|
Dị Ứng Với
Chữ Nghĩa
Tạp ghi Huy Phương
Tôi đồng ý với nhiều người đã cho rằng không có ngôn ngữ việt
cộng, ngôn ngữ miền Nam mà chỉ có ngôn ngữ Việt Nam và ngôn ngữ phát
triển và đa dạng hóa theo thời gian. Nhưng là một người sinh ra và
lớn lên, sống ở miền Nam ít nhất là nửa thế kỷ, tôi cảm thấy hụt
hẫng và cảm thấy dị ứng với thứ ngôn ngữ hôm nay, nói rõ là thứ ngôn
ngữ phát sinh ra từ sau ngày đại họa, khi mà việt cộng cai trị toàn
bộ đất Miền Nam
Không phải dị ứng với chữ nghĩa, mà tôi còn dị ứng với giọng nói
của Hà Nội bây giờ, nó khác xa với Hà Nội thanh lịch của bốn mươi
năm về trước. Làm sao tôi quên được giọng nói của đài phát thanh Hà
Nội, “thủ đô của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” mà mỗi tối, tôi vẫn
thường phải nghe cái giọng the thé của cô xướng ngôn viên qua chiếc
loa rè treo ở cái chòi gác đầu trại, những đêm rét buốt ở trong
những trại tù Hoàng Liên Sơn. Giọng nói đó còn theo đuổi, ám ảnh tôi
cho đến ngày hôm nay.
Từ ngày bị anh em “ngoài ta” thống trị, ngoài những tiếng “ngụy
ngôn” xảo trá như cách mạng, giải phóng, học tập cải tạo, ngụy quân,
ngụy quyền... chúng ta thấy cả một rừng chữ nghĩa đảo lộn trong một
xã hội điên đảo. Dân Sài Gòn đã nhìn tận mắt loại chữ nghĩa quái đản,
sản phẩm của chế độ mới như “xưởng đẻ,” “cửa hàng thịt phụ nữ,” “nhà
đái nam, nhà đái nữ...”
Cũng không phải vì lý do chính trị mà tôi ghét nó, hoặc có định
kiến, kiểu “ghét ai ghét cả tông nhân họ hàng,” nhưng tôi ghét cái
thứ ngôn ngữ tùy tiện, vô nghĩa và lai căng hay bắt chước Tàu một
cách hoàn toàn vô ý thức và thiếu khôn ngoan
Người dân Việt Nam hiện nay dùng chữ “siêu” để thay cho
chữ “rất
nhiều” hay “rất cao” như bảng quảng cáo này. (Hình: Getty Images)
Trước khi đi quá xa, và để cho độc giả khỏi quên, tôi xin nói ngay vào
lối nói kiểu Tàu của người trong nước bây giờ. Chúng ta vẫn nghe những
tiếng lạ tai từ khi nón cối dép râu “tiến về Sài Gòn,” thứ ngôn ngữ đặc
sệt Tàu, mà chúng ta chưa hề nghe, chưa biết dùng nhưng cuối cùng cũng
phải dùng, phải nghe nếu không sợ bị lạc đường. Đó là những tiếng hộ
khẩu, hộ lý, hải quan, xuất khẩu, trợ lý, thủ trưởng, đăng ký, đường cao
tốc, vô tư, bức xúc, bảo vệ, cơ địa, xử lý, khẩn trương, triều cường,
giải phóng mặt bằng, quân hàm, sư trưởng... khác xa những gì mà chúng ta
đã dùng thời trước.
Cái thì quá Hán, nhưng có cái thì quá nôm na. Thủy Quân Lục Chiến thì
gọi là “Lính Thủy Đánh Bộ,” Bạch Ốc là “Nhà Trắng,” trực thăng là “máy
bay lên thẳng,” tài xế thì gọi là “lái xe,” đại tiện hay tiểu tiện thì
gọi là “ỉa, đái”... có khi nửa nôm nửa hán như “cán bộ gái,” có khi thô
bỉ như “giường cứng- giường mềm,” có lúc ngớ ngẩn và vô nghĩa như “làm
gái!”
Nếu chữ nghiêm trang, nghiêm chỉnh của chúng ta để nói về một thái độ,
một nhân dáng thì vì sao trong nước lại dùng chữ nghiêm túc (nghĩa của
nó là đứng yên - toàn thể túc lập!) Nếu chữ “liên lạc” của chúng ta dùng
trong nghĩa trao đổi, thông tin thì cũng với nghĩa đó, họ dùng chữ “liên
hệ,” như trong nghĩa nó có nghĩa trói buộc với nhau như gia tộc, con cái,
họ hàng. Vì chúng ta đâu cần phải “liên hệ” qua điện thoại với một công
ty khi chỉ cần mua một món hàng.
Có những địa hạt, việc dùng chữ nghĩa quá tùy tiện và ngu dốt, một cách
“nói chữ” như chữ “xử lý” bị lợi dụng một cách nặng nề và không cần
thiết như nói “xử lý cá xong” thì đến “xử lý” rau. Thay vì nói đơn giản
“một con bọ xít” thì họ nói “một cá thể bọ xít,” thay vì nói “đi dạy học
tại trường X.” thì người ta nói “nhận công tác giảng dạy...”
Nói chung là người ta thích dùng “đại ngôn” cho nó oai, ra điều chữ
nghĩa, như ông bà ta có câu: “dốt thì hay nói chữ,” quảng cáo cho mấy
cái bồn rửa nhà cầu, người ta cũng dùng đến tiếng “hoành tráng.”
Ba chữ “dòng, luồng và chùm” bị lạm dụng và gán ép một cách ngây ngô như:
- “Dòng kem dưỡng da;” - “Luồng tư duy, luồng thông tin , luồng văn hóa
, khám bệnh ngoài luồng;” - “Chùm ảnh, chùm thơ...”
Trong nước bây giờ thích nói chữ, Tây hay Tàu hơn là thuần Việt: Ảnh
“nude” hơn là ảnh khỏa thân , “VIP” hơn là nhân vật quan trọng , “logic”
là lý luận, “tuổi teen” hơn là tuổi thiếu niên, “ô tô” thay vì xe hơi,
“nội y” thay vì áo quần lót , “sở hữu” hơn là có , “khẩn trương” thay vì
nhanh lên.
Nếu vì trời sương mù mà trên xa lộ nhiều chiếc xe hơi đụng nhau dây
chuyền (xe nọ đụng đít xe kia) thì vì sao họ dùng chữ “đụng liên hoàn,”
cho ra Tàu, trong khi chữ liên hoàn còn có nghĩa “trở lại” như thơ liên
hoàn là bài thơ mà câu cuối lặp lại câu đầu tiên. Cái xe đầu tiên bị
đụng không thể nào đụng lại cái xe cuối cùng trên đường!
Trong khi chúng ta dùng chữ máy thu thanh (radio) thì Cộng Sản dùng chữ
“đài,” chữ này chỉ có thể dùng để chỉ nơi phát thanh, như đài phát thanh
Hà Nội. Cũng với lối nói tắt này, đôi khi vô nghĩa, nhưng theo thói quen
ở trong nước, người ta vẫn hiểu, như vừa “xuất viện” là mới ở bệnh viện
(nhà thương) ra, “nhập viện” là vào nhà thương. Nếu nói “điện” thì phải
hiểu nghĩa là điện thoại. Thu phí là thu lệ phí!
Cộng Sản lấy tên Hồ Chí Minh đặt thay cho Sài Gòn có nhiều điều bất tiện
và bất kính, vì người ta không thể nói: “Tôi đi... Hồ Chí Minh,” hay “Hồ
Chí Minh bây giờ nạn cướp bóc tràn lan” mà phải dùng nguyên câu “thành
phố Hồ Chí Minh.” Vì cái tên quá dài, nên bây giờ người Cần Thơ đi Sài
Gòn thì chỉ cần nói là “lên thành phố!” là người ta đã hiểu.
Cỡ lớn láo như Phùng Quang Thanh, lên tới đại tướng mà còn mở miệng nói,
“Không phong tướng, anh em tâm tư!” thì “chị em ta” cũng có thể nói,
“Chị làm em cũng tâm trạng theo chị!” hay “con ấy... cực kỳ!” Danh từ,
động từ, tĩnh từ, trạng từ... cứ loạn cả lên, toàn là những thứ “lộng
ngôn” và “loạn ngôn” một cách rất “bất quy tắc!”
Thời trước đi học, mà viết, làm luận văn, nói lối này thì chắc chắn là
bị thầy, cô giáo sổ...toẹt! Và thời nay nếu bỏ nước ra đi khá lâu, về
thăm lại quê hương nên có một người đi theo để thông dịch.
Nói chuyện chữ nghĩa thời nay, thì phải viết thành một cuốn từ điển dày
nghìn trang. Tôi không có tham vọng làm một cuộc nghiên cứu hay thống kê
mà chỉ ghi.. tạp một vài chuyện mua vui. Nhưng chúng ta cũng nên cẩn
thận, đừng ngộ nhận, khi có những tiếng ít nghe, ít dùng, nghe chưa quen
tai đã vội chụp nón cối cho nó. Có lần tôi dùng tiếng “xiển dương” trong
một bài viết, đã bị một ông bạn già khiển trách “sao lại dùng chữ Việt
Cộng?”
