Khảo sát những câu ca dao Tây Nam bộ trong công tŕnh Bộ hành với ca dao do Lê Giang sưu tầm, sưu tập và biên soạn, chúng tôi nhận thấy có gần 60 bài ca dao xuất hiện bằng motip “Đôi ta …”. Dù cùng một dạng motip so sánh, song, xem xét kỷ từng nội dung, chúng tôi nhận thấy ở đó có nhiều điều thú vị đặc biệt.
Thứ nhất, xét về
cập độ nội dung, “đôi ta” luôn chỉ đến hai
người, là hai đối tượng trong t́nh yêu lứa đôi.
Thoạt nghĩ, đôi ta đă là chuyện “sum hợp một
nhà”! Nhưng thật độc đáo, ở ca dao cụm đại từ
này không dừng lại ở đó. Nó biểu hiện đầy đủ tất
cả các cung bậc của t́nh yêu lứa đôi:
Từ buổi ban đầu gặp gỡ, một người nào đó trong
“đôi ta” thốt lên:
Đôi ta như
đá với dao
Năng liếc năng sắc năng chiều năng quen
Hay bộc lộ một thái độ “mừng rỡ” không thể kèm nén:
Đôi ta bắt
gặp nhau đây
Như con ḅ gầy gặp băi cỏ non
Đă quen biết nhau, họ coi đây như “duyên tiền định”:
Đôi ta như
đũa trong kho
Không tề không tiện không so cũng bằng
T́nh đầu, duyên mới, sự trong trắng trinh nguyên được bộ lộ:
Đôi ta như
áo mới may
Như chuông mới đúc, như cây mới bào
Và khéo léo ngơ lời:
Đôi ta mưa ướt áo rồi
Kiếm nơi đỏ lửa vô ngồi hơ chung
Họ dặn ḍ nhau:
- Đôi ta như
lúa phơi màu
Đẹp duyên th́ lấy ham giàu làm chi
– Đôi ta hát củi một rừng
Bứt dây một cội xin đừng nghe ai
Nguyện vượt mọi trắc trở, t́m đến nhau, hướng về
nhau:
- Đôi ta như ruộng năm sào
Cách bờ ở giữa làm sao cho liền
– Đôi ta như thể đôi chim
Ngày ăn tứ tán tối t́m cội cây
Dù muôn vàn cách trở “đôi ta” cũng sẵn sàng nâng đỡ d́u dắt nhau đến cùng trời cuối đất:
Đôi ta như
rắn liu điu
Nước chảy mặc nước ta d́u lấy nhau
C̣n đây một lời thề nguyền quen thuộc trong t́nh yêu lứa đôi:
- Đôi ta
chung thuỷ vẹn tuyền
Xem lên mái tóc hương nguyền c̣n đây
– Đôi ta thề thốt giữa đàng
Vạch cây khắc chữ hỏi chàng nhớ không?
Đă đến lúc duyên t́nh bén lửa, “đôi ta” không thể chia xa nhau nữa, cung bậc “tương tư” cũng hiện lên thật đẹp:
Đôi ta gá
nghĩa giữa đồng
Về nhà luống chịu nước mắt hồng tuôn rơi
T́nh yêu nào rồi
cũng đến hồi kết thúc, kết quả th́ không phải
một mà là hai:
Hoặc “đôi ta” làm con một nhà:
Đôi ta là
nghĩa tào khang
Trăm năm vẹn giữ ḷng vàng thuỷ chung
Họ luôn trọn thuỷ tṛn chung dù muôn vàn khốn khó:
Đôi ta bá
nghệ tuỳ thân
Sớm hái rau chiều đốn củi đỡ đần nuôi nhau
Hoặc chịu cảnh:
Đôi ta chẳng
đặng sum vầy
Khác nào kiếp nhạn lạc bầy kêu sương
Nguyên nhân th́ có nhiều, một trong số đó
là:
Đôi ta như lúa đ̣ng đ̣ng
Đẹp duyên nhưng chẳng đẹp ḷng mẹ cha
Hay như nguyên nhân gây ra là bởi “ai” trong “đôi ta” ấy!
Đôi ta mới
gặp đă ĺa
Trách ai bẻ khoá quăng ch́a xa nhau
Bởi tại “trời”:
Đôi ta trắc
trở tại ai
Trăng lu v́ bởi đám mây chàng ràng
Tóm lại, motif “đôi ta” đă diễn tả khá đầy đủ các cung bậc trong t́nh yêu lứa đôi, điều lư thú hấp trong loại h́nh nghệ thuật dân gian: ca dao!
Thứ hai, về nghệ thuật, “đôi ta như …” thể hiển nổi biện h́nh thức so sánh tu từ.
