|
PHONG TỤC TẾT ĐOAN NGỌ VIỆT NAM VÀ TRUNG HOA DƯỚI GÓC NH̀N CHỨC NĂNG
ThS. Nguyễn Ngọc Thơ
Vùng Á Đông được thế giới biết đến với nhiều di sản văn hóa độc đáo,
trong đó có các phong tục truyền thống mà tết Đoan ngọ là một thí dụ
điển h́nh. Việt Nam và Trung Hoa, hai quốc gia vùng văn hóa chữ Hán, có
lịch sử giao lưu văn hóa lâu đời, trong đó những ảnh hưởng của văn hóa
Trung Hoa đối với văn hóa Việt Nam là vô cùng sâu sắc và có ư nghĩa to
lớn. Tuy vậy, mỗi nền văn hóa mang các đặc trưng riêng do các điều kiện
môi sinh và lịch sử xă hội đặc thù mỗi nơi quy định. Nghiên cứu phong
tục tết Đoan ngọ ở Việt Nam và Trung Hoa dưới góc nh́n chức năng dưới
đây như là một nghiên cứu trường hợp .
1. Tết Đoan ngọ – những vấn đề chung
Phong tục lễ tết Á Đông, trong đó có Việt Nam và Trung Hoa, thường gắn
liền với quan niệm coi trọng sự tuần hoàn của thời tiết trong năm. Trên
đại thể có thể chia thành hai tiểu hệ: (1) các lễ tết gắn với chu kỳ
của Trăng, bao gồm Thượng nguyên 15/1, Trung nguyên 15/7, Hạ nguyên
15/10 và Trung thu 15/8; và (2) các lễ tết gắn với các ngày tháng có
thành tố lẻ, gồm tết Xuân (1/1), tết Hàn thực (3/3)([1]),
tết Đoan ngọ (5/5), tết Ngâu (7/7), tết Trùng cửu (9/9). Ngoài ra, vùng
Hoa Bắc có thêm hai ngày tết gắn với các ngày tháng có thành tố chẵn
tuy không quan trọng, là Tết Đầu rồng (2/2,
龙头节
Long đầu tiết), Tết giặc giũ (6/6,洗晒节
Tẩy sái tiết). Về cơ bản, những lễ tết truyền thống Việt Nam và Trung
Hoa mang nhiều nét tương đồng, nhất là các đặc trưng mang chung của cả
khu vực Á Đông. Nhiều trong số các phong tục lễ tết Việt Nam bắt nguồn
từ hoặc có quan hệ mật thiết với văn hóa Trung Hoa, song chúng đă phát
triển trên nền tảng của văn hóa canh nông lúa nước Việt Nam, do đó bên
cạnh những đặc trưng chung c̣n thể hiện những đặc điểm đậm chất bản sắc
của văn hóa bản địa.
Ca dao Việt Nam có câu “Tháng tư đong dậu nấu chè; Ăn tết Đoan ngọ
trở về tháng năm”. Cả người Việt Nam và Trung Hoa đều coi tết Đoan
ngọ là cái tết quan trọng thứ hai trong năm, chỉ sau tết Nguyên đán (Trung
Hoa gọi là tết Xuân). Người Việt Nam c̣n gọi tết Đoan ngọ là tết Nửa năm,
tết Đoan dương, tết Trùng ngũ v.v., người Trung Hoa lại gọi bằng nhiều
tên gọi hơn chẳng hạn Đoan ngũ
端五,
Đoan tiết
端节,
Ngũ nguyệt ngũ
五月五,
Ngọ nguyệt ngọ
午月午,
Trùng ngũ
重五,
Trùng ngọ
重午,
Địa lạp地蜡,
Ngũ nguyệt tiết
五月节,
Thiên trung tiết
天中介,
Long chu tiết
龙舟节,
Tung tử tiết
粽子节,
Dục lan tiết
浴兰节,
Nữ nhi tiết
女儿节,
Ngải tiết
艾节v.v.,
có điều tuyệt nhiên không gọi là tết Nửa năm.
Về từ nguyên, Đoan ngọ có thể hiểu nôm na là “ngày mở đầu
chuỗi ngày nóng nhất trong năm”. Đoan (开)
nghĩa là bắt đầu (khai đoan). Ngọ (午)
chỉ giờ ngọ, tức khoảng thời khắc nóng nhất trong ngày (từ 11 giờ
trưa đến 1 giờ chiều). Theo lịch kiến Dần (nông lịch hiện nay), tháng
năm là tháng Ngọ (tháng giêng là tháng Dần). “Ngày 5” âm
Hán Việt đọc là “ngũ nhật” (五日trong
đó “ngũ” (五/wu/)
đồng âm với “ngọ” (午/wu/),
cho nên Đoan ngọ c̣n gọi là Đoan ngũ (端五).
Như vậy, ngày Đoan ngọ là thời điểm mở đầu những ngày nóng nhất của
tháng nóng nhất trong năm (nên gọi tết Đoan dương). Ngày Đoan ngọ
rất gần với tiết Hạ chí trong nhị thập tứ tiết khí nông lịch, do vậy tết
Đoan ngọ báo hiệu mùa nóng quay về. Ngày trước người Việt Nam xứ kinh kỳ
gọi ngày mồng 1 tháng năm là Đoan nhất, mồng 2 là Đoan
nhị, cho đến ngày mồng 5 là Đoan ngũ [Toan Ánh 2005: 353].
Tết Đoan ngọ Việt Nam có cùng một khởi nguồn với vùng đất Bách Việt
ở Nam Trung Hoa (vào khoảng vùng hạ lưu Dương Tử trở xuống) và Bắc Đông
Dương. Từ ngàn xưa đây vốn là vùng nông nghiệp lúa nước trù phú do các
dân tộc Bách Việt gầy dựng nên. Do nằm dọc hai bên chí tuyến bắc, mùa hè
ở đây oi bức, khó chịu, ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe con người. May
mắn, người nông dân với nghề lúa nước luôn đ̣i hỏi phải quan sát thời
tiết, cố để tránh tối đa những tác hại của nó và tận dụng hữu hiệu những
lợi thế mà tự nhiên mang lại (xem thêm Trần Ngọc Thêm [2004: 272], nhờ
vậy phong tục tết Đoan ngọ h́nh thành, đánh dấu một cột mốc quan trọng
của chu kỳ tuần hoàn thời tiết. Sách Lễ tết Trung Hoa (Chinese
Festivals, N.Y. 1952) của W. Eberhard có viết “Đoan ngọ là tết của
phương Nam, tết cầu may, tết của sự sống” (Double fifth is a Southern
festival, lucky festival or festival of the living” ). Tác giả Trung Hoa
tên là Nghê Nông Thủy [2011] cũng khẳng định “Tết Đoan ngọ là cống hiến
to lớn của người Bách Việt đối với văn hóa Trung Hoa” [Hội Dân tục học
Trung Quốc 2011]. V́ ngày Đoan ngọ mở đầu quăng thời tiết nắng nóng oi
bức, dân chúng nhiều người bị bệnh, cho nên dân chúng đă tổ chức cúng
vái để cầu được b́nh yên, tránh các trắc trở do thời tiết gây ra [Toan
Ánh 2005: 353].
