Cuộc tiến hóa của tiếng nước Nam
Chủ nhật 30/05/2010 12:00:00 (GMT +7)
Tác
giả: Phạm Quỳnh -
Nguồn:
www.bee.net.vn
Tôi không có ư
tŕnh bày ở đây với quư ngài về quá tŕnh
tiến hóa của tiếng nước Nam trong quá khứ,
về lịch sử nguồn gốc và sự h́nh thành của nó.
Chắc chắn chủ đề này cũng lư thú và không
kém thu hút sự chú ư của cử tọa am hiểu và
sành sỏi các vấn đề ngôn ngữ học như quư vị
mà vinh dự cho tôi hôm nay là được quư vị
lắng nghe. Nhưng vấn đề đó đến nay vẫn chưa
được nghiên cứu sâu sắc để có thể tŕnh bày
một cách sáng sủa và toàn diện.
Một số nhà bác học ngữ văn như ngài Henri
Paspéro, Cha Souvignet, cũng có lần soi rọi
qua vào nguồn gốc của tiếng nước Nam. Song
các nguồn gốc đó vẫn đang c̣n mờ mịt; và nếu
dựa vào cuốn từ điển của Cha Rhodes, ta có
thể so sánh tiếng nước Nam thế kỷ XVI với
tiếng nước Nam hiện nay, th́ lại vẫn c̣n
thiếu những thư tịch cổ xưa về tiếng nước
tôi, điều đó khiến cho ta không lần lại được
quá tŕnh tiến hóa của tiếng nói ấy qua các
thời đại.
Mặt khác, các văn bản cổ của nước Nam đều
viết bằng chữ Nôm, một thứ chữ dùng chữ Hán
biến cải đi để ghi âm tiếng Nam, và các ngài
nên biết thứ chữ này rất ít bảo đảm, nên
người viết văn, người sao chép cũng như
người đọc có thể tha hồ tự ư suy diễn, giải
thích. Những khó khăn này làm cho việc
nghiên cứu một cách khoa học đối với tiếng
Nam chưa được đảm bảo chắc chắn lắm.
Đồng thời, dù có quan tâm đến lịch sử của
vấn đề, nhưng theo ư tôi nó vẫn chẳng bằng
việc nghiên cứu tiếng Nam hiện thời, cái
tiếng nói đang trải qua một sự biến đổi sâu
sắc, có thể nói là một sự tiến hóa đang diễn
ra ngay trước mắt ta. V́ thế câu chuyện tôi
đem ra thảo luận với quư ngài hôm nay là sự
phát triển hiện thời của tiếng nước tôi chứ
không phải sự tiến hóa trong lịch sử của nó.
Hiện thời ở xứ tôi đang có phong trào khôi
phục ngôn ngữ dân tộc mà nguồn gốc của nó
đáng để ta đi sâu t́m hiểu. Phong trào này
phát sinh từ phản ứng chống lại chữ Hán là
thứ chữ viết duy nhất của giới nhà nho bao
lâu nay, và cũng có nguyên nhân từ ảnh hưởng
của văn hóa Pháp.
Chữ Hán ở nước tôi có vai tṛ gần như chữ
Latin ở các nước Âu châu thời trung cổ trước
khi h́nh thành các ngôn ngữ dân tộc khác
nhau. Đó là thứ chữ bác học do tầng lớp văn
nhân gọi là “nhà nho” sử dụng. Là lớp tinh
hoa duy nhất của đất nước, họ tỏ thái độ bề
trên coi khinh khẩu ngữ.
|
Phạm Quỳnh - hiệu Thượng Chi, bút danh: Hoa Đường, Hồng Nhân - là một nhà văn hóa, nhà báo, nhà văn và quan đại thần triều Nguyễn (Việt Nam). Ông là người đi tiên phong trong việc quảng bá chữ Quốc ngữ và dùng tiếng Việt - thay v́ chữ Nho hay tiếng Pháp - để viết lư luận, nghiên cứu. |
Ông chủ trương chiến đấu bất bạo động nhưng
không khoan nhượng cho chủ quyền độc lập, tự
trị của Việt Nam, cho việc khôi phục quyền
hành của Triều đ́nh Huế trên cả ba kỳ (Bắc,
Trung, Nam), chống lại sự bảo hộ của Pháp và
kiên tŕ chủ trương chủ nghĩa quốc gia với
thuyết Quân chủ lập hiến.