Đôi ta như
quế với gừng
Dù xa cách mấy cũng đừng quên nhau
Nhưng không chỉ có thế, môtip này cũng sử dụng nhiều h́nh thức khác:
Đôi ta xôi
đứng “xứng đôi”
Khi đi cũng đẹp, khi ngồi cũng cân
Câu ca sử dụng
biện pháp chơi chữ theo cách nói lái giữa hai
thành tố: xôi đứng (động từ) để tạo ra h́nh
tượng “xứng đôi” (tính từ). Từ chuyện “đôi ta”
cùng thực hiện hành động đứng “đồ xôi” để họ nói
lên điều cần thiết hơn, ngơ lời: đôi ta – xứng
đôi!
So sánh với điển tích:
Đôi ta như
nghĩa Châu – Trần
Khi xa ngàn dặm khi gần tấc gang
Sách xưa Trung Quốc chép rằng: Châu Trần nhị tính thế thế hôn nhân, nghĩa là hai họ (có sách ghi là hai thôn) Châu và Trần đời đời kết hôn với nhau
Hay so sánh với mối t́nh Kim – Kiều, hai nhân vật quen thuộc của văn học viết (Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Đôi ta như
Kim Trọng – Thuư Kiều
Đă lắm lúc đắng lại nhiều lúc cay
Mượn “mười lăm năm đoạn trường của hai nhân vật này để “đôi ta” nói lên cảnh t́nh “đắng cay” của chính họ!
Một môtip khác đi đôi chút với những điều mà chúng tôi đă đưa ra ở trên:
Đôi ta cùng
một chữ nghèo
Tỷ như có bọt th́ bèo lăn tăn
Không so sánh dạng “đôi ta như” quen thuộc mà đưa ra điểm chung của hai đối tượng được so sánh (đôi ta với bọt và bèo) trước đó là “chữ nghèo”, thay “như” bằng “tỷ”, không khác motip nhưng h́nh thức diễn đạt th́ đa dạng hơn.
Thứ ba, chúng tôi xin điểm qua các đối tượng dùng để so sánh với “đôi ta”. Đă nói là so sánh tất chúng phải có điểm chung và từ điểm chung nó giúp cho người đọc liên tưởng để t́m ra nét tương đồng. Có khi điểm chung ấy hiển hiện ngay trên câu chữ mà tác giả dân gian sử dụng:
Đôi ta như
thể con ong
Con quấn, con quít con trong con ngoài
Điểm giống nhau
giữa đôi ta với “con ong” là sự “quấn quít” từ
con trong đến con ngoài ấy!
Nhưng phần lớn, sự liên tưởng giữa đôi ta và đối
tượng so sánh bị giấu, bị ẩn đi:
Đôi ta như
quế với gừng
Dù xa xôi mấy cũng dừng quên nhau
Quế với gừng luôn ở cạnh nhau, vị cay của hai loại thực vật này tạo nên cảm giác nồng ấm, … tất cả những điều đó được dùng “huy động” để liên tưởng đến t́nh “đôi ta”, …
Qua khảo sát, chúng tôi thấy ở motip so sánh “đôi ta” có rất nhiều “đối tượng được đưa ra để người tiếp nhận liên tưởng. Từ những h́nh tượng dân dă, quen thuộc, đó là các con vật như rắn liu điu, như con ḅ gầy, như cá thờn bơn, như thể con ong, là đôi chim, … đó là các đồ vật: đá với dao, nút với khuy, như thể đồng tiền, như bộ chén chung, đũa trong kho … đó là các loài cây cỏ: như lựu với đào; như quế với gừng; như lúa đ̣ng đ̣ng; như lúa phai màu; như cỏ mọc hoang; … đó là như h́nh ảnh chung chung từ một cổ ngữ: như ngăi Châu – Trần (một điển tích); là ngăi tào khang (một từ cổ ẩn chứa một điển tích); như nghĩa ba sinh (từ Hán Việt, gợi chuyện trăm năm), ….
Vài ḍng kết luận
Trí tuệ dân gian thật phong phú và sâu sắc, rất nhiều dạng thức cùng motip nhưng vẫn rất đa dạng, không hề trùng lặp, không tạo sự nhàm chán.
Những h́nh ảnh quen thuộc, gần gũi giản dị của cuộc sống thường nhật trở nên lung linh, đa sắc thái khi đi vào nghệ thuật so sánh. Bên cạnh đó, những từ Hán Việt, những điển tích trong sử sách càng làm cho những viên ngọc dân gian thêm chói sáng bởi sự tiếp thu sắc nét từ văn chương bác học./.
Trần Minh Thương
Theo vanchuongviet