Thời cổ đại, người Việt Nam dùng lịch kiến Tư, do vậy tháng mở đầu
trong năm là tháng 11 âm lịch. Theo cách tính này, ngày 5 tháng năm rơi
vào thời điểm nửa năm, do vậy dân gian Việt Nam rất chuộng tên gọi tết
Nửa năm.
Đến đầu Công nguyên, Việt Nam tiếp nhận văn hóa Trung Hoa, đặc biệt
là ḍng văn hóa quan phương gắn liền với hệ tư tưởng Nho gia và hệ thống
chữ Hán. Sự du nhập này góp phần h́nh thành diện mạo văn hóa cổ điển của
Việt Nam trong nhiều thời ḱ lịch sử sau đó. Tết Đoan ngọ được gắn vào
khung lư luận chính thống cùng các ư nghĩa, chức năng mang tính quan
phương khác, đặc biệt là các quan niệm “tưởng nhớ Khuất Nguyên”, “tưởng
nhớ Ngũ Tử Tư”, “tưởng nhớ Trần Luận và Nguyễn Thiệu” v.v. Dù vậy, đại
đa số người Việt Nam không biết đến các nhân vật này, và do vậy các hoạt
động diễn ra trong ngày tết Đoan ngọ không liên quan đến họ.
Bắt nguồn từ trí tuệ của truyền thống nông nghiệp phương Nam, tết
Đoan ngọ được người Trung Hoa phương Bắc tiếp nhận và hưởng ứng, về sau
tại nhiều địa phương khác nhau lại gắn vào nhiều điển tích khác nhau từ
Ngũ Tử Tư, Việt vương Câu Tiễn, Khuất Nguyên đến Tào Nga, Trần Lâm v.v.([2])
để khoác lên ngày tết này những chức năng xă hội theo phong cách riêng
rất Trung Hoa. Tết Đoan ngọ xưa do nhân dân lao động cùng nhau sáng tạo,
cùng hưởng thành quả và không ai làm tác giả cụ thể. So với người Trung
Quốc, người Việt Nam thiên hẳn về lối sống dân gian, tư duy tổng hợp –
trừu tượng và truyền thống văn hóa truyền miệng đă giúp ǵn giữ phong
tục ngày tết này mà không cần thiết gắn liền với các nhân vật lịch sử.
Ngược lại, Trung Quốc lớn, dân số đông, dân tộc đa dạng, việc chính thức
hóa một phong tục dân gian bằng thao tác gắn chúng với các nhân vật lịch
sử có chức năng tích cực, nhất là trong chức năng đại đoàn kết dân tộc.
Ăn bánh ú và đua thuyền rồng là hai tập tục phổ biến nhất trong tết Đoan
ngọ ở Trung Quốc
2. Phong tục Tết Đoan ngọ Việt Nam và Trung Hoa nh́n theo chức
năng
Tết Đoan ngọ Đông Á (Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản([3]),
Việt Nam) mang trong ḿnh chức năng quan trọng nhất, từ việc đáp ứng nhu
cầu thực tế là được nghỉ ngơi, giải nhiệt, bảo vệ sức khỏe, ăn uống
(chức năng thực tế); củng cố đoàn kết ḍng tộc, cộng đồng, tạo dựng ư
thức dân tộc (chức năng tâm lư xă hội); và cả gắn kết các thế hệ xuyên
không gian và thời gian (chức năng tâm linh). Phong tục tết Đoan ngọ ở
Việt Nam và Trung Hoa đều thể hiện phong phú và sâu sắc ở cả ba chức
năng ấy, song sự thể hiện ở mỗi nơi mỗi khác.
a. Chức năng đáp ứng nhu cầu thực tế
Việt Nam là xứ nóng, và do vậy văn hóa truyền thống Việt Nam thuộc kiểu
văn hóa chống nóng. Là chủ nhân của nền văn hóa sông nước, người Việt
Nam tận dụng nước và môi trường nước để sinh tồn. Việc kết hợp hai thứ
ấy đă tạo ra truyền thống văn hóa canh nông lúa nước thuần túy ở Việt
Nam.
Văn hóa chống nóng ở Việt Nam diễn ra liên tục trong năm. Hơn ai hết,
người Việt Nam cảm thụ được cái nóng và hiểu tác động của sức nóng. Qua
hàng ngàn năm lịch sử, người Việt Nam đă quen với cái nóng, cũng v́ thế
họ rất linh hoạt trong cách thức giải trừ tác hại của nhiệt. Để chống
nóng th́ cần đến nước. Nước hiện diện trong mọi phương diện của đời sống
người Việt, từ truyền thuyết-thần thoại (Sơn Tinh-Thủy Tinh, Chử Đồng
Tử, Lạc Long Quân-Âu Cơ..), ngôn ngữ, văn học đến tín ngưỡng (thờ Bà
Thủy), kinh tế (lúa nước, chợ nổi, dân thương hồ v.v.). Trong phong tuc
tết Đoan ngọ, các hoạt động chống nóng và tận dụng nước thể hiện sống
động nhất.
Cũng giống như Việt Nam, người Trung Hoa cũng chống nóng. Lănh thổ
Trung Hoa rộng lớn phân làm 3 vùng lớn là miền bắc, miền nam và miền tây
th́ có đến hai vùng miền bắc miền nam ăn tết Đoan ngọ. Trong hai vùng
nam bắc th́ phong tục ở miền nam sông nước điển h́nh hơn, chứ đựng nhiều
di sản văn hóa Bách Việt hơn. Tựu chung, tiêu độc do cái nóng tạo
ra và đua thuyền rồng trên sông để tế bái thủy thần, tiễn ôn thần
là hai dạng hoạt động chính trong ngày [W. Eberhard 1968], do vậy hầu
hết các nghi lễ, hoạt động đều xoay quanh hai hạng mục ấy.
Ở Việt Nam, ư nghĩa lớn nhất và sâu sắc nhất của phong tục tết Đoan
ngọ là Giết sâu bọ. Theo quan niệm xưa, trong bộ phận tiêu hóa
thường có sâu bọ (giun, sán kư sinh), nếu không trừ đi sẽ sinh sản ngày
một nhiều hơn và gây tai hại. Thế nhưng nhưng giết sâu bọ không phải là
chuyện dễ dàng và không phải vào bất cứ thời gian nào. Chỉ đến ngày mồng
5 tháng năm chúng mới ngoi lên, là cơ hội quan trọng để trừ khử. Người
ta dùng thức ăn để giết sâu bọ, nhất là rượu nếp (giết giun sán) và hoa
quả (tăng cường vitamin). Mọi người sáng ngủ dậy không được đặt chân
xuống đất, phải súc miệng 3 lần cho sạch, tiếp đó ăn một quả trứng vịt
luộc, rồi bước chân ra khỏi giường, ăn một bát rượu nếp cho sâu bọ say,
ăn tiếp trái cây cho sâu bọ chết. Các gia đ́nh truyền thống thường phải
ăn ít nhất một bát rượu nếp, một bát thạch quả, rồi đến trái cây tươi
như mận, muỗm, sấu, đào, roi.. Có nơi uống một ly rượu có pha một ít tam
thần đơn để tiêu độc. Trẻ con được bôi một lớp bột thần sa, hùng hoàng
hay chu sa vào hai bên thái dương hoặc ở bụng. Một số nơi c̣n cho trẻ
con uống một ít thần sa. Nhiều gia đ́nh pha hùng hoàng với rượu để uống.