Điều đau lòng tôi muốn trình bày với độc giả hôm nay là chúng ta lệ
thuộc Tàu cả nghìn năm mà còn giữ được tiếng nói, chữ viết và bản sắc
dân tộc. Trong nước nô lệ Cộng Sản mới bốn mươi năm mà dễ chừng ngôn ngữ
đã có những sự thay đổi, nhất là ảnh hưởng không ít với những người đã
đi ra nước ngoài, đã từng là nạn nhận của Cộng Sản. Tôi đã gặp những
người tù chính trị đã ở trong nhà tù tập trung năm, mười năm mà vẫn dùng
những danh từ “đi học tập- cải tạo” hay “trước giải phóng- sau giải
phóng” một cách không suy nghĩ, thì trách gì vợ con họ, lấy lý do vì ở
với Cộng Sản một thời gian dài, nên bị “đồng hóa!”
Một chuyện khác là các cơ quan truyền thông ở hải ngoại, vẫn cho mình là
có lập trường chống Cộng nhưng vẫn dùng nguyên bản những tin tức, chương
trình trong nước mà không chịu bỏ thời giờ sửa đổi lại theo cách nói và
cách viết truyền thống của người Việt tại miền Nam trước 1975 và kể cả
tại miền Bắc trước năm 1954.
Có khi vì thiếu vốn, lười biếng hay thỏa hiệp, truyền thông hải ngoại
đem luôn cả chương trình làm sẵn, các cuốn phim của các nhà sản xuất hay
đài truyền hình Việt Nam chiếu trong chương trình hằng ngày. Do vậy, tuy
trên đài truyền hình không có cờ đỏ sao vàng, có chân dung lãnh tụ cộng
sản, nhưng ngôn ngữ, hình ảnh, và chương trình từ giải trí đến thời
trang, thi hoa hậu, đố vui, thực chất là những đài truyền hình Cộng Sản
được soạn ra công phu để dành làm quà cho hải ngoại.
Người ta đã nói đến chuyện con ếch được luộc chín từ từ trong nước lạnh,
hay chiến thuật vết dầu loang. Dần đà, chúng ta sẽ nghe quen tai, nhìn
quen mắt và bị “luộc” lúc nào không hay.
Và những con người vốn chân chất, thật thà, tin người, chỉ thấy cái lợi
trước mắt và cho cá nhân mình, không cảnh giác sẽ còn thua... nữa!
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=209533&zoneid=97#.VZOpC8mQhMF
Cuộc di cư của chữ nghĩa
Năm 1954, người ta nói
đến cuộc di cư người, thật ra còn có cuộc di cư chữ nghĩa nữa. Người đi,
chữ cũng đi theo. Chữ nghĩa miền Bắc cũng lềnh kềnh, lếch thếch nối đuôi
nhau lên tầu há mồm. Chuyến đi gian nan của nguời di cư thế nào thì chữ
nghĩa cũng vậy. Chữ ở lại, chữ ra đi, chữ nào còn, chữ nào mất. Chẳng ai
còn tâm trí đâu để lưu tâm tới điều đó. Chữ được di cư vào miền Nam, chở
đi rồi, bao nhiêu chữ đã rơi rụng, vung vãi dọc đường. Bao nhiêu chữ đã
sống còn sau khi đã hội nhập với chữ bản địa.
Phải đợi đến sau ngày 30 tháng tư 1975, người ta mới có thể biết được sự
còn mất này một phần nhờ so sánh chữ nghĩa giữa hai miền. Hình như cũng
ít ai để ý đến cái mất, cái còn của chữ nghĩa, vì có quá nhiều cái mất
cái được được lớn hơn. Cái mất lớn hơn đó để người khác lo, người viết
lạm bàn về số phận chữ nghĩa người di cư sau 1954 và nếu có dịp về chữ
nghĩa của người di tản.
Phần 1.- Chữ mòn theo thời gian.
Cho dù không có cuộc di cư, chữ nghĩa cũng cách này cách khác bị xói mòn.
Sự mất còn này trước hết là do sự xói mòn của thời gian . Chữ nghĩa như
một vật dùng một lần thì còn ngon, nhưng dùng nhiều lần thì mòn hay cùn
đi. Như cái kéo cắt mãi cũng phải cùn. Dao băm mãi cũng lụt đi. Khen đi
khen lại đâm nhàm tai. Yêu nhau lắm, cắn nhau đau, hay ít ra cũng chán.
Đùa dai hoài đâm nhạt như nước ốc. Hình như chữ nghĩa dị ứng với cái lập
đi lập lại. Tất cả những ngữ nghĩa trên chỉ ra một điều: Thời gian và sự
đi lập lại có thể làm xói mòn, hoen rỉ chữ nghĩa. Tâm lý con người lại
ưa chuộng cái mới, cái lạ. Như trong tình yêu, dùng chữ đó với nhau lần
đầu, trọng lượng của chữ nặng lắm, thấm thía lắm, cảm động lắm. Dùng lần
thứ hai thấy nhẹ đi rồi. Phải tăng cường độ nghĩa bằng những chữ lắm,
nhất, số một. Có khi cả bằng tay chân vẫn chưa đủ. Tăng lời thề.. Hình
như vẫn hụt.
Trong văn chương, ta cũng gặp cảnh ngộ tương tự. Nhất là trong lãnh vực
thơ . Thơ là khơi nguồn cho sáng tạo chữ mới, văn ảnh mới, biểu tượng
mới. Còn nhớ, hồi thơ Nguyên Sa xuất hiện đúng lúc khi mà cuộc di cư đã
hoàn tất. Chữ nghĩa thơ của ông còn nóng hổi, thơm phức như bánh mì mới
ra lò. Nhiều cô cậu, ghi ghi chép chép để dùng lại :
Áo nàng vàng, tôi về yêu hoa cúc. Áo nàng xanh, tôi mến lá sân trường.
Chữ nghĩa đó được truyền tay, đến người cuối cùng có thể chỉ là chiếc
bánh mì nguội. Cứng như đá. Thật ra, thơ đó có một vài văn ảnh mới. Mới
với người đọc thôi. Nguyên Sa đã gợi nguồn cảm hứng từ người tình là cô
Nga ( sau này là bà Trần Bích Lan) . Có thể lúc mà thơ đó mới ra lò, đối
với ông, thơ văn đó chả có ấn tượng gì nữa. Nhưng mới người cũ ta. Có lẽ
vì vậy mà nhà thơ suốt đời mang cái nghiệp phải sáng tạo cái mới. Sáng
tạo không ngừng.
Số mệnh chữ nghĩa mỏng manh như số phận con người. Thời gian như thước
đo chiều dài ngắn của chữ nghĩa, đồng thời cành báo về cái hữu hạn của
nó. Sự sợ hãi của Nguyễn Du phải chăng cũng từ đấy mà ra.
Chữ có thế vắn số nên có nhiều chữ đã trở thành chữ cổ ít ai nhắc tới.
Còn nhớ, hồi mới di cư vô Nam, người Bắc sửng sốt nhất, nghe lạ tai nhất
là chữ Mã Tà. Mã tà thời tây là gọi là Hiến Binh, sau này trong Nam gọi
là Cảnh sát, ngoài Bắc gọi là Công An. Không biết vì lý do gì, chữ Mã tà
sau khoảng hai năm gì đó, không còn nghe ai nói nữa. Cũng vậy, theo sách
vở (1), chữ manh nghĩa là nhỏ mọn. Người đời chỉ còn nhớ váng vất khi nó
đi với chữ khác như mong manh, tan manh, chiếu manh, manh áo, manh mún.
Một chữ khác như chữ Khem, nghĩa là kiêng cữ. Nếu nó không cặp bạn với
chữ Kiêng thì người ta không còn nhận ra nó như Kiêng khem ra nắng, ra
gió. Chữ khác như chữ Lụn, nghĩa là hết, người ta cũng chỉ dùng trong
một số trường hợp hiếm hoi : Tim lụn có nghĩa tim đèn cháy hết, lụn năm,
lụn ngày, mềm lụn, lụn xuống, lụn mạt. Mấy ai còn nhớ, còn biết, còn sử
dụng những chữ cổ trên. Nhưng có chết đi mới có sống lại, cái chết đi
ung mầm ra cái mới. Nhờ vậy mà chữ nghĩa thay đổi và tiến bộ, mỗi ngày
một đa dạng, một phong phú và chuẩn xác hơn. Thời gian đã là một nhẽ,
cộng thêm dụng ý của người sử dụng chữ làm chữ nghĩa sống dở, chết dở.
Từ nay, chữ có thêm nghĩa. Chữ và nghĩa. Chữ dùng giống nhau, nhưng
nghĩa thì mỗi người hiểu một nghĩa. Rầy rà từ đấy mà ra.
Huyền thọai về việc xây tháp cổ Babel phải chăng là một bằng cớ báo
trước về sự sa đà của ngôn ngữ, chữ nghĩa và đến cả số phận của nó nữa.(2)
-----------------------------------------------------------------------------
Trong từ điển Từ Việt cổ, nhà xuất bản Văn hóa thông tin, Hà nội 2001
các tác gia Nguyễn ngọc San, Đinh văn Thiện cũng đã thu tập được gần một
ngàn chữ cổ như các chữ vừa nêu trên..