Các tác phẩm chính:
-
Thượng Chi văn tập (5 tập) (Bộ Quốc gia giáo
dục, Sài G̣n, 1962)
- Pháp
du hành tŕnh nhật kư (NXB Hội Nhà văn - H,
2004)
- Tiểu
luận viết bằng tiếng Pháp trong thời gian
1922 - 1932 (NXB Tri thức, H,2007)
- Một
tháng ở Nam Kỳ
- Mười
ngày ở Huế
- Luận
giải về văn học và triết học (Nxb. Văn hoá
Thông tin và Trung tâm văn hoá - ngôn ngữ
Đông Tây xuất bản, H, 2003)
- Hoa
Đường tùy bút Đối với họ, đó là thứ
tiếng tầm thường của dân chúng, không đáng
để người có học chăm lo bồi đắp. Không chỉ
có sách là viết bằng chữ Hán, mà các giấy tờ
hành chính, quan phương, cũng như thư từ cá
nhân đều như vậy cả.
Tiếng nói của người Nam, tiếng Nôm, hoặc
tiếng nói thông tục chỉ dành cho người thất
học, cho dân chúng. Họa hoằn mới có người hạ
cố viết văn bằng tiếng Nôm: đó là để soạn
những bài ca hay bài thơ ngắn như một thứ
giải khuây sau những thời gian đèn sách
nghiêm túc.
Chỉ có một ngoại lệ vào hồi đầu thế kỷ XIX:
một nhà nho làm quan là Nguyễn Du đă viết
Nôm cả một cuốn Kim Vân Kiều, cuốn tiểu
thuyết bằng thơ đó thực sự là một kiệt tác,
nó cho thấy những khả năng của tiếng Nam và
một khi nhà văn có tài sử dụng nó th́ có lợi
đến đâu.
Bị các nhà nho phớt lờ đi v́ nó không được
dạy trong trường học, nhưng tiếng Nôm vẫn
được nuôi dưỡng trong dân chúng là nơi vẫn
có những nhà thơ họ yêu thích giống như các
ca sĩ hát rong Phương Tây hát về t́nh yêu và
mùa xuân, ngợi ca quá khứ tốt đẹp và cảnh
đồng áng yên b́nh.
V́ thế mà, bên cạnh nền văn học viết chính
thống mà ta có thể gọi là văn học Hán-nôm v́
nó bao gồm tất cả những tác phẩm của các tác
giả người Nam viết bằng chữ Hán (các sách sử
kư, địa dư, triết học, luân lư), c̣n có một
nền văn học dân gian đa phần là truyền khẩu,
có thể là một trong những nền văn học phong
phú nhất thế giới, một cái mỏ không vơi cạn
những điều chỉ dẫn quư báu cả cho những
người nghiên cứu ngữ học và những nhà văn
hóa dân gian, bởi v́ nó phát ra trực tiếp từ
dân chúng, nó diễn tả dưới h́nh thức khi th́
mộc mạc đơn giản, khi th́ tinh nghịch ranh
mănh tâm hồn dân chúng nước tôi.
Trong khi các nhà nho khép ḿnh trong tháp
ngà vui thú viết những bài thơ chữ Hán -
giống như các bài thơ chữ Latin vậy - hoặc
là b́nh chú các kinh sách cổ, th́ dân chúng
làm h́nh thành tiếng nói và sản sinh ra một
nền văn học phong phú bao gồm các câu phương
ngôn, ngạn ngữ, tục ngữ nói về những chuyện
xa xưa hay các tập tục từng vùng quê, các
bài ca dao dài ngắn kể chuyện những người
tài, những danh nhân lịch sử của nước Nam,
của Trung Hoa, những anh hùng truyền thuyết
hay có thật, các bài dân ca huê t́nh dịu
dàng, mượt mà ngân lên trong những đêm hè
dưới mái nhà tranh nhỏ bé hay giữa ruộng
đồng ao hồ bao la và như dội lại trong không
gian vắt vẻo lên tới đỉnh ngọn tre xào xạc.
Những bài ca ấy thật ngọt ngào, quyến rũ. Ai
đă một lần nghe các cô thôn nữ cấy lúa ở
đồng bằng Bắc Bộ hay những cô gái chèo
thuyền tam bản ở Huế hát những câu ca như:
Núi
cao chi lắm núi ơi
Núi
che mặt trời không thấy người yêu
[Montagne, ô montagne, pourquoi êtes-vous si
haute? Vous cachez le soleil et vous me
cachez le visage de mon bien ai mé!] Hẳn sẽ
không bao giờ quên cái giọng buồn man mác
không sao nắm bắt nổi kiểu như thơ
Lamartine, nó cho thấy chiều sâu của thơ ca
ṇi giống ḿnh cũng như khả năng tuyệt diệu
của tiếng mẹ đẻ trong việc diễn tả những
t́nh cảm như vậy.
Trong khi các nhà nho say sưa vịnh cảnh và
người Trung Hoa th́ các ca sĩ dân gian đă
t́m được chất giọng như thế để thổ lộ t́nh
yêu trắc trở, để gợi nhắc kỷ niệm bùi ngùi.