Ngày nay, nhiều gia đ́nh Việt Nam ở nông thôn lẫn thành thị vẫn ăn cơm
rượu, ăn trái cây và dành nhiều thời gian nghỉ ngơi. Trong văn hóa Việt
Nam, chính tết Đoan ngọ mới đích thực là tết Hàn thực v́ thức ăn (cơm
rượu, trái cây) tuyệt đại đa số là thức ăn nguội, mang tính hàn để chống
nóng. Trong khi đó ngày 3 tháng ba ở Việt Nam vốn dĩ là tết Ca hát
(tương tự như phong tục Tết lồng tồng của các dân tộc Tày, Nùng ở
Việt Nam và Choang, Đồng ở Quảng Tây Trung Quốc), sau dần biến thành tết
ăn bánh trôi – bánh chay chứ thực sự không không phải là tết ăn thức ăn
nguội (Hàn thực) [Nguyễn Ngọc Thơ 2008].
Ở Trung Hoa, chức năng tiêu độc chống nhiệt ngày Đoan ngọ rất được
coi trọng. Ngoài bùa ngũ sắc, trẻ con c̣n đeo túi lá ngải may bằng vải
đỏ trước ngực để hít thở mùi dịu mát của chúng mà trừ nhiệt. Người lớn
dùng chu sa hay hùng hoàng bôi lên trán trẻ con chữ Vương (王)
để “xua đuổi tà ma”. Người lớn trang trọng pha những ấm trà lá ngải dùng
cho cả nhà, một số nơi uống rượu nếp pha bột hùng hoàng để bảo vệ sức
khỏe.
Thứ hai là tục đi hái thuốc ngày 5 tháng năm, có ở cả Việt
Nam và Trung Hoa, được cho là bắt nguồn từ vùng Hoa Nam (Bách Việt cổ).
Mỗi loại thảo mộc đều có dược tính riêng, và giờ Ngọ ngày Đoan dương
được tin là thời khắc dược tính đạt mức cao nhất. Các loại thảo mộc được
hái nhiều nhất trong ngày này là trà, ngăi cứu, đinh lăng, rau ng̣, lá
mua, ích mẫu, tử tô, kinh giới, lá bưởi, lá cam, tỏi, gừng, trầu không,
bồ công anh, sen, vối, lạc tiên v.v., tương tự nhau ở cả Việt Nam và
Trung Hoa. Các loại lá được mang phơi khô, mỗi khi người nhà bị bệnh
người ta mang đi sắc thuốc mà dùng. Nhiều làng ở ven rừng, cư dân tổ
chức đi hái lá rất đông vui, cứ như một ngày hội lớn.
Thứ ba là treo ngăi cứu bảo vệ sức khỏe. Cây ngăi cứu có dược
tính khu phong giải độc, người bị nhức đầu có thể lấy lá ngăi cứu đắp
hai bên thái dương sẽ khỏi bệnh. Ngày Đoan ngọ, người ta lấy lá ngăi cứu
treo trước cửa nhà tránh đau ốm và để trừ tà. Dân gian canh từng năm
thuộc địa chi ǵ th́ bó ngăi cứu thành h́nh dáng của con vật cầm tinh
năm ấy, chẳng hạn năm Tư thắt h́nh con chuột, năm Sửu thắt h́nh con trâu
v.v.. Xét ở khía cạnh khoa học, ngày 5 tháng năm người ta ăn nhiều rượu
nếp và trái cây có thể sẽ cảm thấy khó chịu, mùi lá ngăi cứu treo trên
cửa nhà sẽ giúp cảm thấy dễ chịu hơn, đồng thời c̣n giúp làm giảm bớt
sức nóng của ngày Đoan dương. Bó ngăi cứu được treo rất lâu sau ngày
Đoan ngọ v́ công dụng thực tế ấy của nó. Ở Trung Quốc, ngoài ngăi cứu
c̣n có lá chương phổ chương phổ, cành đào.
Thứ tư là tục Tắm nước lá mùi, nhiều nhất là ở các làng quê
nông thôn Việt Nam và Trung Hoa. Người ta đun các loại lá mùi, lá tía
tô, kinh giới, lá sả, lá tre vào chung một nồi, rồi mọi người già trẻ
thay nhau múc tắm. Mùa nóng lại tắm nước nóng có lá thơm, mồ hôi toát
ra, cảm giác khoan khoái dễ chịu, thơm tho làm cho con người phấn chấn
và có lẽ cũng trị được cảm mạo, bởi nước lá mùi là vị thuốc thảo dược. Ở
Trung Hoa, người ta nấu nước lá ngải, lá chương phổ hoặc lá hoa lan để
tắm mát, và v́ vậy tết Đoan ngọ c̣n gọi là Ngải tiết hoặc Dục lan tiết.
Cùng với tục tắm nước lá mùi là thói quen tắm sông giải nhiệt.
Tập tục này phổ biến ở Việt Nam hơn là Trung Hoa. Nhiều địa phương ở ven
sông, ven biển đi tắm sông, tắm biển đúng giờ ngọ, gọi là Tắm mồng 5.
Không ít cư dân đồng bằng sông Cửu Long tin rằng nước sông Mê-kông trong
ngày Đoan dương trở nên “linh thiêng”, có thể giúp “tẩy rửa bệnh tật”,
song cái chính vẫn là để được vui chơi, gặp gỡ bạn bè và giải nhiệt. Tại
Trung Hoa, thay v́ đi tắm sông, họ tổ chức hội đua thuyền rồng, vừa đạt
mục đích giải nhiệt vừa thực hiện chức năng tâm linh là tế bái thủy thần
hay giải cứu các nhân vật lịch sử như Khuất Nguyên, Ngũ Tử Tư, Tào Nga
(sẽ bàn ở phần sau).
Có thể thấy, nh́n dưới chức năng thực tế, người Việt Nam lẫn Trung
Hoa đều có thói quen không khác nhau, đều tận dụng tự nhiên để tiêu độc
trừ phong, hạn chế những tác hại của nhiệt trong chuỗi ngày Hạ chí.
b. Chức năng tâm lư – xă hội (chức năng giáo dục cộng đồng)
Một số nhà xă hội học người Pháp cho rằng con người luôn sắp xếp tốt hai
nhịp làm việc và nghỉ ngơi trong đời. Cùng với tết Xuân, Tết Đoan ngọ là
một dịp nghỉ ngơi của nông dân Việt Nam sau khi thu hoạch xong các vụ
mùa xuân-hè([4]).
Xét theo chức năng tâm lư xă hội, các hoạt động tết Đoan ngọ ở Việt Nam
tập trung vào hai nhóm chính, gồm cúng bái tổ tiên – ăn uống và
đi sêu tết nhà bố mẹ vợ tương lai, trong khi ở Trung Hoa ngoài
cúng bái tổ tiên – ăn uống là các ư nghĩa rèn luyện kỹ năng nội
trợ và củng cố ư thức gắn kết dân tộc.
Theo quy luật âm dương, dương thịnh th́ “b́nh dương kiện âm”. Tết
Đoan Ngọ giữa mùa hè nóng bức (dương tính), các tục lệ dân gian đặt
trong tâm ở tố chất t́nh cảm gia đ́nh – xă hội (âm tính). Ở Việt Nam,
các hoạt động tiêu biểu nhất có thể kể đến là tục cúng bái tổ tiên, đi
sêu nhà nhạc gia, thăm viếng thầy cô giáo cũ, thầy lang, hay thăm viếng
lẫn nhau.