Theo Thánh kinh, các con của ông Nô-ê (Noé, Noah) muốn xây một cái tháp
ở Babel (Thành Babylone ) để tới được trời cao.. Chúa thấy sự cao ngạo
đó nên muốn dẹp tan ý định ngông cuồng đó bằng cách tạo ra sự lẫn lộn và
phức hợp của các ngôn ngữ. Quả nhiên ý định xây tháp không thành, vì mỗi
người nói và hiểu khác nhau.
----------------------------------------------------------------------------
Số phận chữ nghĩa, cái sống, cái chết của nó là sống mòn, chết mòn, chết
từ từ. Mỗi ngày của nó là một bước ngắn lại. Cả làng, cả nước đang dùng,
vậy mà không đâu biến đi đằng nào.. Từ mòn đến là hay, nó gợi lên văn
ảnh của một đồ vật mới đầu bóng loáng , sáng choang, mầu sắc rực rỡ, hấp
dẫn người ta. Ai ai cũng mê, cũng nói, cũng dùng. Chữ trở thành thời
thượng. Càng được dùng, càng nhiều người nhắc đi nhắc lại, càng phổ biến
thì cái nguy cơ mất lúc nào không hay. Chữ vẫn đó, mà nghĩa đã mất dần .
Cái xe chở chữ, lúc chở chữ này, lúc khác chở chữ khác, hoặc dán nhãn
hiệu khác. Nó đã chở như thế bao nhiêu chuyến, đã thay hình đổi dạng bao
nhiêu lần.
Nói như thế thì chữ mòn hay nghĩa mòn. Cái nào mòn trước, cái nào mòn
sau. Chữ là cái chuyên chở nghĩa và một chữ có thể có nhiều nghĩa, tùy
theo vị trí của nó trong câu nên nghĩa dễ bị mòn hơn chữ. Chẳng hạn ,
chữ cái và con. Chữ chỉ có hai, nhưng nghĩa thì nhiều lắm nên nghĩa lúc
thế này, lúc thế khác. Cũng là con , nhưng con dao, con với cái, nhỏ
con, con dại cái mang, con đĩ, cỏn con. Nhưng cũng không thiếu trường
hợp cả hai đều mệnh yểu.
Chữ càng mòn nhanh nếu nó chuyên chở nhiều nội dung, ý hướng của người
dùng.Tất cả tuỳ thuộc vào ý hướng người sử dụng.. Nhưng làm sao nắm bắt
được ý hướng đó. Dĩ nhiên khó lắm. Vấn đề nay đã lây lan sang một chủ đề
triết lý là : sự ngộ nhận, sự thông cảm hay sự bất lực trong việc tìm
hiểu tha nhân mà các triết gia hiện sinh thường đề cập tới. Vì có dụng ý
chữ nghĩa đôi lúc trở thành gian dối, lừa phỉnh và trong chính trị trở
thành tuyên truyền. Một thứ bạo lực ngôn ngữ, một thứ vũ khí như con dao,
khẩu súng. Chẳng hạn chữ Việt gian thời Việt Minh, hay chữ tay sai Cộng
Sản thời bây giờ.
Với cái nhìn nhân bản thì chữ nghĩa có một cuộc sống , có dòng sinh mệnh,
có thể mất, có thể còn, trôi nổi như đời sống một người. Nhiều chữ nay
đã chết, nằm chôn vùi trong nghĩa địa của các Bảo tàng hay sách cổ. Nói
ra cũng ngậm ngùi.
Xin trích dẫn một số chữ nghĩa làm bằng chứng về sự mất còn này. Trong
lời mở đầu báo Nam Kỳ địa phận, số đầu tiên, năm 1907 có những câu như
sau :
" Bổn báo kỉnh cáo, tòa báo đã ước ao cho con nhà Annam, đua nhau tấn
tài, tấn đức, thông phần đạo, ngoan việc đời… Tờ báo có ý khai đàng văn
minh cho nhân dân đặng tấn phát cho mọi bề, việc đạo việc đời đều thông
thuộc."
Xin trích dẫn một đọan khác :
"Lời rao cần kíp. Bổn báo gửi cho mỗi người hai số nhựt trình đầu hết mà
xem thử, như ai bằng lòng mua thì đem ba đồng bạc đến mượn cha Sở mua
dùm.."
Trong một trả lời bạn đọc, chúng ta nghe thử lời rao sau đây :
" Bổn báo có nhận được một mandat của một ông nào đó không đề tên, không
đề địa chỉ, nhưng yêu cầu gửi báo "
Tức cười thật. Nhưng 25 năm sau, trong tờ L'Impartial viết vào ngày
20-11-1929, ta thấy lối viết đã nhẹ nhàng thông thoát hơn :
" Sự giải phóng người Annam về phương diện thương mại và kỹ thuật chỉ là
một huyền thoại."
Bạn đọc thấy có nhiều chữ được sử dụng cách nay một thế kỷ đã không còn
được dùng nữa như bổn báo kỉnh cáo, nhựt trình, con nhà Annam, tấn tài
tấn đức, khia đằng văn minh. Nhưng có nhiều chữ vẫn được dùng cho đến
ngày nay như Chữ Cha Sở và nhất là những chữ khá chuyên môn cách nay 70
năm như giải phóng, phương diện thương mại và kỹ thuật, huyền thoại vẫn
còn được dùng. Nhất là chữ Huyền thoại mà người viết có cảm tưởng là nó
chỉ được dùng sau này trong Triết học Tây Phương mà thôi. Hóa ra nó đã
có một nguồn gốc lâu đời đến thế.
Trong những chữ bị mòn, mất đi..ở trên. Vấn đề là tìm hiểu xem, tại sao
chúng không còn được dùng nữa. Sự mất còn của một chữ trước hết là thói
quen, rồi sự xói mòn, sự được dùng ít hay dùng nhiều, tính địa phương,
sự sáng tạo của các nhà văn, nhà báo, dụng ý chính trị và cuối cùng là
các cuộc di dân. Và đặc biệt nhất là cuộc di cư năm 1954 cũng là mục
tiêu của bài viết này.
Phần 2. Cuộc di cư của chữ nghĩa.
Cuộc di cư năm 1954 không phải chỉ là vấn đề chính trị của một tập thể
người chọn lựa một thể chế chính trị. Điều đó đúng nhưng không đủ. Một
triệu người di cư chuyên chở theo cả một nếp sống văn hóa, phong tục,
tôn giáo, cách làm ăn, cách suy nghĩ sinh sống, tính nết và cuối cùng
cách ăn cách nói. Chữ nghĩa đã làm một cuộc di cư không tiền khoáng hậu
trong lịch sử của người Việt từ Bắc vào Nam.
Khi lần đầu tiên tiếp xúc lại với chữ nghĩa miền Bắc sau 20 năm xa cách.
Người viết có cái cảm giác sung sướng đến ngạc nhiên, đến bỡ ngỡ vì nhớ
lại những chữ nghĩa tưởng chừng đã quên nay nhớ lại. Sau bao năm xa cách,
hình như bắt lại được mình, nối lại được dĩ vãng thân thuộc, gần gũi.
Chẳng hạn, lúc đọc nhà văn miền Bắc Vũ thư Hiên trong cuốn Miền Thơ ấu
và nhất là cuốn Chuyện ở tỉnh lỵ, hay Tô Hoài trong O chuột (1942), Nhà
nghèo (1944) và nhất là Cát bụi chân ai (1992), Nguyên Hồng, trong Cửa
Biển, Nguyễn Tuân Người Lái đò trên sông Đà, Nam Cao với Chí Phèo, Đôi
mắt. Nguyễn Khải với Mùa lạc. Lê Lựu với Một thời xa vắng. Và gần đây
thôi Nguyễn khắc Trường với Mảnh đất lắm người nhiều ma. Họ, những nhà
văn, đã làm sống lại từ trong mồ nhiều chữ mà người viết đã nghe, hoặc
chính mình đã dùng và nay đã quên, đã không dùng nữa. Người viết cảm
động như một khám phá, như một sưởi ấm lại ký vãng đã quên. Chẳng hạn
thay vì nói, ông ấy bệnh nặng, sắp chết, hay ông ấy đang hấp hối, đã cấm
khẩu, tay bắt chuồn chuồn. Nhưng hạ một câu : Ông ấy sinh thì rồi thì đã
quá. Và cứ như thế dàn trải ra khắp các cuốn sách quê hương cũ tìm về,
dấu chân kỷ niệm và niềm thơ ấu sống lại.
Chữ nghĩa như có hồn được vực dậy, thổi thêm sinh khí. Phần lớn những
thứ chữ này có vào thời tiền chiến và gần như bị * đoạn tuyệt * vơi TLVĐ.
TLVĐ chẳng những đoạn tuyệt với phong tục, nếp sống cũ mà cả với chữ
nghĩa cũ nữa. Như vậy, song song với nhóm TLVĐ, vẫn còn sót lại một dòng
văn học ngược chiều với nhóm Văn Hoá Ngày nay và cứ thế nó kéo dài đến
bây giờ. Và một lần nữa, nó lại phải đương đầu với những nhà văn trẻ,
thế hệ sau 1975, thế hệ sau cởi trói hay sau nữa Hậu Hiện đại.