Nhờ nỗ lực âm thầm của những người b́nh dân
du ca đó, những kẻ sáng tạo thực sự nên
tiếng nói của chúng tôi, thứ tiếng này đă có
được một cái nền dân gian rất phong phú mà
các văn nhân, nho gia chúng tôi đă quá xem
thường, quá hạ thấp, và không biết cách vun
xới và khai thác nó một cách đúng đắn để sản
sinh ra một nền văn học dân tộc vừa độc đáo
vừa lư thú như văn học Nhật Bản chẳng hạn.
Bất luận thế nào đi nữa, trước phong trào
phục hồi hiện nay, tiếng Nam vẫn chưa bao
giờ được giảng dạy và được chăm sóc v́ giá
trị của bản thân nó. Ngoài một số tác phẩm
ghi lại bằng chữ Nôm như Kim Vân Kiều, Cung
oán, Nhị độ mai..., - đó là những bài thơ
dài do các nhà nho sáng tác, c̣n lại toàn bộ
nền văn học dân gian gần như là hoàn toàn
truyền miệng, và không ai bao giờ có ư nghĩ
tập hợp, giữ ǵn những bông hoa đẹp của xứ
sở đă đưa lại cho tiếng mẹ đẻ âm sắc mùi vị
quyến rũ ấy.
Để cho tiếng Nôm trở thành một nền văn học
đáng gọi là văn chương, nó đang c̣n thiếu
một Ronsard hay một Rabelais, những người ở
vào hoàn cảnh tương tự đă biết chối bỏ tiếng
Latin, biết hy sinh danh tiếng nhà văn của
ḿnh để viết bằng thứ tiếng dân gian thông
dụng hồi bấy giờ là tiếng Pháp, nhờ họ và
những người kế tục sự nghiệp của họ mà chỉ
trong ṿng chưa đầy trăm năm tiếng Pháp đă
trở nên một thứ tiếng đẹp nhất Châu Âu.
Khi mà hệ thống nhà trường truyền thống chỉ
dạy tiếng Hán vẫn c̣n sống vật vờ, th́ tiếng
Nam không phát triển lên được và bị liệt vào
hàng nôm na mách qué, bị tầng lớp nhà nho
coi thường.
Nhưng cái nhà trường lỗi thời không đáp ứng
được các nhu cầu hiện đại đó đă biến mất, để
nhường chỗ cho nền giáo dục Tây phương đang
ngày càng phổ biến trong dân chúng. Phong
trào cách tân tiếng Nam tôi nói ở trên chính
là được bắt đầu với sự quảng bá của chữ quốc
ngữ. Phong trào này đi liền với sự tiến bộ
của nền giáo dục kiểu Pháp và sự tàn tạ của
lối học kiểu Tàu.
Các ngài đều biết chữ quốc ngữ là ǵ. Đó là
cách dùng chữ cái Latin ghi âm tiếng Nam do
các giáo sĩ Âu châu, nhất là các giáo sĩ
Pháp, phát minh ra trong khoảng thế kỷ
XV-XVII. Dưới dạng thức như hiện nay nó
chính là sự nghiệp của một bậc giáo sĩ cấp
cao, người đă đóng vai tṛ rất quan trọng
trong những bước đầu xây dựng quan hệ Pháp -
Nam và kết liền số phận nước Nam với nước
Pháp: giám mục d’Adran.
Chúng tôi chịu ơn ông, con người đáng kính
đó, và chịu ơn những bậc sùng đạo trước ông
đă đặt chân đến nước Nam, đă tạo ra một công
cụ tuyệt diệu giải phóng cho trí tuệ là chữ
quốc ngữ, thứ chữ này nhờ sử dụng bảng chữ
cái Latin và hệ thống ghi âm vô cùng thích
hợp với các ngữ điệu của tiếng nước tôi đă
xích chúng tôi lại gần hơn nữa với các chữ
viết âu châu và đă cho chúng tôi một ưu thế
vô giá đối với các chữ viết Trung Hoa và
Nhật Bản.
Người Nhật, người Hoa cũng muốn Latin hóa
tiếng nước họ, nhưng ngoài việc hệ thống ngữ
âm của họ kém phong phú hơn của chúng tôi và
chưa sẵn sàng cho việc ghi âm, th́ họ lại
không có cơ hội tốt để có được một cách ghi
âm đơn giản, tiện lợi, đầy đủ và uyển chuyển
như chữ quốc ngữ.
Chắc chắn là người ta vẫn có thể thấy cách
ghi âm này c̣n những chỗ chưa hợp lư, nhưng
nó đă được thử thách, nó đă trở thành thứ
chữ viết thông dụng khắp nước Nam từ biên
giới Trung Hoa đến vịnh Thái Lan; nó đă có
một h́nh hài riêng và người ta không thể
nghĩ đến cải cách nó ǵ hơn như là việc cải
cách chính tả tiếng Pháp. Trong những chuyện
này, tốt quá hóa xấu, thế gian này không có
ǵ hoàn thiện cả, hăy cứ để cho những sự
sáng tạo của con người mang dấu vết dở dang,
đấy là dấu hiệu của chính sự sống trong quá
tŕnh tiến hóa không ngừng của nó.