Đầu tiên là tục Cúng bái trong tết Đoan ngọ. Các gia đ́nh
chuẩn bị mâm thức ăn nguội (bánh chưng, trái cây, thạch quả v.v.) trước
để cúng bái tổ tiên sau ăn để bảo vệ sức khỏe. Đối tược đượng cúng bái
là vong linh tổ tiên, các vong hồn cô độc và Thổ công. Miền Bắc Việt Nam
thường phải có quả dưa hấu to bên bàn cúng lễ (v́ đang mùa dưa hấu). Các
làng xă xưa tổ chức cúng lễ tại các đ́nh, đền, miếu mạo. Các thôn xóm
nhỏ hơn tổ chức cúng ở các miếu tự. Sau cúng lễ, người Việt Nam tổ chức
ăn uống chứ không mang vứt xuống sông như ở phong tục Trung Quốc [Toan
Ánh 2005: 355]. Dân cư miền Trung khu vực Huế thường nấu xôi ăn với thịt
vịt (tính hàn, vị ngọt mát)([5]),
c̣n người Đà Nẵng đến Quảng Ngăi cho trẻ con vào vườn hái quả ăn, một số
ít gia đ́nh nấu xôi chè cúng lễ [tư liệu đồng nghiệp cung cấp 2011]. Cư
dân nông thôn miền Nam thường đúc bánh lọt, nấu chè trôi nước và xôi gấc
trước cúng tổ tiên, sau ăn uống quây quần. Bài học đạo Hiếu ấy được
truyền tụng suốt chiều dài lịch sử và được các thế hệ tiếp nối theo. Các
gia đ́nh hành nghề Đông y c̣n tổ chức cúng Thánh sư.
Thứ hai là tục đi sêu. Những chàng trai đă hỏi vợ nhưng chưa
cưới phải đi sêu nhà bố mẹ vợ. Lễ vật đi sêu thường là gạo chiêm mới,
đậu xanh, cặp ngỗng, cặp chim ngói, vài quả dưa hấu.. hết thảy đều là
sản phẩm canh nông đang vào mùa. T́nh cảm là chính, do vậy “quư hồ tinh
bất quư hồ đa”. Gia đ́nh nhà gái nhận lễ, song lúc nào cũng hoàn lại một
phần để thể hiện ư nghĩa thông gia hữu hảo. Những chàng rể đă cưới vợ
rồi th́ hết lệ sêu, song thông thường người ta vẫn tổ chức về nhà vợ
viếng ông bà trong ngày [Toan Ánh 2005: 362].
Cùng với tục đi sêu là tục Thăm thầy cô giáo cũ. Trong những
ngôi làng truyền thống Việt Nam xưa các ông đồ dạy học thường không lấy
tiền công, chính v́ thế học tṛ thư sinh thường đi tạ ơn thầy cô vào các
ngày tết Xuân, tết Đoan ngọ hay tết Trùng cửu. Lễ thường là chút đường
bánh, hoa quả tùy vào tấm ḷng của gia đ́nh học tṛ. Học tṛ cũ làm nên
danh vọng cũng không quên ơn thầy cô cũ mà về viếng vào dịp này. Tết
Đoan ngọ c̣n là dịp Viếng ông lang. Các bệnh nhân đă chữa khỏi
cũng không quên ơn các thầy lang nên sắm lễ đi viếng các thầy lang. Mở
rộng hơn nữa là tục Thăm viếng ân nhân. Những người chịu ơn người
khác, kẻ dưới trong làng có tục đi quà biếu người ban ân hay những ai đă
giúp ḿnh để tỏ ḷng biết ơn. Tết Đoan ngọ ngày nay, qua mọi biến đổi
của thời cuộc vẫn tồn tại trong nhân dân với ư nghĩa thiết thực và
thiêng liêng của nó. Dẫu qua bao biến đổi về thời cuộc, song tết Đoan
Ngọ vẫn tồn tại trong ḷng người dân đất Việt như một phong tục đẹp, với
ư nghĩa thiêng liêng về đạo lư làm người.
Trong văn hóa Trung Hoa, tục cúng tổ tiên cũng rất được coi
trọng. Lễ vật cúng bái có thể phong phú, song không thể thiếu bánh ú (粽子tung
tử)([6]).
Bên cạnh sắm sửa mâm cỗ cúng tổ tiên, người ta c̣n chuẩn bị mâm cúng ôn
thần (thần dịch bệnh), quỷ thần ngoài đường, ngoài dầu ngơ. Lễ vật cúng
tế tổ tiên th́ được ăn, song mâm cúng ôn thần th́ phải thả xuống sông
sau khi cúng tế([7]).
Song song với truyền thống uống nước nhớ nguồn ấy, người Trung Hoa
đặc biệt coi trọng chức năng rèn luyện tài năng nội trợ của nữ
giới, chính v́ thế ngày Đoan ngọ c̣n là ngày Tết nữ nhi. Phụ nữ tự tay
làm bánh ú (người lớn dạy trẻ em gái cùng làm), làm mâm cỗ, treo ngải
cứu (chương phổ, anh đào), chăm sóc trẻ con (vệ sinh, bôi hùng hoàng
v.v.). Ở một chừng mực nhất định, trong phạm vi không gian gia đ́nh, tết
Đoan ngọ là dịp khẳng định vai tṛ nữ giới trong việc chăm sóc ǵn giữ
mái ấm gia đ́nh. Có thể thấy, phong tục tết Đoan ngọ trải rộng ở hai
phạm vi không gian là gia đ́nh-gia tộc và xă hội. Nh́n theo chức năng
luận, sự phân công nữ giới chăm lo các hoạt động trong gia đ́nh gia tộc
là phụ hợp. Tết Đoan ngọ trước khi mở rộng thành tết cộng đồng đă là
ngày tết gia đ́nh.
Ở phạm vi không gian xă hội, chức năng chính được thể hiện là
củng cố ư thức nguồn cội (认同意识ư
thức nhận đồng). Hoạt động tiêu biểu nhất là đua thuyền rồng. Người
Trung Hoa truyền tụng nhau rằng đua thuyền rồng ngày Đoan ngọ là để
tưởng nhớ các nhân vật lịch sử. Vùng hồ Động Đ́nh th́ tưởng nhớ Khuất
Nguyên, vùng Gia Hưng (Giang Tô) th́ tưởng nhớ Ngũ Tử Tư (trung thần
nước Ngô thời Xuân Thu - Chiến Quốc), trong khi vùng Thiệu Hưng (Chiết
Giang) lại hướng đến hiếu nữ Tào Nga([8])
v.v. Đằng sau ư nghĩa kỷ niệm các nhân vật lịch sử đó là mục tiêu đánh
thức ư thức nguồn cội trong cộng đồng. Tôn Dật Tiên từng nói, ở Trung
Quốc không có chủ nghĩa quốc tộc, mà chỉ có chủ nghĩa tông tộc. Chức
năng khơi dậy ư thức nguồn cội ấy của ngày tết Đoan ngọ hoàn toàn mang ư
nghĩa sâu sắc trong bối cảnh là quốc gia quá rộng lớn, quan hệ tộc người
phức tạp ở Trung Hoa.