Cũng một cách thức tương tự, người ta tìm thấy ở miền Nam với Nhóm Sáng
Tạo đổi mới nội dung, giải phóng chữ nghĩa bằng cách sử dụng những từ có
vóc dáng triết lý thời thượng. Bên cạnh đó có một dòng chảy văn học chữ
nghĩa như khe suối nguồn, lau lách, rỉ giỏ giữ lại cội nguồn, giữ lại
bản sắc của mình với Sơn Nam, Bình nguyên Lộc và đặc biệt nhất là nhà
văn Lê Xuyên. Đây là một hiện tượng văn học có vóc dáng và đáng nể.
Nhưng chuyện phải đến đã đến. Càng đọc các nhà văn miền Bắc, càng thấy
chữ nghĩa mất nhiều lắm. Đếm không hết, nói mấy cũng không đủ.
Luật của đa số
Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài. Coi vậy mà đúng lắm. Người mới đến phải
vào khuôn, phải thích ứng, phải hội nhập. Sức ép của đa số buộc người
mới tới vứt lại hành lý mang theo. Ngôn ngữ, tiếng nói phải vứt dầu tiên
vì nó khác người ta quá. Tiếng nói là cái phải điều chỉnh đầu tiên. Phải
vặn lại đinh ốc hàm dưới, điều chỉnh lưỡi, điều chỉnh tần số âm thanh ở
tai, nhất là một thảo trình mới cho bộ óc. Càng ít, càng thiểu số, càng
vào nhanh, càng giống khuôn đúc (4). . Cái mà còn giữ lại cuối cùng là
giọng nói.
Thoạt đầu là các chữ chửi của dân miền Bắc vốn là sắc thái văn hoá bản
địa. Đặc thù và cá biệt. Ai chửi hay và chửi có bài bản, có nghệ thuật,
có vần điệu, ví von, có tay nghề bằng miền Bắc. Chửi hay như thế nên có
kẻ làm nghề chửi thuê kiếm ăn. Chẳng hạn, trong chuyện Chí Phèo của Nam
Cao, Chí Phèo chửi để lấy tiền uống rượu đến tay sừng sỏ trong làng như
lão Bá cũng chào thua. Có những chữ nghĩa thuộc loại anh chị, chửi có
tay nghề ở miền quê nghênh ngang lên tầu há mồm, coi ai chẳng ra gì. Vậy
mà vào đến miền Nam gặp anh Hai ở cầu Ba Cẳng hay bến Tầu Sàigòn, chị Ba
Cầu Muối, Chị Năm chợ cá Trần quốc Toản đành tắt tiếng. Các chị chữ
nghĩa miền Bắc vẫn có thói quen đứng dạng háng, tốc váy, hoặc vỗ đồ bồm
bộp đứng xo ro một góc khi nhìn thấy những thằng cha bự tổ trảng, cởi
trần, cười thì mồm vàng choé những răng vàng. Không im tiếng sao được. .
Tiếng chửi thề của tay anh chị miền Nam không có lời đáp trả. Tiếng chửi
tục (5) biết thân, biết phận tan hàng.
Tất cả những tiếng chửi tục đủ loại đã có một thời khét tiếng tỉ như
Tiên sư bố, tiên sư cha, tổ sư cha. Không bao giờ được nghe nữa. Chả bù
với ở miền Bắc, nhớ lại các anh chị chữ nghĩa này chửi ra rả cả ngày, cả
đêm không ai dám đụng đến.
Trong suốt 20 năm sống ở miền Nam, sống chung đụng với dân miền Bắc,
người viết chưa nghe. Cùng lắm, nghe chửi trên Tivi vào những dịp tết.(6)
------------------------------------------------------------
Người viết đã sống một thời gian ở các vùng Dầu Tiếng, nơi mà dân Bắc
vào làm phu cạo mủ. Nơi đây, không có một dấu tích dù là nhỏ cho biết họ
là gốc Bắc nữa. Tiếng nói, giọng nói, cách ăn mặc, tập tục tan hòa loãng
vào cái bản chất miền nam. Cũng không có tháp chuông nhà thờ, mái chùa,
không có đình đám, không hội hè. Giải trí duy nhất của họ là lâu lâu một
gánh hát vọng cổ ghé qua. Họ biến chất hoàn toàn.
Chửi là một phong tục, hay thói quen của người miền Bắc. Chửi trở thành
một nghề như chửi thuê, khóc mướn. Vì thế chửi cần có tay nghề, chửi có
bài bản, lớp lang, bới móc chuyện xưa cũ, nguyền rủa đến tam tứ đại. Đàn
ông thường chỉ là văng tục, còn đàn bà chửi tục như một nghề. Một trong
những người viết về phong tục người miền Bắc là ông Toan Ánh qua nhiều
tác phẩm như Phong tục Việt Nam, Nếp xưa, Bó hoa Bắc Việt vv Rất tiếc,
ông né tránh vấn đề chửi tục.
Giữa chửi thề trong Nam và chửi tục miền Bắc, theo tôi, có sự khác biệt.
Người Nam chửi thề vô tội vạ, chửi bất cứ lúc nào, nhất là trong lúc
nhậu nhẹt, lúc vui, chửi mà không nhằm đối tượng nào, nhất là không có
dụng ý bôi nhọ. Người Bắc chửi thường nhắm đích danh người nào và thường
trong lúc giận dữ, có dụng ý. Vì thế, tiếng chửi miền Bắc coi ra nặng nề
hơn tiếng chửi thề. Lại nữa, chửi tục ở miền Bắc, sản phẩm của chế độ
phong kiến
------------------------------------------------------------
Thứ đến các chữ liên quan đến bộ phận sinh dục, các hành vi liên quan
đến chuyện sinh lý, bài tiết, đến chuyện ăn nằm giữa hai vợ chồng. Người
Bắc có văn hoá cao, tránh cái thô tục không cần thiết nên đã có trăm
cách, trăm lối diễn tả xa xôi, bóng gió được coi là tao nhã. Vào trong
Nam dẹp hết tất tần tật. Cái nào ra cái nấy phân minh, đơn giản và vắn
gọn. Đi cầu là đi cầu. Không bầy đặt hoa hòe, hoa sói. Cái đơn giản, cái
thực tiễn không hàm ngụ, không gợi ý đôi khi lại thanh tao gấp mấy lần
cái thanh tao thứ thiệt.
Tính chơn chớt , thật thà, có sao nói dậy đánh văng chữ nghĩa miền Bắc.
Bên cạnh chửi tục, người Bắc còn có lối nói mát, nói mỉa, nói xéo, chê
bai cũng độc địa lắm. Chửi cha không bằng pha tiếng là vì vậy. Những lối
nói này sử dụng trong những liên hệ, tương quan gần như người quen thuộc,
người làng, người hàng xóm, bạn bè. Nó có nhiều cấp độ từ chê bai, khinh
bỉ, trách móc, coi thường giận hờn, bực bội.. Nó chứa chất chút gì độc
ác, bơi móc từ tính nết chi li từng cử chỉ, gia cảnh, cái nghèo, cái đói,
cái bần tiện, rạch ròi từng cái dốt nát, cái ngu xuẩn, cái kém cỏi, cái
độc ác của mỗi người.
- Tỉ dụ nói mỉa mai :
Cái mặt nó vác lên, trông nó đú đởn, ăn cơm hớt ấy, cho chó ăn. Thường
sự mỉa mai nhắm vào sự nghèo khổ, sự ăn uống, vào tính nết, về phái tính
và sự đe dọa.
- Về nghèo khổ :
Dân miền Bắc túng quẫn nên lấy cái ăn, cái uống làm đầu. Lúc giận rủa
nhau cũng mang cái ăn uống ra mà nhiếc móc nhau kể cũng không lấy làm lạ.
Tỉ dụ diếc móc người ta như : nghèo rớt mồng tơi, nghèo lõ đít, thí cho
nó tý tiền, cứ gọi là đói vàng mặt, đói rã họng. Nghe những chữ diếc móc
trên đôi khi đau lòng còn quá chửi. Vì thế, người đời mới sợ tiếng diếc
móc đến cầm bát cơm lên ăn không nổi..Vì thế có tâm trạng khác nhau :
Khi nghe chửi, ta thấy tức giận, khi bị diếc móc, ta cảm thấy nhục. Từ
tâm trạng đó kéo ra hai lối phản ứng. Khi bị chửi, ta chửi lại hoặc muốn
đánh trả lại, ăn miếng trả miếng trong tương quan bình đẳng và rất có
thể tương quan bất bình đẳng, kẻ yếu chửi kẻ mạnh. Nhưng khi bị diếc móc,
bị sỉ nhục thì tương quan lệch, kẻ trên-kẻ dưới, nên nạn nhân hầu như
------------------------------------------------------------
của một xã hội bất công, bị chà đạp, không có công lý. Không dễ dầu gì
kiện tụng. Chửi là một bù trừ cho pháp luật, trả lại lẽ công bằng cho kẻ
thua, kẻ mất, kẻ thiệt thòi. Dĩ nhiên, không thiếu trường hợp cha chửi
con. Nhưng cứ lý ra, lý giải trên vẫn có cơ sở.