Nói đúng ra, những người sáng tạo sùng đạo
đă làm ra bộ chữ quốc ngữ không hề ngờ tới
một vận may to lớn đă khiến họ một ngày kia
trở thành người làm ra chữ viết của cả một
dân tộc. Khi phát minh ra chữ quốc ngữ, họ
chỉ nhằm mục đích ghi lại những từ ngữ tiếng
Nam để đem dùng v́ mục đích riêng và tiếp đó
là để dạy cho các con chiên của họ các sách
giáo lư Cơ đốc cũng như các sách tôn giáo
khác. Thực tế là, măi đến gần đây, chữ quốc
ngữ vẫn không vượt qua được bậc cửa của các
giáo đoàn và chủng viện, và những người Nam
đầu tiên biết dùng thông thạo thứ chữ đó là
các giáo sĩ Cơ đốc.
Ban đầu, những người này rụt rè đem dạy thứ
chữ đó cho trẻ nhỏ đă, sau mới đến người
lớn, như một sự luyện tập hữu ích cho việc
giảng đạo của họ, c̣n trong thâm tâm họ
không có ư định phế bỏ chữ Hán hay chữ Nôm.
Nhưng dần dần về sau, cộng tác với các ông
thầy và cộng sự người Âu của ḿnh, họ cho
xuất bản không chỉ các bản dịch những cuốn
sách đạo chỉ dùng cho giáo dân Cơ đốc, mà
c̣n cả những cuốn sách nhỏ về luân lư thông
thường, về những câu chuyện kể vui nhộn,
thậm chí cả những sách phổ biến khoa học mà
tất thảy mọi người đều đọc được.
Với các ấn phẩm đó, chữ quốc ngữ có thể nói
là đă được thế tục hóa và ngày càng lan rộng
trong dân chúng. Chỉ có một số nhà nho là
vẫn cố chấp coi khinh nó v́ lư do kép: trước
hết v́ đó là thứ chữ viết ngoại lai do các
nhà truyền giáo Cơ đốc mang tới, tiếp đến v́
đó là thứ chữ ghi lại lời ăn tiếng nói thông
thường không xứng để giới tinh hoa vun xới.
Chính ở Nam Kỳ mới là nơi chữ quốc ngữ được
phổ biến sớm và với tốc độ nhanh chóng nhờ
nỗ lực của một nhóm tác giả người Nam sốt
sắng và chăm chỉ như Trương Vịnh Kư, Paulus
Của, những người được học từ các giao đoàn
ra, những người đă làm việc rất nhiều để phổ
biến thứ chữ viết mới này thông qua các xuất
bản phẩm yếu lược dành cho các trường tiểu
học công đầu tiên mở ra ở xứ này, cũng như
các sách sưu tầm những bài ca dao, dân ca
cho đông đảo dân chúng thích đọc để giải
trí.
Vả chăng xứ Nam Kỳ cũng dành sẵn những điều
kiện tối hảo cho việc truyền bá chữ quốc
ngữ. Trở thành đất thuộc Pháp trước các xứ
khác của nước Nam, và lại là nơi ít mang dấu
ấn sâu sắc của Trung Hoa như Bắc Kỳ và Trung
Kỳ, Nam Kỳ đă khá nhanh chóng bỏ rơi việc
học chữ Hán để chuyển qua học chữ Pháp.
Muốn thế th́ nhất thiết phải biết chữ quốc
ngữ như là khâu nhập môn để làm quen với
bảng chữ cái Pháp. Mặt khác, Nam Kỳ không có
tầng lớp nhà nho thủ cựu và cố chấp như ở
Trung Kỳ và Bắc Kỳ, nó cởi mở hơn đối với
mọi cái mới, điều này giải thích v́ sao chữ
quốc ngữ và chữ Pháp lại được phổ biến dễ
dàng trong mọi tầng lớp xă hội ở đây.
Nhưng, như rồi các ngài sẽ thấy, nếu việc
thiếu một tầng lớp nhà nho am hiểu văn hóa
Trung Hoa, tự phụ về sự hơn hẳn của ḿnh và
khư khư bám lấy đặc quyền, nên đă tạo thuận
lợi cho sự phổ biến chữ quốc ngữ trên phương
diện chữ viết, th́ chữ quốc ngữ lại có phần
gây cản trở sự phát triển của tiếng Nam trên
phương diện một ngôn ngữ.
Bởi v́ dù sao đi nữa, tiếng Nam cũng chịu
ảnh hưởng nhiều của tiếng Hán, giống như
tiếng Pháp đối với tiếng Latin, mà có thể
c̣n ở mức độ rộng hơn. Không có sự góp phần
của chữ Hán th́ nó không những không thể
giàu có lên được, mà c̣n để mất đi một số
lượng lớn những từ đă thông dụng mà nếu
không biết chữ Hán th́ không thể biết từ
nguyên và nghĩa đích xác.