Ngoài ra, trong ngày Đoan ngọ, một số địa phương tổ chức đúc kiếm
đồng v́ tin rằng kiếm sẽ được “linh thiêng” hơn – một nét văn hóa có từ
thời Ngô-Việt giao tranh, tổ chức thi đấu vật, thi ném đá, thi bắn
cung..[Lưu Hiểu Phong 2010] với mục tiêu cụ thể là vừa rèn luyện sức
khỏe thể chất để đối phó với tác hại của tự nhiên, vừa củng cố quan hệ
cộng đồng xă hội.
c. Tết Đoan ngọ nh́n từ chức năng tâm linh
Ngoài hai chức năng trên, phong tục tết Đoan ngọ ở Việt Nam và Trung
Hoa c̣n thể hiện chức năng tâm linh, một chức năng phái sinh được cho là
sự nối dài của hai chức năng trước.
Tục cúng tế tổ tiên (đă bàn) ít nhiều đề cập đến sự giao ḥa các thế hệ
xuyên không gian và thời gian dù ư nghĩa của nó nằm ở đạo Hiếu và truyền
thống gia đ́nh. Theo niềm tin dân gian Việt Nam và Trung Hoa, do ngày
mồng 5 tháng năm thời tiết nóng, dân gian nghỉ ngơi quây quần, do đó
người ta tin rằng tổ tiên cùng quay về quây quần cùng con cháu. Chính v́
thế Sự gắn kết siêu thời gian và không gian ấy là một phần quan trọng
không thể thiếu trong ngày Đoan ngọ.
Song song với phong tục hướng đến tổ tiên và hoạt động trừ ma đuổi
quỷ. Người xưa tin rằng lúc trời nóng bức cũng là lúc ma quỷ lộng
hành, không ngừng gieo rắc tai ương, bệnh tật. Người Việt Nam và người
Trung Hoa có những cách thức khác nhau để trừ ma đuổi quỷ.
Theo dân gian Việt Nam, trẻ em là đối tượng dễ bị tổn thương nhất nên
các tập tục thường hướng vào chúng. Trẻ con c̣n được đeo túi bùa ngũ
sắc, dân gian gọi là bùa tua bùa túi được tết bằng vải và chỉ
5 màu (đen, đỏ, xanh, trắng, vàng – ngũ hành) thành h́nh ảnh của các
loại trái cây có ở địa phương. Một túi bùa thường có: (1) một cục hồng
hoàng có tính chất kỵ rắn rết, đuổi quỷ; (2) một túi hạt mùi h́nh vuông
kỵ gió; (3) một quả ớt màu (xanh, đỏ, vàng); (4) một quả na; (5) một quả
hồng. Trong số các thứ ây, chỉ ngũ sắc để trị tà ma, hồng hoàng trị các
hiểm họa từ các loài động vật có nọc độc([9]),
trái cây ngụ ư diệt trừ sâu bọ. Bên cạnh, dân gian Việt Nam c̣n có tục
Nhuộm móng tay – móng chân trị tà ma. Ở các vùng nông thôn, phụ
nữ và trẻ con có tục nhuộm màu móng tay móng chân. Màu được lấy từ một
loại lá cây ở địa phương, đem giă nhỏ rồi bọc lên đầu ngón tay từ tối
hôm trước. Khi nhuộm móng tay người ta chừa lại ngón trỏ v́ đây là thần
chỉ. Hoạt động này được cho là giúp trừ tà ma, sâu bệnh. Tục này không
có ở Trung Quốc. Tục Khảo cây lấy quả trong dân gian cũng là một
thể hiện sinh động của chiều hướng tín ngưỡng tâm linh ngày Đoan ngọ.
Nhiều cây trồng nhiều năm không quả, người ta cho đó là các loại cây
bướng bỉnh. Người Việt Nam và Trung Hoa xưa tin mỗi cây có một linh hồn,
do vậy cần khảo cây cho ra quả. Ngày Đoan ngọ, một người leo lên cây,
một người đứng dưới gốc. Người dưới gốc vọng lên rằng tại sao cây không
ra quả, nếu mùa sau vẫn không ra quả sẽ chặt cây đi. Người trên cây đóng
vai của cây vái lạy đừng chặt và hứa ra quả. Người dưới cây hỏi sẽ ra
mấy quả, người trên cây trả lời số quả tùy vào sức vóc của cây. Cuối
cùng c̣n phải kể đến tục lên chùa xin ấn. Nhiều gia đ́nh mang áo lụa mới
đến chùa, đ́nh xin ấn son rồi mang về nhà cho trẻ con mặc trong ngày với
ngụ ư dùng sức mạnh thần thánh xua đuổi tà ma hoặc tránh các tác động có
hại của tự nhiên (sức nóng, rắn tấn công v.v.).
Khác với Việt Nam, người Trung Hoa có thiên hướng mượn uy lực của
thần thánh để xua đuổi yêu ma trong nhận thức dân gian. Tựu chung
lại, ư nghĩa tôn giáo tâm linh trong phong tục của họ quy kết thành ba
nhóm chính. Thứ nhất là các nghi thức tế bái thủy thần. Đua thuyền rồng
được cho là một hoạt động gắn với tập tục sùng bái rồng (một dạng thủy
thần), được dân gian khoác lên mục đích tưởng nhớ một nhân vật lịch sử
nào đó. Vùng hồ Động Đ́nh (Hồ Bắc, Hồ Nam) th́ chọn Khuất Nguyên, vùng
vịnh Hàng Châu (Chiết Giang) th́ tế Tào Nga, vùng Gia Hưng (Giang Tô,
Thượng Hải) lại thờ Ngũ Tử Tư. Tất cả họ đều được coi là thủy thần. Các
hoạt động đua thuyền rồng, cúng tế chư thần không nằm ngoài mục đích cầu
mong thủy thần tăng cường trông coi điều ḥa nguồn nước, đảm bảo cho đời
sống sản xuất và sinh hoạt.
Thứ hai là tục tiễn Ôn thần, tức tiễn đưa thần gây bệnh dịch. Khác
với Phúc thần, Thần tài hay Thọ tinh, Ôn thần được tôn xưng thành thần
v́ dân gian lo sợ hiểm họa. Trong các nghi thức ngày Đoan ngọ, dân gian
không quên dành chút thời gian để tiễn Ôn thần lên núi.
Thứ ba là tục dán h́nh ảnh các vị thần uy lực đề trừ ma đuổi quỷ, phổ
biến nhất là Trương Thiên Sư, Chung Quỳ, Quan Công v.v..
Chung Quỳ và Quan Công
Trương Thiên Sư, tức Trương Đạo Lăng, theo Tam Quốc Sử Lược,
là người Đông Hán, tu đạo ở núi Hạc Minh đất Thục. Tương truyền Trương
Thiên Sư có quyền năng diệt trừ ngũ độc. Thời Tống, niềm tin ấy trở nên
phổ biến, dần dà trở nên quen thuộc, hễ đến ngày mồng 5 tháng năm là dán
h́nh Trương Thiên Sư mới ngay cổng ra vào để trừ yêu đuổi quỷ.
Chung Quỳ
钟馗cũng
là một vị thần trấn trạch. Theo Ngô Đô Tuế Thời Kỷ Lệ
吴都岁时纪丽,
dân gian Trung Hoa sớm có tục dán h́nh Chung Qùy ngày tết Đoan ngọ để
trừ yêu ma. Tương truyền vua Đường Minh Hoàng ban ngày nằm mơ gặp yêu
tinh, được một vị thần cứu mạng, vua tỉnh giấc vẽ h́nh vị thần theo trí
nhớ, đặt tên là Chung Qùy, dân theo đó mà tôn thờ.