------------------------------------------------------------
không có đòn để đỡ, vì yếu thế không dám đáp trả, cam chịu ẩn nhẫn và
cùng lắm nuôi hận trả thù. Cho nên, về mặt tâm lý, bị diếc móc vẫn đau
hơn bị chửi. Thông thường những người có văn hoá, những người có địa vị,
ở trên người khác có giáo dục thường ít chửi mà nói diếc, nói móc, nhẹ
hơn là nói bóng , nói gió..(7)
Về tính nết :
Phải quen biết, phải qua lại mới biết nhau, biết từ chân tơ kẽ tóc, đến
lúc giận hờn thì mang tính xấu người khác ra rủa. Chẳng hạn rủa : mắt
ông viền cải tây rồi, đồ thông manh, trông vậy mà đáo để ra phết, đồ ông
mãnh, cứ giãy .. lên như đĩa phải vôi, nhanh nhẩu đoảng, lanh cha lanh
chanh. Tất cả những lối nói trên đều dựa vào một sự vật, vào một biểu
tượng cụ thể có thật để gợi lên một ý tưởng xấu. Biến cái cụ thể thành
một ý niệm trừu tượng(8)
Cả một nếp sống văn hóa, truyền thừa, kinh qua kinh nghiệm mới nhận ra
cái tế vi, cái dị biệt mà biên giới nghĩa chỉ cần xảy chân một cái là
dùng sai, hiểu sai. Xử lý đúng chỗ, đúng trường hợp hẳn không phải là dễ.
Đồ thông manh thì nặng hơn mắt ông viền cải tây. Đồ cám hấp thì nặng hơn
đồ dở hơi. Đồ láu cá láu tôm thì nặng hơn đồ ông mãnh. Nói không đâu vào
đâu thì khác nói chua như giấm. Cân nhắc vụ việc, đánh giá từng trường
hợp, xử lý người – việc – rồi dùng từ.. thích đáng.
------------------------------------------------------------
(7) Tùy theo trường hợp, còn những chữ diếc móc tuỳ thuộc cấp độ nặng
nhẹ tùy thuộc rất nhiều vào tình huống, vào giọng nói, và nhất là vào
người nói. Có những điều rơi vào miệng người này nó nặng trở thành chết
người, nặng như búa bổ. Nhưng ở người khác thì lại chấp nhận được. Chắc
là nhiều người đã có kinh nghiệm mấy bà mệnh phụ gốc Bắc, chỉ cần bà
khen chê, kéo lê cái giọng thưỡn thẹo mà người viết ở đây đành chịu
không cách chi mô tả cho đúng được. Cứ thử rồi biết. Chẳng hạn : ăn phải
đũa nhà người ta, đồ ăn bám, thứ đó được mấy nả, theo voi ăn bã mía, có
khối nó chịu nhả cho đấy, đồ đi bòn của, đồ tha phương cầu thực. Cho ăn
uống ở nhờ đến lúc canh không lành cơm không ngọt thì rủa : ăn mòn đũa
mòn bát nhà người ta, ăn chậm như sên, bà ấy nói như móc họng đến gần
phải mửa cơm ra mà trả lại, thôi thì cũng phải vắt mũi đút miệng, được
bữa hôm lo bữa mai. Tất cả những lối diếc móc, nói bóng nói gió chẳng
hiểu bằng cách nào chúng biến mất. Người viết cũng không hiểu tại sao
nữa.
(8) . Con đĩa giẫy trở thành ý niệm cứ quýnh cả lên. Và cứ như thế có
những chữ khác cũng theo quy trình đồ vật – ý niệm như : đồ nỡm, thằng
nỡm, đồ giở quẻ, nó cứ trêu ngươi, dấu như mèo dấu cứt, cứ ngồi chầu hẩu
ra đó, tưởng kín bưng kỳ tình ai cũng biết, nói chua như giấm, chua lòm
lòm, nói không đâu vào đâu, không có đầu cua tai nheo gì, thằng đó ba
lăng nhăng, chẳng đâu vào mới đâu, làm gì cũng lau cha lau chau, đồ láu
cá láu tôm, cứ lững tha lững thững, đứa nhãi ranh, vênh vênh váo váo.
Chữ theo voi ăn bã mía gợi lên một văn ảnh rõ rệt : theo đuôi chỉ ăn đồ
thừa, đuôi thẹo. Các chữ như : chỉ đâm ba chầy củ, đồ láu cá láu tôm,
vênh vênh ngậu xị lên, đồ cám hấp, ngu như lợn, đồ miệng năm miệng mười,
đồ dở hơi, quá thể lắm, đồ phải gió ở đâu, chuyên môn nói kháy, nói leo,
cái giống nhà mày, thứ đó được mấy nả, trốn như trạch, đồ thông manh, đồ
ông mãnh, đồ đi bòn của. Mỗi chữ đều gợi lên một văn ảnh và không chữ
nào giống nghĩa chữ nào .
------------------------------------------------------------
Tất cả đòi hỏi sự khôn ngoan, tính toán và trải đời. Đó là thứ văn hoá
chửi mà không ăn mòn bát mòn đĩa ở miền Bắc không hiểu thấu đáo được.
Vào đến miền Nam sau này, người dân miền Nam với nếp sống giản dị đã
trấn áp người miền Bắc, quy kết là khôn ranh. Bỏ đi Tám. Đù má, nói gì
thì nói mẹ nó đi cho rồi, vòng vo tam quốc hoài, mệt quá. Vậy là phải
dẹp cái thói xỏ xiên, văn hoa chữ nghĩa. Người miền Bắc di cư chỉ có mỗi
một con đường trong lối sống và cư xử mới là dẹp bỏ tất cả những từ chửi
bới, diếc móc ở trên. Vì thế, mấy ai còn nhớ đến những lối diếc móc trên.
- Về phái tính :
Người phụ nữ miền Bắc vốn là nạn nhân của nhiều thứ, của đủ thứ đến cái
gì xấu đích thị là của phụ nữ. Đến cái gì khen thì thật sự cái đó có lợi
cho đàn ông. Khen tứ đức tam tòng là lời khen chết người, buộc chặt,
trói chân người phụ nữ thành tên nô lệ không công. Khen tiết hạnh khả
phong là lời khen trớ chêu nửa khóc, nửa cười. Khen trinh tiết làm đầu
là một lối khen họan, khen thiến không hơn không kém, chẳng khác gì hoạn
quan. Nói tách bạch ra, con C… là chúa, là vua.
Nhưng những lời nguyền rủa quả không thiếu mà có thừa. (9)
------------------------------------------------------------
(9) Những lời nguyền rủa cũng lấy nữ giới làm đối tượng, mà đặc biệt do
chính đàn bà rủa đàn bà. Quan niệm trọng Nam, khinh nữ của thời phong
kiến tồn tích lại đẩy xô thân phận phụ nữ thành một phụ phẩm thấp kém,
hèn hạ dựa trên những thói đời bất công, dựa trên nền đức lý hủ lậu giả
hình, man trá đẩy họ xuống đất bùn. Chẳng hạn có những câu diếc móc nhẹ
nặng đủ thứ, đủ kiểu xuất phát từ tâm địa độc ác, hận oán : người đâu có
thứ người..sáng bảnh mắt còn nằm trương xác ra. Đàn ông nằm đến bảnh mắt
thì không sao cả. Dậy muộn cũng là một tội lỗi. Hoặc nặng hơn nữa : đồ
thối thây, nó bơi tro trát trấu vào mặt, con gái con đứa, cô ấy cong cớn,
những cô này mới nứt mắt nảy nòi mà sao giống những mụ nạ dòng già đời,
da dẻ nó hon hỏn thế này. Tất cả đều nhắm vào phái tính hay đĩ tính : õn
à õn ẹo, đanh đá lắm cơ, một cô gái giăng hoa, một lũ lĩ con gái, chửa
buộm ( chửa với người khác không phải với chồng), chó dữ mất láng giềng,
dâu dữ mất họ, mẹ cái hĩm, con bé tình ra phết, mà phải biết là đỏng
đảnh.
Chưa chồng có cái khổ riêng lại thêm cái khổ của miệng lưỡi thế gian :
Già kén kẹn hom . Ăn mặc lơ đễnh một chút cũng khổ : cái yếm xẹo xọ để
trật ra cái sườn nây nẩy, cái người đàn bà dại dột đã nằm ềnh ệch ra đấy,
nói dại nếu mày chửa thì ăn nói làm sao, cái yếm cổ xây thật trắng, cái
quần lụa buông chùng xuống tận gót, ăn bận sang đến cô đầu cũng không ăn
đứt, nó nhân tình đến trăm thằng, bọn lý dịch chẳng anh nào không thậm
thọt ra vào nhà nó, nó mặc áo cánh xát xí, nào yếm vải phin, nó tơ tuốt
ghê lắm (diện). Diện cũng chết mà không diện cũng chết : chết nỗi không
tơ tuốt, chồng nó chê, con đó phải lòng thằng khác, nó chỉ nhong nhóng
suốt ngày, cơm bưng nước rót đến tận mồm, nó lẳng lơ và nhẹ dạ, hai con
rồi mà vẫn còn trẻ mau máu, trai làng hay chớt nhả và bẻm mép, cô gái
mỏng mày ngày xưa bây giờ là đàn bà sồ sề, cô ấy chúa đời là khỏe.Thiệt
là khổ. Khổ đầu, khổ đuôi, khổ trên , khổ dưới, càng dưới càng khổ.