Chính v́ thế mà ở Nam Kỳ, mặc dù chữ quốc
ngữ được phổ biến nhanh chóng, nhưng tiếng
Nam lại không có được những tiến bộ lớn và
không có được sự tiến hóa như ở Trung Kỳ và
Bắc Kỳ.
Trong hai xứ này, chữ quốc ngữ ban đầu được
lớp nhà nho tiếp nhận một cách thù nghịch.
Nhưng khi nhận ra tiện ích của thứ chữ viết
mới này th́ rốt cuộc họ đă chấp nhận nó và
ngày càng xa rời chữ Nôm là thứ chữ dần dần
bị bỏ rơi hoàn toàn. Đồng thời cũng có một
sự biến đổi sâu sắc diễn ra trong tinh thần
các nhà nho chúng tôi đối với văn hóa Tây
phương nói chung và đối với nền giáo dục
Pháp nói riêng.
Vào khoảng năm 1900, sau khi Trung Hoa bị
Nhật Bản đánh bại, một nhóm nhà cải cách
Trung Hoa đă nhận ra nguyên nhân sự yếu kém
của dân tộc ḿnh, nên đă quyết tâm học theo
văn minh Tây phương.
Một số lượng lớn các nhà nho Trung Hoa đă
sang học tập ở âu châu và Hoa Kỳ và khi trở
về họ đă bắt tay vào dịch sang tiếng Hán các
tác phẩm tiêu biểu nhất của những nhà triết
học và bác học lớn Tây phương.
Có nhiều bản dịch đó, nhất là những tác phẩm
của Darwin, Kant, của các nhà triết học Pháp
thế kỷ XVIII: Rousseau, Montesquieu,
Voltaire, Diderot đă được truyền qua Đông
Dương và được các nhà nho chúng tôi ngốn
ngấu đọc, qua các tư tưởng mới mẻ đó họ khám
phá ra nền văn minh Tây phương ở những cái
cao cả và sâu sắc của nó.
Họ kinh ngạc thực sự. Nếu như hồi đầu họ có
thái độ kỳ thị cái học Tây phương th́ bây
giờ họ lại say mê. Không thể dịch thẳng từ
tiếng Pháp, họ bèn dịch lại từ tiếng Hán
sang tiếng Nam không chỉ các tác phẩm của
Rousseau và Montesquieu, của Darwin và Kant,
mà cả những sách giáo khoa thường thức khoa
học do các tác giả Trung Hoa viết cho các
trường học mới ở Trung Quốc, và khi dịch như
thế họ dùng luôn chữ quốc ngữ.
Nhờ đó tiếng Nam nhanh chóng trở nên phong
phú bởi một loạt từ ngữ mới vay mượn của chữ
Hán: các thuật ngữ kỹ thuật, các từ trừu
tượng mà bản thân người Trung Hoa và trước
họ là người Nhật, nhờ sự phong phú của thứ
chữ ghi ư đă dịch thoát hoặc phiên âm được
các thứ tiếng âu châu.
Người ta đă tranh luận nhiều về việc du nhập
các từ ngữ mới tiếng Hán-nhật vào tiếng Nam:
người ta suy tính xem, nên chăng du nhận
hoàn toàn và đơn giản vốn từ vựng kỹ thuật
của tiếng Pháp thay cho vay mượn qua cái cầu
chữ Hán. Có nhiều điều để nói về chủ đề này;
lát nữa tôi sẽ đề cập tới.
Nhưng cần phải ghi nhớ một thực tế hiển
nhiên là: trước khi ở nước tôi có tầng lớp
Tây học có khả năng dịch sang tiếng Nam các
tác phẩm Pháp, có khả năng phổ biến bằng
tiếng mẹ đẻ những tri thức khoa học mới, th́
các nhà nho lớp cũ đă làm việc đó nhờ cảm
hứng từ các sách Trung Hoa và họ cũng đă làm
phong phú thêm tiếng nước tôi bằng một số
lượng đáng kể các từ ngữ mới từ đó đă trở
nên thông dụng.
Khi lớp tinh hoa mới được đào tạo trong các
trường Pháp đă có thể bắt tay vào việc dịch
thuật và phổ biến bằng thứ tiếng dân tộc cần
thiết cho việc giáo dục đám đông, nó đă có
sẵn một thứ tiếng do các bậc tiền bối là các
nhà nho lớp cũ chuẩn bị cho việc tiếp nhận
cái mà họ gọi là “tân thư”.
Nói đúng ra, những người Tây học trong lớp
tinh hoa này, qua phản ứng rất dễ hiểu chống
lại nền văn hóa Hán-nôm cổ xưa, th́ ban đầu
cũng c̣n do dự măi trước việc thừa nhận thứ
tiếng mới này và những tiếng vay mượn từ
tiếng Hán. Có một thời gian đă xảy ra một
thứ “xung đột tân cựu” quanh chuyện ngôn ngữ
này, một cuộc xung đột kéo dài không lâu và
đă được thu xếp ổn thỏa.