Quan Công cũng được xem là thần hộ mệnh mùa Đoan ngọ. Danh tiếng Quan
Công thực sự chỉ phổ biến từ thời Đường về sau, nhất là Minh-Thanh,
thường được hiểu là biểu tượng của trung dũng bất khuất. Ấy vậy, dân
gian Trung Hoa, nhất là miền Nam, coi Quan Công là một vị thần hộ mệnh,
thần tài. Đến mồng 5 tháng năm, dân gian dán h́nh Quan Công để bảo vệ
gia trạch, tham gia một số hoạt động tế bái Quan Công ở các miếu tự, do
ngày Đoan ngọ gần trùng với ngày sinh nhật Quan Công 15 tháng 5 âm lịch.
Trương Thiên Sư và Vi Đà bồ tát
Ngoài các vị thần hộ mệnh nói trên, người Trung Hoa c̣n thờ ngôi bồ
tát Vi Đà (韦陀),
nhất là các tín đồ Phật giáo, với hy vọng được nương nhờ công đức chư
Phật mà tránh xa các hiểm họa ngày Đoan ngọ.
3. Đặc trưng văn hóa Việt Nam và Trung Hoa qua phong tục tết Đoan
ngọ
Phong tục tết Đoan ngọ Việt Nam thiên về các chức năng dân gian vốn có,
tức ít bị chi phối mạnh mẽ của văn hóa quan phương cùng các ư nghĩa xă
hội mang tính quy củ. Ở một khía cạnh nào đó, phong tục ấy mang tính
tự phát, gắn liền với tính chất xă hội trục hoành ở Việt Nam.
Chất tự phát và phong cách thuần dân gian trong chức năng đáp ứng nhu
cầu thực tế chống nóng ở Việt Nam thẩm thấu qua việc tận dụng các lợi
thế sẵn có trong tự nhiên để chống tác hại của tự nhiên. Kinh nghiệm ấy
được đúc kết qua hàng ngàn năm lịch sử mà chưa hề có một kinh sách nào
quy chuẩn hóa. Chất tự phác c̣n thể hiện ở đặc trưng đa dạng khu
biệt tính vùng miền, do Việt Nam trải dài 2000 km từ bắc chí nam, trải
qua nhiều loại h́nh khí hậu ẩm ướt và khô hạn khác nhau của đới nhiệt
đới xích đạo. Cho đến hôm nay, hoạt động lễ tết này vẫn hoàn toàn mang
chất tự phát dân gian toàn dân mà không hề có một hoạt động nào mang
tính quan phương được tổ chức.
Ở chức năng tâm lư – xă hội, đạo hiếu và lối sống trọng
t́nh là hai ư nghĩa được chú trọng. Văn hóa Việt Nam tuy lỏng lẻo ở
mối quan hệ ḍng tộc, song đạo hiếu lại phát triển mạnh mẽ ở quy mô gia
đ́nh hạt nhân như một quy luật bù trừ. Công việc xă hội đầu tiên trong
ngày phải là cúng bái tổ tiên. Việc đi sêu của các chàng rể phần nào
phản ánh dấu vết cổ xưa của một xă hội dành cho nữ giới một chỗ đứng
nhất định. Tương tự, tinh thần “uống nước nhớ nguồn” được ǵn giữ và lưu
truyền qua các hoạt động thăm viếng nhau sau một mùa lúa xuân-hè vất vả,
khó nhọc. Các hoạt động xă hội khác (thăm viếng nhau, đền ơn đáp nghĩa)
góp phần làm tăng cường các mối quan hệ xă hội dân dă nơi làng quê cư
trú.
Ở chức năng tâm linh, có lẽ phong tục tết Đoan ngọ ở Việt Nam chia sẻ
nhiều nét tương đồng với các dân tộc Nam Trung Hoa([10]),
Triều Tiên [xem W. Eberhard 1968: 156]. Yếu tố ước vọng sức khỏe, ước
vọng phồn sinh, cầu mưa, cầu thịnh vượng được dân gian gửi gắm vào các
hoạt động kết nối con người với các thế lực siêu nhiên, đầu tiên đó là
cầu mong thần thánh, tổ tiên bảo hộ, sau là tận dụng các phương thức
huyền bí khác nhau để trừ ma đuổi quỷ. Tuy nhiên, người Việt Nam không
“quan phương hóa” phong tục của ḿnh bằng các quan niệm tưởng nhớ bất ḱ
nhân vật lịch sử nào, do vậy các hoạt động trong ngày chỉ đơn thuần là
giao tế giữa con người với con người chứ không nâng thành mục tiêu duy
tŕ và tăng cường ư thức nguồn cội như trong văn hóa Trung Hoa.
Trong khi đó, cũng bắt đầu từ chức năng đáp ứng nhu cầu thực tế là
chống nóng, người Trung Hoa nâng lên thành phong tục của hai phạm vi
không gian gia đ́nh-gia tộc và quốc gia. Ư nghĩa củng cố truyền thống
gia đ́nh (cấp gia đ́nh-gia tộc) cũng như duy tŕ ư thức nguồn cội
(cấp quốc gia) luôn được đề cao, hoàn toàn phù hợp với bối cảnh thực tế
của xă hội Trung Hoa.
Ở phạm vi gia đ́nh, người Trung Hoa coi trọng trật tự chồng – vợ, coi
trọng sự phân công lao động gia đ́nh – xă hội, do vậy tết Đoan ngọ c̣n
là dịp duy tŕ và củng cố ư thức trách nhiệm của người phụ nữ trong gia
đ́nh. Đây là một thể hiện khá sinh động của đặc trưng tính tôn ti
trong văn hóa Trung Hoa, nó xuất phát từ nền văn hóa trục hoành trọng
trật tự. Trong khi các nghi thức ở gia đ́nh dành cho nữ giới th́ nam
giới tham gia các hoạt động xă hội (đua thuyền rồng, tế bái thủy thần,
đấu vật..). Chức năng nhắm vào xă hội ở đây không phải là sự nối dài của
ư nghĩa củng cố truyền thống gia đ́nh thông qua các phong tục tết Đoan
ngọ, mà là nấc thang thứ hai của tổ chức xă hội kiểu Trung Hoa: sau
gia là quốc. Trong ngày Đoan ngọ, người Trung Hoa không có lệ
đi sêu, cũng không có tục thăm viếng thầy cô hay ân nhân, tức không đặt
mục tiêu ở việc củng cố quan hệ xă hội – dân sinh. Các hoạt động xă hội
được tổ chức trên thực tế tuy có mục tiêu tạo không gian giao tiếp xă
hội, song đằng sau nó là mục tiêu đoàn kết toàn dân và ư thức nguồn cội.