Phần II
Tôi muốn đứng ra, nghểnh cao cổ, hò hét bênh đàn bà cũng không được. Vì
tìm đến nửa ngày cũng không kiếm đâu ra chữ để chửi bọn đàn ông. Thử xem
nào : đồ đàn ông đĩ ngựa. Nghe không ổn . Đồ lẳng lơ. Cũng không nghe ra
tai. Cuối cùng tìm ra được vài chữ đáng đời : Đồ súc sinh và một chữ dấm
da dấm dớ : Đồ cha căng chú kiết. Thật đến là tức, tự nhiên xổ ra được
một lô chữ cho hạ hoả : đồ du côn du kề, đồ ăn mày ăn xin, đồ gì nữa nào..
đồ lính tráng. Cái may của phụ nữ miền Bắc là vào đến trong Nam, họ đã
không bao giờ còn bị ai diếc móc như thế nữa.
Than vãn hay dọa nạt :
Đã nói thì phải nói hết. Bên cạnh đó, ở mức độ chừng mực vừa phải dễ
dung nhận được là các lối nói than vãn, hăm đe. Trong lối nói này, người
ta tỏ ra một oai quyền, một sự khôn ngoan già dặn, một sự từng trải, sự
hiểu đời, cái hơn người. Chẳng hạn : Các người đừng có vội tí ta tí toét,
cứ ỉm đi, cứ im thin thít, thời buổi nhiễu nhương, trắng đen lẫn lộn,
hơi đâu mà, có dỗi hơi, kêu giời kêu đất, tôi vội vàng mát mẻ nói, đừng
có bắt bí nhau, liệu cái thần hồn, bà truyền đời cho mà biết, cứ tẩn cho
nó một trận đến lòi tù và ra, vả vào miệng cho tôi, cái giống nhà mày,
không có tao thì cả họ mày ăn bùn, nó bôi tro trát trấu vào mặt, mấy đứa
kia thì đáng vật một nhát cho chết, nó lo xanh mắt và thức suốt đêm, hừ
ngỡ là gì, hóa ra hắn nằm vạ, (10) giận cá chém thớt, bà truyền đời báo
danh cho mày biết, tôi biết tỏng tòng tong trong bụng ông nghĩ gì, chớ
nói gở nó vận vào mình, e xúi quẩy đấy.
Người miền Nam nghe những câu trên là sùng rồi :
rắc rối tổ mẹ, cái gì mà ví von qua không hiểu. Qua nói thiệt, qua có
sao nói dzậy. Còn mấy cha nội, nói dzậy mà không phải dzậy. Có ngon ra
đây, kiểu gì qua cũng chơi ráo trọi. Kiểu gì nó cũng chơi thì né đi cho
được việc, giở sách thánh hiền ra đã có câu thánh dậy : tránh voi chẳng
xấu mặt nào.
Phong kiến qua lối xưng hô bị dẹp bỏ.
Có lẽ không ở đâu, không ở nước nào cách xưng hô lại phức tạp lầy nhầy
như miền Bắc. Mới đây, trong một chương trình Vidéo, người viết thấy một
cô ca sĩ trẻ được người điều khiển chương trình phỏng vấn.. Lúc phải trả
lời, cô lúng ba, lúng búng, vì không biết phải xưng bằng anh, chú, bác
hay nhà văn với người điều khiển chương trình. Bác có vẻ già quá, anh
thì có vẻ hơi sỗ sàng. Ông thì xa lạ. Cậu tớ thì xấc quá. Trong cái cách
học ăn, học nói của người Bắc thì bài học vỡ lòng là học cách xưng hô.
Trẻ con nào mà không được bố mẹ dạy phải xưng hô tùy theo tuổi đã đành,
theo quan hệ họ hàng, theo chức vụ và theo xã giao nữa.
------------------------------------------------------------
(10) Tục nằm vạ là một tục lệ đặc biệt của miền Bắc. Bùi Hiển đã viết
một cuốn chuyện về vấn đề Nằm vạ này. Chí Phèo của Nam Cao cũng đã ăn vạ
để bắt bí nhà giầu.
------------------------------------------------------------
Những tiếng thầy bu, thầy u, thầy đẻ, thầy me, cậu mợ, đằng ấy, cậu tớ,
người nhớn, con nọ, con kia, huynh, đệ, quan bác, thằng cu, con đĩ, mẹ
đĩ nhà tôi, nhà con, ông mãnh, thằng trời đánh thánh vật, thằng chết băm
chết bằm tùy trường hợp mà dùng. Nhưng bắt chước người Tầu, ta còn có
chữ Gia phụ, Gia Mẫu, Gia Huynh, chỉ bực bề trên hay xá đệ, xá muội chỉ
bực dưới. Bấy nhiêu lối xưng hô vào đến miền đất mới như lạc lõng , thi
nhau bị "cáp duồn" hết. Không ai nói nữa. Do sức ép hay do tự mình cảm
thấy lỗi thời, thấy dởm, thấy cầu kỳ, thấy rắc rối, thấy "không giống ai"
thấy cần phải bỏ. Có lẽ thấy cái không giống ai là lý do của sự ra đi
không trở lại của các cách xưng hô trên.
Các chữ dùng để gọi, xưng danh quan tước chức sắc cũng nhiều lắm. Cũng
phiền lắm. Nhiêu khê lắm. Không xưng đúng danh phận, có thể bị trách, bị
giận, bị trù ếm nữa(11). Nhiều không đếm xuể. Hầu hết, việc hài chức vụ
có dụng ý, tâng bốc nịnh nọt. Nó đã dần biến mất khi vào đến trong Nam.
Nó biểu tỏ một xã hội phong kiến, đẳng cấp, trên dưới không thích hợp ở
miền Nam. Người dân miền Nam cũng là di dân, có cái may mắn không thừa
hưởng di sản của một xã hội phong kiến, hủ lậu. Xã hội đó lo kiếm miếng
ăn, làm giầu, không nghĩ đến chữ nghĩa thánh hiền, cũng chẳng bận tâm
đến kẻ trên người dưới.. Xã hội vừa ổn định, chưa mọc ra những mầm mống
của thứ ổn định kiểu trên đè dưới, quan lại, thứ dân, giai cấp thống trị.
Làng xã mở toang, không hàng rào vây kín.. Xã hội cũng mở toang mọi phía
mà dân là chính, dân là chủ. Sự xưng hô vì thế giản tiện và tuỳ tiện,
đáp ứng nhu cầu thực tiễn. Ba má thì là ba má. Khi cần gọi chung là ông
già bà già. Nội việc xưng hô cũng thấy miền Nam đuợc cởi trói nhiều theo
tinh thần tự do, dân chủ. Người Bắc từ xa tới, lẽ nào không thấy cái hay
đó. Lẽ nào không theo, tự ý theo. Để gọi một người ở, người trong Nam
chỉ gọi chung chung là người làm, vừa giản dị, vừa không có khinh miệt,
rẻ rúng. Vì thế, nếu còn ai gọi cụ đốc thì thay vì là một trân trọng, nó
đã biến thành trò cười, mai mỉa. Hóa cho nên, chữ nghĩa có cái thời của
nó, thời để sống và thời để chết.(12)
------------------------------------------------------------
(11) . Người Hànội có một thói quen khá kiêu sa (Theo Vũ ngọc Phan trong
Nhà văn hiện đại) là thay vì gọi tên một người, họ lại hài chức vị người
đó ra mà gọi. Gọi như thế vừa là cách vinh danh người được gọi. Phần
người gọi cảm thấy hãnh tiến vì có quan hệ quen biết với người được gọi.
Chẳng hạn : ấy quan đốc nhà tôi, hay ngon hơn nữa : ấy anh Huyện X. Chữ
nhà tôi, tự bầy tỏ cái huyênh hoang , hãnh tiến, thấy sang bắt quàng làm
họ. Thật đáng ghét.. (12) Đã là đốc học, đốc tở mà còn kèm theo chữ cụ
hoặc chữ quan nữa thì rõ ràng là xu nịnh : quan đốc tờ, quan đốc học, cụ
Nghị, cụ Hàn, cụ cử, cụ ký, cụ Thượng, cụ Tú, thầy đội xếp, thầy cai, cụ
lang ta, cụ bang tá, thầy quản, anh Khóa, anh cung văn ( thư ký riêng
của các gia đình giầu có), thầy đồ, sinh đồ hay cống sĩ, quan hiệu, quan
châu, quan phủ doãn, hiến ty, dề điệu, quan thừa sứ, ông Hiến binh, ông
Trùm, ông Chánh trương, ông hậu, ông Hàn, ông cửu, cụ Thượng, ông Lý, cụ
Chánh.