Bằng sự nhân nhượng lẫn nhau, hai phái tân
học và cựu học đă đồng ư được với nhau về
vấn đề quan trọng này và về việc cùng hợp
tác để hoàn thiện ngôn ngữ dân tộc mà trong
ṿng mươi, mười lăm năm qua đă đạt được sự
tiến bộ lớn và đă sản sinh ra một nền văn
học mới rất đáng chú ư.
Các tác phẩm viết bằng quốc ngữ xuất hiện
ngày càng nhiều và đa dạng: lịch sử, tiểu
thuyết, thơ, sân khấu, sách giáo khoa, các
bản dịch văn học cổ điển Pháp và Trung
Hoa...
Hàng chục tờ báo và tạp chí bằng chữ viết
mới được xuất bản ở Hà Nội và Sài G̣n và
được đủ mọi tầng lớp xă hội t́m đọc, từ anh
phu kéo xe tranh thủ giữa hai cuốc xe ngồi
dưới bóng cây đọc các tin vặt trong ngày đến
ông quan nằm trên giường, ngồi trong nhiệm
sở nhấm nháp một bài viết hay những vần thơ
của một nữ thi sĩ trẻ.
Phong trào phục hưng hay đúng hơn là cuộc
canh tân tiếng Nam này lại ít được biết đến
trong những người Pháp sống ở nước tôi, thậm
chí ngay cả lớp công chúng đặc biệt thân với
nước Nam.
Trừ một số ngoại lệ đáng quư, những người
này thường chỉ bằng ḷng với việc học thứ
tiếng nói thông thường, khẩu ngữ, và quan
tâm rất ít đến các ấn phẩm tiếng Nam. Nếu
như họ có khi nào đọc một bài trên báo chí
và vấp phải những từ ngữ Hán-nôm khó hiểu,
họ sẽ vất tờ báo xuống và nói như đanh đóng
cột: "Đây không phải tiếng Nam. Đây là tiếng
Hán !" Lời xét đoán này quả là rất thô
thiển.
Ngược lại, những người đang thật sự “Nam
hoá”, như thường thấy ở các nhà truyền giáo
và những người quan tâm thiết thực đến sự
tiến hóa của tiếng Nam, th́ lại có nhiều cảm
t́nh với phong trào này. Ở cương vị chủ bút
một tờ tạp chí, tôi thường nhận được thư từ
của các nhà truyền giáo đánh giá cao những
nỗ lực của chúng tôi trong việc đổi mới
tiếng Nam và khen ngợi những kết quả chúng
tôi đạt được.
Một trong số họ, Đức Cha H (*) có lẽ là
người Âu duy nhất mà tôi biết đă sử dụng
tiếng nước tôi thành thạo bậc thầy, không
chỉ khẩu ngữ, mà cả ngôn ngữ văn chương của
những người có học. Một hôm ông đă có nhă ư
nói với tôi rằng ông đă học được cách viết
tiếng Nam qua báo chí của chúng tôi. Quả
thực, ông đă viết tiếng Nam hoàn toàn như
một nhà nho nước Nam.
Tôi đă đăng cho ông một bài viết về "Các hệ
thống luân lư hiện thời", trong đó ông phê
phán thuyết khoa học luận và quyết định
luận, một vấn đề hóc búa ngay cả đối với một
nhà triết học chuyên nghiệp viết bằng tiếng
Pháp; cách tŕnh bày của ông bằng tiếng Nam
sáng sủa, cách ông dùng thuật ngữ chuyên môn
triết học chính xác tới mức dù chủ đề bài
viết phức tạp nhưng tất cả độc giả của chúng
tôi đều hiểu ông và, do chỗ ông kư một bút
danh lấy tên người Nam, cứ ngỡ ông là một
nhà văn của dân tộc tôi.
Đức cha H. và tôi, chúng tôi thường nói về
sự tiến hóa của tiếng Nam và tương lai của
nó. Ông bảo tôi: "Các ngài có cái phúc lớn
là có một thứ chữ viết ghi âm khiến các ngài
gần với các thứ chữ viết Âu châu. Như vậy
các ngài có thể lấy ở tiếng Pháp tất cả
những vay mượn cần thiết, chuyển thoải mái
những từ tiếng Pháp sang quốc ngữ của các
ngài.
Mặt khác, tiếng các ngài phần lớn phát sinh
từ tiếng Trung Hoa; những vay mượn mà các
ngài có thể lấy từ đó có thể nói là vô tận,
bởi v́ những từ Hán mà các ngài vay mượn th́
các ngài đọc theo kiểu tiếng Nam, do đó
chúng như là những từ tiếng Nam vậy. Đấy là
những ưu thế vô giá. Tiếng các ngài như vậy
là có thể giàu có, đổi mới vô tận. Tôi hoàn
toàn tin tưởng vào tương lai của tiếng Nam".