Một khi tất cả người Trung Hoa ăn tết Đoan ngọ tưởng nhớ Khuất Nguyên,
Ngũ Tử Tư hay Tào Nga th́ vô h́nh chung họ gặp nhau ở một tâm điểm:
chung một nguồn cội. Có thể thấy, việc mượn hoạt động tín ngưỡng – tâm
linh hay một phát minh văn hóa để góp phần giáo dục xă hội vốn không
phải là mới mẻ ở Trung Hoa. Ngoài tết Đoan ngọ, ngày tết Hàn thực (3
tháng ba) được gắn với nhân vật Giới Tử Thôi, ngày tết Ngâu 7 tháng bảy
gắn với tích Ngưu Lang – Chức Nữ, Hà đồ - Lạc thư trong Dịch học gắn với
Phục Hy, truyền thống chợ búa và y học gắn với Thần Nông, nghề mộc gắn
với Lỗ Ban v.v., người Trung Hoa muốn mượn các h́nh tượng dân gian để
giáo dục các ư nghĩa quan phương, chính thống. Trong hội thảo phong tục
tết Đoan ngọ Trung Hoa năm 2011 (tại Gia Hưng), nhiều tác giả Trung Hoa
kêu gọi tăng cường ư nghĩa giáo dục ư thức cộng đồng thông qua tết Đoan
ngọ, biến ngày tết này thành Tết yêu nước, Tết vệ sinh, Tết Thể thao
cộng đồng của họ. Sự vận động ấy hoàn toàn có cơ sở khi mà các hoạt động
trong ngày tết Đoan ngọ ở Trung Hoa chuyển tải thông điệp giáo dục toàn
dân vẫn được thực hiện trong suốt mấy trăm năm qua.
Trong xă hội hiện đại, tri thức xă hội không ngừng tăng lên, thiết
nghĩa chức năng tâm linh sẽ giảm dần và mất đi. Thời tiết vẫn cứ nóng,
thậm chí là nóng hơn, và do vậy ngày Đoan ngọ sẽ vẫn tồn tại, người Việt
Nam và người Trung Hoa vẫn tiếp tục chống nóng, song để ngày Đoan ngọ
thực sự là một ngày tết văn hóa, ư nghĩa xă hội của nó phải được chú
trọng. Chất dân dă có phần thiếu hệ thống của phong tục tết Đoan ngọ
Việt Nam cần tăng cường các ư nghĩa giáo dục quan phương hơn. Sự gieo
mầm và nảy nở tự nhiên ư thức giống ṇi và tinh thần đoàn kết toàn dân
trong các phong tục lễ hội như tết Đoan ngọ là phương thức căn cơ nhất,
dấu ấn của nó lưu lại vĩnh viễn và tiềm ẩn trong tâm thức mỗi con người,
giống như nhận định của nhà triết học Pháp Edouard Herriot “Văn hóa là
cái c̣n lại khi ta đă quên đi tất cả, là cái c̣n thiếu khi người ta đă
học tất cả”. Trong khi đó, người Trung Hoa cần bổ sung thêm các mục tiêu
củng cố mối quan hệ giao tiếp xă hội, tăng cường ư thức b́nh đẳng giới
song hành với việc duy tŕ các hoạt động vay mượn h́nh ảnh các nhân vật
lịch sử để giáo dục ư thức nguồn cội vốn là thế mạnh của họ.
Kết luận
Phong
tục tết Đoan ngọ ở Việt Nam và Trung Hoa do dân gian nông nghiệp sản
sinh ra qua quá tŕnh sống và ứng xử với môi trường tự nhiên. Do vậy, sự
ra đời của phong tục tết Đoan ngọ trước hết là đáp ứng nhu cầu chống
nóng để bảo vệ sức khỏe. Tết Đoan ngọ là một phong tục “b́nh dương kiện
âm”, “dĩ hàn khứ nhiệt”, “dùng thủy trị hỏa” mang tính chất tự phác gắn
liền với văn hóa dân gian. Theo thời gian, phong tục này gắn thêm các ư
nghĩa giáo dục đạo đức xă hội và quan niệm tâm linh, biến tết Đoan ngọ
thành một phong tục văn hóa thể hiện sâu sắc các đặc trưng cơ bản của
tính cách văn hóa dân tộc.
Ở văn hóa Việt Nam, xă hội nông nghiệp nông thôn và nếp sống tập thể
làng xă đă đúc khuôn quan niệm nhân sinh, lối sống và tư duy, do vậy
phong tục tết Đoan ngọ gắn liền với chất trọng t́nh, trọng quan hệ dân
sinh – xă hội, mang tính dân dă, tự phát và . Tết Đoan ngọ đơn giản là
dịp sinh hoạt cộng đồng, là lúc thiết lập hay củng cố các mối quan hệ xă
hội theo chiều ngang, hoàn toàn phù hợp với kiểu xă hội trục hoành
(horizontal culture) truyền thống của Việt Nam.
Trong văn hóa Trung Hoa, ngoài chức năng chống nóng bảo vệ sức khỏe,
phong tục tết Đoan ngọ c̣n chuyển tải thầm lặng thông điệp giáo dục ư
thức nguồn cội, ư thức hướng nội ở quy mô toàn dân tộc, và do vậy các
phong tục thể hiện tính chất quan phương, có hệ thống, phản ánh một xă
hội trục tung (vertical culture) ở Trung Hoa, một đất nước rộng lớn,
dân số đông đúc song xă hội rất coi trọng tính quy củ, tôn ti, trật tự
(bao gồm cả trật tự nam-nữ trong gia đ́nh lẫn trật tự xă hội).
Ở một chừng mực nhất định, chúng ta có thể thấy phong tục tết Đoan
ngọ ở Việt Nam mang chiều hướng mở theo chiều ngang, trong khi phong tục
ấy ở Trung Quốc có xu hướng hội tụ hướng tâm theo chiều dọc. Sự tương
tác, kết hợp và bổ sung cho nhau của cả hai khuynh hướng ấy có thể sẽ là
một mô h́nh lư tưởng cho tương lai ở cả Việt Nam và Trung Hoa.
Reference
1.
Toan Ánh 2005: Tín ngưỡng Việt Nam (quyển hạ), NXB Trẻ.
2.
Nguyễn Châu: “Tết Đoan ngọ: Mồng 5 tháng năm âm lịch”,
http://ttvnol.com/f_533/752941
3.
Mai Viên Đoàn Triển 2008: An Nam phong tục sách, NXB Hà Nội.
4.
Nguyễn Ngọc Thơ 2008: “Lại bàn về nguồn gốc tết Đoan ngọ”,
www.vanhoahoc.edu.vn
5.
Nguyễn Ngọc Thơ 2008: “Từ tết Lồng tồng (Tam nguyệt tam) của người
Choang ở Trung Quốc bàn về tết 3 tháng ba ở Việt Nam”. Hội thảo quốc
tế Việt Nam học lần 3, 2008, Hà Nội.
6.
Phan Kế Bính 1915: Việt Nam phong tục, NXB Văn học tái bản năm
2005
7.
Trần Ngọc Thêm 2004: T́m về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB Tp. Hồ
Chí Minh
8.
Vũ Ngọc Khánh 2008: Lễ hội Việt Nam, NXB Thanh Niên.
9.
www.cinet.vn: “Tết Đoan ngọ - nét sinh hoạt văn hóa dân gian phương
Đông”,
http://www.cinet.vn/upLoadFile/HTML/11_36_17_2852009/tetdoanngo.htm
10.
Brandly Womack 2006: China and Vietnam: the politics of asymmetry,
Cambridge University Press
11.
Leon E. Stever 1974: The cultural Ecology of Chinese Civilization,
New York: Pica Press.
12.