------------------------------------------------------------
Cách làm ăn có khác, chữ nghĩa cũng đổi khác
Cũng là xứ nông nghiệp, nhưng cách làm ruộng, cách sinh sống cũng khác
miền Bắc nhiều lắm. Chữ nghĩa cũng vì thế cũng đổi theo. Rất nhiều chữ,
từ miền Bắc , vào Nam không ai dùng nữa, vì đời sống kinh tế, xã hội đã
thay đổi. Nghề hàng xáo ( xay giã gạo. Trong Nam không có nghề này ),
Ruộng chân nhất đẳng, nhị đẳng, ruộng mật điền (Ruộng tốt nhất ) gian
buồng, khóa dãy, rau muống lợn, đi đong gạo, dậm lại mái nhà, hòm gian (
Hòm to để đựng đồ trong nhà ), nhà pha (nhà tù), nhà giây thép, xe hòm (
Xe hơi sang trọng ) ngày con nước, đi lưới, cái niêu, nồi đất, chỉnh dầu,
rổ rá, dao quay, dao nhựa, một bồ, vuông thóc, giây lạt, dùi đục, cái
cũi, đóng cũi, cái cưa xẻ, cái gáo, cái chum, cái lọ độc bình, cái phên
nứa, bát chiết yêu, đi bể ( biển), tậu 3 mẫu ruộng, vác thúng, đèn măng
xông, cái lồng ấp, cái hỏa lò than. Chữ sau đây cũng xưa lắm rồi, nhưng
đến là hay : nhà xí. Nay thi nguời ta văn minh hơn gọi là nhà vệ sinh,
trong Nam gọi là nhà cầu, siêu đun nước, cái áo quan, cái nhị tẩu ( tẩu
hút thuốc phiện), khay đèn, quạt lông, tràng biên (thân thế một người),
đèn ló, cái sập, cái phản, quần nái (quần dệt bằng một thứ hàng tơ tầm
sợi thô, nhuộm đen), cái bình phong, con thò lò, đỉa phải vôi, giọng kẻ
bể, cái trõng che, cót lúa, một bồ, vuông thóc, gạch bát tràng, gạch lát
bổ cau (Lát xiên và dựng nghiêng viên gạch ) gạch vồ, cái mả , rồi có
cải mả, đề lao, cái lọ. Tỉ dụ : xách hai cái lọ đi kín nước. Chữ kín
nước nghe thật hay, nhưng cũng ít được ai dùng tới nữa. Cái màn (mùng).
Rồi từ đó thay vì nói đi ngủ, người ta còn nói vào màn . Thợ ngõa.
------------------------------------------------------------
Những chữ dùng để chỉ kẻ hầu người hạ đã tùy hoàn cảnh mà thay đổi.
Trong nhà đạo, khi dùng chữ Kẻ tôi tớ chỉ là lối nói khiêm tốn của kẻ
bậc dưới với kẻ bậc trên như cuối lá thư thường viết *kẻ tôi tớ hèn mọn
*. Chữ con nhài, nàng hầu tương đối lâu đời nhất được dùng trong các nhà
quan. Sang đến thời Pháp thuộc có chữ con sen, chị vú, anh phu xe, rồi
anh tài xế.. Những chữ để chỉ việc gái chời bời như : đi nhà thổ (me
dông de te ), nhà chứa, me tây, làm đĩ..Trong Nam giản dị gọi chung là
Gái điếm. Những chữ chỉ nhà nó ( chỉ vợ hoặc chồng). Chữ người (chê bai).
Nguời khó tính lắm ạ đòi phải mua rau lấy Người mới xơi được ( trích
trong Chiểu Chiểu của Tô Hoài ). Quan anh ( ý nịnh bợ) có tắm không, mở
bôn chục trai nước suối Viten đổ vào thùng rồi pha nửa chai cô lôn để cụ
giội lại, dọn cái buồng Thổ Nhĩ Kỳ để chớp bóng đấy nhé (Trích Giông Tố
của Vũ trọng Phụng ). Thêm một chữ cô ả cũng mất tiêu không ai dùng nữa.
Một số chữ của nhà đạo cũng không được dùng nữa : Thầy cả, cụ, cố, thầy
kẻ giảng, ông bõ. Nam Cao đã viết riêng một chuyện nhan đề : tư cách mõ.
Nhà văn cho biết tại sao gọi là mõ, rồi lềnh, rồi Sãi. Chữ ông Trùm, ông
Chánh Trương cũng không ai dùng nữa. Một số chữ bên Phật giáo như ông
Bụt, ông sư, ông vãi, bà vãi, chú tiểu cũng ít ai dùng nữa. Có nhiều
người muốn phục hoạt lại chữ Bụt, ông Sư như chủ trương của thầy Nhất
Hạnh.
------------------------------------------------------------
Người miền Bắc chân lấm tay bùn, làm ăn vất vả. Miền Nam, ruộng thẳng
cánh cò bay, làm chơi ăn thật. Đi mút mùa lệ thủy không thấy nhà thấy
cửa, nhất là không thấy tháp chuông nhà thờ, không thấy đình, thấy chùa.
Cái nhìn về con người, về đời sống, về cách sinh hoạt làm ăn của người
Bắc đã đổi khác. Chẳng mấy chốc cái ngậm ngùi lúc ra đi nay quên hết. Cứ
gì chữ nghĩa bỏ quên, đất lề quê thói, phong tục, tập quán, đạo nghĩa cứ
thế mà rơi rụng dần dần. Thay vì so đo, khép kín, bảo thủ, giữ lời ăn
tiếng nói, giữ phép nhà bắt đầu buông thả. Thay vì chiếu trên , chiếu
dưới, có phép có tắc.. nay ăn nói thả giàn, chả kiêng nể gì nữa. Con gái,
con đứa nay tụm năm tụm ba đàn đúm, hát xướng, thích thì ra rặng trâm
bầu tán tỉnh, mọi chuyện hạ hồi phân giải.
Thành trì cuối cùng :
văn minh miệt vườn đối đấu với văn hóa miền Bắc.
Người miền Nam,
chữ nghĩa chỉ vừa đủ dùng, nếu không nói là còn sơ sài lắm so với miền
Bắc. Nó là thứ văn minh miệt vườn không đủ để ba hoa trên trường văn
trận bút. Cái điều đó đã được nhà học giả Phạm Quỳnh nhận xét một cách
khá bất công trong cuốn Một Tháng ở Nam Kỳ :
"Chữ Quốc ngữ thì đã thông dụng lắm rồi, đàn bà con trẻ thường biết đọc,
biết viết cả.. Nhưng đến văn Quốc Ngữ thì xem ra cái trình độ Quốc Văn
đại để hãy còn kém"
Nhận xét đó, có lẽ người trong Nam chả bao giờ quên và thành kiến đó
người Bắc cũng chả bao giờ thay đổi. Cho đến giờ phút này, cái văn minh
miệt vườn đó, cộng với 20 năm văn học miền Nam đến sau 75 vẫn chưa được
nhìn nhận.(13) Thành ngữ hay lối nói miền Bắc là vốn liếng ngôn ngữ của
một dân tộc. Nó tích lũy, thải loại kết tinh những đặc thù, những sắc
cạnh của ngôn ngữ, của vốn liếng hiểu biết truyền thừa. Nó không thừa,
không thiếu, nó vừa đủ. Nó được sử dụng trong đời sống hằng ngày như kim
chỉ Nam, nó đưa ra những tiêu chỉ đời sống, phán xét, nhận định phải
trái tốt xấu. Nó là thứ ngôn ngữ đã được đãi lọc, được truyền thừa của
sự khôn ngoan, thu gọn lại. Phải là người địa phương, nhuần nhuyễn sắc
thái văn hóa bản địa mới có thể sử dụng đúng cách, đúng trường hợp.
Người ngoại cuộc, nhất là người ngoại quốc, dù có ở lâu năm tại đất nước
đó,
------------------------------------------------------------
(13)Trong cuốn Chân dung và tác phẩm của Trần đăng Khoa, cuốn sách phê
bình Văn học . Không một chữ đả động đến các nhà văn miền Nam. Mới đây
nhất, qua giới thiệu của T.S Lê văn hảo, có bộ Tổng tập Văn học VN, dày
cả vài chục ngàn trang. Đã có phần dành 4000 trang cho VH Cách Mạng rồi,
chỗ đâu cho những mảnh VH khác.. Bao giờ cái mảng VH miền Nam mới được
nhìn nhận trong cái khung của một thời kỳ đi khai phá, có những nét đặc
thù, bất chấp những tiêu chuẩn khách quan của Văn học. Vấn đề là nó có
mặt, ở một thời kỳ nhất định, có những sắc thái cá biệt. Vậy đủ rồi
------------------------------------------------------------
chưa dễ giầu gì nắm bắt được tình ý, nội dung hàm ẩn của những thành ngữ
đó. Miền Bắc, cái nôi văn hóa lâu đời cả nước giầu dân tộc tính nhờ
những lối nói, lối viết đó. Nó chuyên chở cả thời kỳ 1000 năm thủ đô
Hànội, văn hoá Thăng Long, văn hóa cho cả nước với không biết bao tên
tuổi lẫy lừng. Nó không phải tự cao rao, quảng cáo vô bằng. Người và
chứng tích văn học còn đầy ra đấy. Viết ngàn trang giấy cũng chưa đủ.