Những lời nói khích lệ này làm yên ḷng
chúng tôi trước nhưng phán xét vội vă của
những người ít nhiều có hiểu biết.
Bây giờ tôi xin quay lại vấn đề đă lướt qua
lúc năy, đó là những sự vay mượn từ tiếng
Hán và những từ ngữ mới. Tôi đă nói tới việc
tiếng nước tôi vốn bị lớp nhà nho coi khinh
một thời gian dài song lại được vun xới
trong dân chúng như thế nào và nó có cái vốn
dân gian phong phú ra sao. Nó chỉ thiếu vốn
từ trừu tượng và kỹ thuật đối với những tri
thức hiện đại, một tập hợp thuật ngữ chuyên
ngành để biểu đạt các tư tưởng mới và các
phát minh mới.
Tôi tin rằng sự thiếu hụt đó không phải chỉ
riêng cho tiếng nước tôi: nó là chung cho
tất cả các thứ tiếng hạng hai không theo kịp
sự tiến bộ chung của các khoa học và của văn
minh. Ở trên kia, tôi đă cho thấy việc các
nhà nho nước tôi, do hoàn cảnh bắt buộc phải
học theo các tư tưởng và tri thức hiện đại
đă bổ sung sự thiếu hụt đó bằng cách vay
mượn những từ ngữ mới trong tiếng Hán và họ
đă nhanh chóng thành công trong việc có thể
gọi là hỗn nhập ngôn ngữ.
Nhưng liệu những sự vay mượn đó có hợp lư
không, có nên làm không. Hẳn là không bao
giờ nên tiến hành việc một ngôn ngữ này vay
mượn một ngôn ngữ khác. Nhưng việc tiếng Nam
vay mượn tiếng Hán có bản chất rất đặc biệt
và nội một việc những từ ngữ mới của tiếng
Hán du nhập tiếng Nam không hề khó khăn, hầu
như là tự nhiên, đă cho thấy những sự gần
gụi sâu xa giữa hai thứ tiếng này.
Vả chăng, nói tiếng Nam vay mượn từ ngữ
tiếng Hán là không hoàn toàn chính xác:
tiếng Nam không "vay mượn" thô thiển từ ngữ
tiếng Hán nằm trong khẩu ngữ, bạch thoại, là
thứ tiếng không nói thống nhất như nhau
trong tất cả các tỉnh của Trung Hoa; tiếng
Nam, cũng như tiếng Triều Tiên, cũng như
tiếng Nhật Bản, cũng như chính tiếng bạch
thoại, vay mượn ở một cái kho chung là tiếng
Hán, một thứ tử ngữ chung cho tất cả các dân
tộc vùng Viễn Đông chịu ảnh hưởng văn hóa và
văn minh Trung Hoa, giống như tiếng Hy Lạp
và tiếng Latin chẳng hạn là hai tử ngữ chung
cho các dân tộc Tây phương hay ít nhất cũng
góp phần tạo nên phần lớn các thứ tiếng âu
châu hiện thời.
Khi các ngài vay mượn chẳng hạn của tiếng
Anh những từ như sleeping-car, rocking-
chau, smoking-room hay tea-room - điều này
h́nh như bây giờ đang trở thành mốt v́ tôi
thấy đâu đâu cũng là những Royal-Hotel và
những Cinema-palace - th́ thế là các ngài đă
thực sự vay mượn rồi, bởi v́ những từ tiếng
Anh này chuyển trực tiếp qua tiếng Pháp mà
vẫn giữ nguyên chính tả và phát âm gốc của
chúng.
Nhưng khi bị thôi thúc bởi nhu cầu t́m kiếm
những thuật ngữ phù hợp để chỉ một phát minh
hay biểu đạt một tư tưởng mới, các ngài t́m
về lại tiếng Hy Lạp và tiếng Latin để tạo
nên những từ mới như électro-dynamique hay
psycho-analyse, th́ nếu các ngài muốn, đó
cũng là những sự vay mượn, nhưng là những
vay mượn có bản chất khá đặc biệt, đừng nên
lẫn với những vay mượn đối với tiếng Anh.
Và nếu có đôi khi một nhà văn hay nhà báo
nào đó chế nhạo thứ tiếng lóng Hy-la của các
nhà bác học và các triết gia th́ họ đă không
nhận biết sự cần thiết và tính hợp thức của
việc đó, và nếu có dịp họ lại không ngần
ngại sử dụng cũng những từ ngữ ấy để chỉ
cũng những sự vật ấy và biểu đạt cũng những
tư tưởng ấy.