Lung Ki-Sun 2002: The Chinese national characters from nationhood to
individuality, An East Gate Book.
13.
Wolfram Eberhar 1968: The local culture of South and East China,
translated from German by Alide Eberhard, Leiden: E.J. Brill.
14.
Cao Bính Trung 2004: “Khởi nguồn và ư nghĩa tết Đoan ngọ”, Nghiên cứu
dân tộc, kỳ 5: 23-26 (高丙中
2004:《端午节的起源与意义》,民族研究,第5期:23-26).
15.
Cát Xuyên Chân Tư 2011: “Phong tục tết Đoan ngọ ở Nhật Bản thời cổ đại”,
Kỷ yếu hội nghị Phong tục tết Đoan ngọ - Gia Hưng 2011, Hội Dân
tục học Trung Quốc - Ủy ban nhân dân tp. Gia Hưng, Chiết Giang (倪农水
2011:“日本古代的端午节风俗考”,
《中国嘉兴2011年端午节风俗研讨会》,中国民俗学会-嘉兴市人民政府).
16.
Cố Vĩ Liệt 2005: Thông luận văn hóa Trung Quốc, NXB Đại học Sư
phạm Hoa Đông (顾伟列
2005:《中国文化通论》,华东师范大学出版社).
17.
Hà Bồi Kim cb. 1991: Văn hóa thuyền rồng Trung Quốc, NXB Tam Hoàn
(何培金主编
1991:《中国龙舟文化》,三环出版社)
18.
Lưu Hiểu Phong 2010: Đoan ngọ, Nhà sách Tam Liên (六晓风
2010:《端午》,三联书店).
19.
Nghê Nông Thủy 2011: “Tết Đoan ngọ là cống hiến to lớn của người Việt cổ
đối với văn hóa Trung Hoa”, Kỷ yếu hội nghị Phong tục tết Đoan ngọ -
Gia Hưng 2011, Hội Dân tục học Trung Quốc - Ủy ban nhân dân tp. Gia
Hưng, Chiết Giang (倪农水
2011:“端午节是古代越人对中国的伟大贡献”,
《中国嘉兴2011年端午节风俗研讨会》,中国民俗学会-嘉兴市人民政府).
20.
Phùng Minh Dương 2006: Việt ca: Lĩnh Nam bản thổ ca nhạc văn hóa luận,
NXB Nhân dân Quảng Đông (冯明洋
2006:《越歌:岭南本土歌乐文化论》,
广东人民出版社).
21.
Trần Dũng Tân 2005: Bài ca thuyền rồng, NXB Nhân dân Quảng Đông (陈勇新
2005:《龙舟歌》,广东人民出版社).
22.
Văn Sùng Nhất 1990: Trung Quốc cổ văn hóa, Công ty Thư đồ Đông
Đại phát hành (文崇一
1990:《中国古文化》,东大图书公司发行).
([1]) Vùng văn hóa Hoa Nam và Bắc Đông Dương từng có tết Ca hát (tết
Lồng tồng, Tam nguyệt tam), sau chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa nên
chuyển thành tết Hàn thực.
([2]) người Trung Hoa gắn nguồn gốc tết Đoan ngọ với nhiều nhân vật lịch
sử như Câu Tiễn người nước Việt, Ngũ Tử Tư người nước Sở về đầu quân
nước Ngô, Khuất Nguyên người nước Sở, Tào Nga người gốc Việt vùng Dương
Tử, Trần Lâm người vùng Quảng Tây v.v.. C̣n quá sớm để nói Sở - Việt
đồng nguyên, song Cảnh Sở vẫn là cư dân sông nước phương Nam. Tương tự
như vậy, tết Đoan ngọ ở Trung Hoa được tổ chức đặc biệt long trọng ở
vùng sông nước Dương Tử và Hoa Nam, ứng với vùng văn hóa Bách Việt cổ.
([3]) Tết Đoan ngọ từng xuất hiện trong văn hóa Nhật Bản vào khoảng thế
kỷ VIII, IX nhưng sau đó biến mất [Cát Xuyên Chân Tư 2011].
([4]) Dân gian không nghỉ ngơi vào tết Trung thu, mà đây là tết dành cho
trẻ con
([5])Có thể thấy tục ăn thịt vịt, thịt ngỗng hay chim ngói ở Việt Nam
khá tương tương đồng với tục ăn canh thịt cóc hay thịt chim cú (diều hâu)
tại một số vùng ở Nam Trung Hoa [W. Eberhard 1968: 153-155].
([6]) Theo W. Eberhard [1968], chiếc bánh ú ngày Đoan ngọ bắt nguồn từ
tập tục của cư dân nhóm Thái, một trong hai nhóm chính của Bách Việt cổ.
Bánh ú được gọi là bánh tung tử
粽子/zong
zi/, đồng âm với từ tông tử
宗子
tức tổ tiên, ḍng họ. Ngày nay, vùng Gia Hưng
嘉兴
(Chiết Giang) nơi có ngôi tổ miếu thờ Ngũ Tử Tư được coi là quê hương
chiếc bánh ú [tư liệu điền dă 2011].
([7]) Ngày nay người ta không c̣n thả trôi sông nữa v́ phong trào bảo vệ
môi trường.
([8]) Người Đông Hán, rất hiếu thảo. Tương truyền cha là pháp sư bị hại
chết trôi sông, Tào Nga đi t́m 3 ngày liền nhưng không thấy xác, nàng
quyết định cùng trẫm ḿnh xuống sông cùng cha. Hôm ấy là ngày 5 tháng 5.
Vài ngày sau, xác nàng nổi lên trong tư thế ôm chặt xác cha ḿnh, cả hai
tỏa hương thơm ngác. Dân vùng Cối Kê (nay là Thiệu Hưng) dựng miếu thờ,
coi nàng là Nữ thủy thần cai quản nguồn nước cho dân [tư liệu điền dă
2008].
([9]) Gắn liền với tục đeo bùa tua bùa túi là hai câu chuyện dân gian
Việt Nam: (1) Len lén như rắn mồng 5: ngày mồng 5 ít khi gặp rắn.
Ngày ấy loài ḅ sát này len lén đi trốn. Ngày ấy trẻ con đeo túi hồng
hoàng (thư hoàng, realgar, orpiment) kỵ rắn nên chúng thường ẩn trốn.
(2) Sự tích con rắn mối: Thằn lằn cũng sợ hồng hoàng không kém.
Sự tích kể rằng xưa có một người giàu hào phóng, cha mẹ mất, ăn tiêu
thái quá đến tán gia bại sản, phải vay nợ nhiều người nhưng không thể
trả. Chủ nợ đ̣i, anh hẹn lần hẹn lựa, một lần nọ anh ta hẹn ngày mồng 5
tháng năm sẽ trả nợ. Ngày hẹn tới, chủ nợ đến, anh ta đành phải trốn,
rúc vào bụi cây trốn, chủ nợ t́m, anh ta sợ quá chết luôn ở đó, hóa thân
thành con thằn lằn. Ngày thường thằn lằn xuất hiện khắp nơi, song chúng
thường lẩn trốn vào ngày 5 tháng năm. Dân gian có câu “trốn như thằn lằn
mồng năm”.
([10]) Theo W. Eberhard [1968: 153]
th́ một số vùng ở Hoa Bắc coi đây là lễ hội lửa (fire festival).
Post ngày:
10/24/17 |