca dao tục ngữ nước ta có câu :
"Trăm năm bia đá cũng ṃn,
Ngh́n năm bia miệng vẫn c̣n trơ trơ".
T́m hiểu câu tục ngữ "Ẵm con chồng hơn bồng cháu ngoại" Bài viết được đăng lúc 3:15:35 PM, 15.04.2009
TRIỀU NGUYÊN
1.Câu
tục ngữ "Ẵm con chồng hơn bồng cháu ngoại" được sáchKho
tàng tục ngữngười
Việt(Nguyễn Xuân
Kính (chủ biên), Nguyễn Thuư Loan, Phan Lan Hương, Nguyễn Luân; Nxb
Văn hoá thông tin, Hà Nội, 2002) (KT), tr 75, ghi lại, trên cơ sở 12
đầu sách có chép nó.