Những sự vay mượn các thứ tiếng cổ theo kiểu
này, miễn là chúng được thực hiện có lựa
chọn, có phân biệt, và đáp ứng được các quy
luật bí mật của sự hài âm và phát âm - v́
tôi nghĩ đấy chính là điều kiện không thể
thiếu để tạo ra những từ mới - sẽ làm giàu
cho ngôn ngữ thay v́ làm cho nó cồng kềnh
lên hoặc bị sai lệch đi.
Thế nhưng, những vay mượn của tiếng Nam đối
với tiếng Hán lại chính xác và có cùng một
bản chất như sự vay mượn của tiếng Pháp đối
với tiếng Hy Lạp hoặc tiếng Latin. Khi xem
xét vấn đề theo cách đó và đặc thù ngôn ngữ
học, vấn đề này không c̣n quan trọng nữa và
trở thành một điều hết sức tự nhiên, sự hỗn
nhập tiếng Hán vào tiếng Nam thời nào cũng
diễn ra, theo một cách gần như tự phát.
Tuy nhiên nếu như vấn đề này vẫn cứ được nêu
ra đó là v́ một số khá lớn đồng bào trẻ tuổi
của chúng tôi được đào tạo hoàn toàn trong
các trường Pháp, bằng phản ứng tự nhiên
chống lại nền văn hóa Trung Hoa già cũ và
tinh thần nho học cổ xưa, đă bỏ rơi hẳn chữ
Hán và như thế là lại rơi vào sai lầm ngược
với sai lầm của các nhà nho lúc trước không
muốn nghe nói ǵ đến việc học chữ Pháp.
Song cuối cùng họ cũng đă thừa nhận sai lầm
của ḿnh và đă ư thức được rằng việc học chữ
Hán là không thể thiếu để có hiểu biết đầy
đủ về tiếng Nam, rằng tiếng Nam hoàn toàn
độc lập với nền văn hóa kinh viện Trung Hoa
già cũ đă bao thế kỷ qua chế ngự giới trí
thức nước Nam, rằng cần phải học chữ Hán
không phải v́ thứ chữ đó mà v́ phải chuyển
biến theo thứ tiếng dân tộc phát sinh từ đấy
ra, một việc không tốn mấy thời gian và cũng
không mấy khó nhọc.
Chính v́ vậy một số lớn thanh niên Tây học
của chúng tôi sau khi có được tấm bằng trong
các trường Pháp đă quay sang học chữ Hán,
nhưng không học theo cách của các nhà nho
xưa dành cả đời b́nh giảng những cuốn sách
cũ, mà theo cách người ta dạy tiếng Latin ở
trường trung học hay cao đẳng.
H́nh như Chính quyền Đông Dương, trong
chương tŕnh trung học và cao đẳng ở thuộc
địa, đang có ư định thay tiếng Hy lạp và
Latin bằng tiếng Hán, đây sẽ là một biện
pháp hoàn toàn đúng đắn và hợp thời, bởi v́
những người trẻ của chúng tôi cần văn hóa
Hy-la ít hơn là văn hóa Trung Hoa.
Và cũng như ở Pháp việc học tiếng Hy Lạp và
tiếng Latin không có nghĩa là các ngài chịu
ảnh hưởng của nước Hy Lạp hay nước ltalia
hiện thời, th́ ở nước tôi việc học tiếng Hán
không có nghĩa là chúng tôi đi theo Trung
Hoa.
Ảnh hưởng Trung Hoa vốn đă quá tai hại đối
với sự tiến hóa tinh thần của dân chúng nước
tôi, nó đă đè quá nặng lên chúng tôi, nên
chẳng dại ǵ chúng tôi lại bị rơi vào đó nữa.
Nhưng dẫu sao hai mươi thế kỷ của văn hóa
Trung Hoa đă để lại những dấu vết không thể
xóa nḥa trong ngôn ngữ chúng tôi, và để
không bị quên mất hoàn toàn chúng tôi buộc
phải học tiếng Hán như một tử ngữ, cái tử
ngữ đă và vẫn đang góp phần tạo nên phương
ngữ dân tộc chúng tôi.
Nhưng nếu tiếng Nam có phần phát xuất từ
tiếng Hán là thứ tiếng vẫn không ngừng làm
giàu cho nó bằng các từ ngữ mới, th́ hiện
giờ tiếng Nam cũng bắt đầu vay mượn tiếng
Pháp.
Những vay mượn này gồm có những từ ngữ Pháp
dịch sang những từ ngữ Nam tương đương, có
khi là phiên âm những từ Pháp sang âm tiếng
Nam, hay có khi là đưa nguyên xi các từ Pháp
vào tiếng Nam. Mặc dù bản chất hai thứ tiếng
khác nhau, một tiếng đa âm tiết c̣n một
tiếng đơn âm tiết, nhưng quy luật cuộc sống
thực bắt buộc những vay mượn đó ngày càng
nhiều lên và càng ngày càng làm giàu cho
tiếng nước