Vậy mà lên khỏi tầu há mồm, cập bến Nhà rồng.. Tất cả những thứ đó đổ
xuống sông hết. Bài chiếu Lý công Uẩn dời đô không lẽ mang ra dọa .. Lý
Thường Kiệt, bà huyện Thanh Quan cất đi cho rồi vì chóa mắt với xe cộ
chạy hà rầm.. đường phố rộng thênh thang, tấp nập người qua lại, xe gắn
máy ba bánh nổ bành bạch điếc con ráy. Xe thổ mộ lách cách vui tai thong
thả dời chợ Bến Thành đi Ngã Ba ông Tạ, hay đi chợ Bà Chiểu. Chú lái xe
thổ mộ ngồi nghiêng bên thành cán xe ngựa thò chân xuống đất, mồm kêu
toóc toóc như dục chú ngựa ráng tý nữa, ráng tý nữa đi cưng. Hoa trái
bầy la liệt mua một chục ê hề đủ loại. Bà bán hàng ra giá mua một chục
có đầu., nghĩa là chục có thể 11, 12 đến 13, 14 trái tùy theo thỏa thuận.
Nội thế thôi, mua bán kiểu kỳ cục Nam Kỳ cũng thấy đủ sướng rồi.
Thật đến là kỳ lạ cái xứ Nam Kỳ. Chẳng ai bảo ai, n_ cả đám sĩ phu Bắc
Hà, đám trí thức thành thị cũng rứa. Quên hết chơn, hết chọi.. Câu
chuyện văn hóa ngàn năm chẳng chống đỡ nổi một ngày.
Người Hà nội, người di cư có văn hóa cao, hoặc các nhà văn thường sử
dụng chúng một cách nhuẩn nhuyễn trong lúc giao tiếp, viết lách. Nói văn
hay chữ tốt, nói có văn hóa đương nhiên phải biết sử dụng thành ngữ đó,
lối viết đó như một thuật ngử, nói ít hiểu nhiều. Miền Bắc có những nhà
văn tiêu biểu sử dụng vốn liếng các thuật ngữ này như Trần Tiêu, Vũ
trọng Phụng, Tô Hoài, Vũ Thư Hiên, Nguyễn khắc Trường. Đọc họ cũng lý
thú lắm.
Vậy mà chữ nghĩa đó vào đến trong Nam đã bị gạt , thải loại không chừa
một chữ nào. Không muốn nghe, nghe thì gạt đi, muốn nói cũng không được..
Nói ra thì nó đớ đờ đờ. Có duyên, được kính nể ở ngoài Bắc, trong Nam
trở thành vô duyên, không ngửi được. Đã thế, chữ nghĩa để có cơ tồn tại,
nếu nó được các nhà văn dùng..thì đỡ biết mấy. Chính các nhà văn di cư
vào Nam như nhóm Sáng Tạo cũng quăng thùng rác không thương tiếc. Chúng
bơ vơ , lạc lõng , đầu đường , góc nhà, góc phố, nơi từng nhóm người rồi
biến dạng. Không có đám ma. Không kèn không trống. Cái này không phải
hoàn toàn lỗi người bản địa mà chính tại người dân du nhập không muốn
giữ. Hình như có một thói quen xấu, có mới nới cũ.. Ít ai muốn nhắc nhở,
bàn , viết về những chói sáng văn học miền Bắc.
Có lẽ cái mất lớn nhất của dân di cư là mất lối nói, lối viết, nếp sống
văn hoá thành ngữ đã bị biến dạng. Nếu còn một thứ văn hoá gì là thứ "Văn
hóa chảy" Chảy tuốt luốt. Với cái độ nóng trung bình 35 độ, cái gì cũng
có thể chảy được. Bù vào chỗ đó, họ phải đi tìm một hướng viết mới, mới
có nghĩa là khác với tiền chiến, khác với Tự lực Văn đoàn. Mới thực sự
thì chưa biết là thế nào, chưa biết hình thù nó ra sao, nhưng điều rõ
rệt là dứt bỏ truyền thống, cái cũ, trong đó có các thuật ngữ cũ của
miền Bắc.. Họ không thích ngồi lau đồ đồng, đánh bóng chữ cũ mà đùa cợt
mầu mè, son phấn với chữ nghĩa cho là mới, kêu rổn rảng, lặp đi lặp lại
đến lập dịõ. Chữ nghĩa đó mà phần đông họ nói để họ nghe hoặc dành cho
một thiểu số trí thức thành thị vốn chẳng đại diện cho cái gì, n_ cả cho
chính họ. Chữ nghĩa đó gặp lần đầu thấy lạ thì muốn làm quen. Quen rồi
thì chán ngấy muốn lỉnh , vì chẳng nói được điều gì. Chính ở chỗ đó, chữ
nghĩa văn minh miệt vườn trở thành nhu cầu tinh thần của đa số dân miền
Nam. Cả cái văn hoá miền Bắc đưa vào bị cháy rụi chỉ còn trơ lại ít cột
kèo đen thui. Không ai đếm xỉa đến nữa.
Phần người viết, bắt gặp lại nó thấy gần gũi như người bạn cố tri lâu
ngày gặp lại. Tự nhiên chẳng khác gì thấy người bạn đầy những tính tốt
mà trước đây đã không lưu ý tới. Phải nói nó hay lắm, đượm mầu sắc dân
tộc, quê hương, xứ sở
------------------------------------------------------------
(14). Chẳng hạn : Nó tẽn tò, sợ vãi đái, nhịn như nhịn cơm sống. Mấy từ
này lâu lâu gặp một bà Bắc kỳ đặc dùng lại nghe cũng sướng cái lỗ tai.
Ăn uống vốn là lẽ sinh tồn của nguời dân Bắc nên được sử dụng tràn lan
như : ăn phải đũa, ăn cơm khoán, ăm cơm tứ chiếng, ăn chực, ăn ba vực
như trong câu : ăn chẳng bao nhiêu, ăn vạ hay nằm vạ. Tuyền là thứ đặc
sản cả. Quý lắm đấy. Thứ thiệt, thứ ròng chính hiệu con nai. Nào là bữa
lưng bữa vực, rồi bà thổ ra, chả mấy khi, thế mà cấm khinh người, ông ta
chúa pha trò, ông bỏ lỗi cho tôi, tôi nói khí không phải, khắc xong. Mấy
từ này dùng đến là đắc ý. Nó đứng một mình thì chả có gì đáng nói, nhưng
nó đứng trong toàn cảnh một câu nói thì thật hay. Khí không phải vừa có
vẻ nhún nhường, nhưng đầy thách đố và sẵn sàng đối đầu không thương
nhượng. Này, lại tiếp một lô chữ nữa ghi lại kẻo quên : Con đàn cháu
đống, ốm thập tử nhất sinh, cứ chõ mồm vào, le te chạy vào, bà đã mà cả
mà cập, rõ mồn một, việc lớn ta tính theo việc lớn, còn việc thỏn mỏn
trong nhà tôi thu xếp khắc xong ( trích trong Những đứa con trong gia
đình, Nguyễn Thi ) Về muộn mấy, vào chơi cái đã nào, người chết như ngả
rạ, quái nhỉ, quái nó đi đâu, tối bức như lò than, người con gái trắng
lôm lốp, ra sự rằng mình dỗi, giãy lên như đỉa phải vôi, ngã lộn tùng
phèo, lớn phổng phao, con đi đằng này, đằng này là đằng nào, trả lời mà
như không trả lời ( Không cho biết là đi đâu, có ý dấu, có thể là nói
dỗi) u hỏi làm gì những việc ấy, mặc con, không đủ mặc thây, cái đám ma
cũng đường trường lắm, con đẻ rứt ruột ra còn thế, lời chửi rủa thì bao
giờ cũng thừa bứa tứa tát, thở rít lên như tiếng bễ, gà gà mắt lên như
người say thuốc lào, nhà cũng hoàn cảnh lắm ( Chữ này có thể là chỉ được
dùng sau 54), khối anh, ông đã diện oách, một tay bốc trời, nói khe khẽ,
cô suýt bật cười, nào bác cả ra đây, đàn ông đàn ang có biết gì đâu,
giặt giũ cơm nước chợ búa, trêu ngươi ai, cài toang xong ( đóng cửa
truồng trâu ), ngã xiểng liểng, nó khó bảo, đi đong chịu, khi cần tiền
vẫn giựt nóng, cái ngữ đó, cái cơ ngơi, Nói đến hơi hướng cái danh ông
Dề, tao úp được con chó rồi, đi húi tóc, ra sự rằng mình dỗi, đi ở trọ,
mẹ hờ con ( ru con, chữ cũng hay lắm đấy chứ ) suốt đêm, giã đám (rã),
tuổi mụ, cầm bằng ông ta mà giận không che chở cho nhà ta để nhà binh
Nhật xung công tất cả thì cứ xung công ( trích trong Cửa Biển của Nguyên
Hồng ), nhưng nay mới tường mặt ( rõ mặt ), hàng bồ chuyện, bồ chữ, kíp
thợ, đi đóng đáng, ( Trích những đứa con trong gia đình, Nguyễn Thi ),
xách ná thun đi bắn nó, làng vào đám, thổi mòi rơm, trâu làng tôi mót
đâu ỉa đó, chú Lựu quẩy hai gánh đi mót cứt trâu trên đường. Hai chữ mót
dùng trong một câu mang hai nghĩa khác nhau. ( Chuyện ở tỉnh lỵ của Vũ
thư Hiên). Châm đóm, thông điếu, xe đíếu, nõ điếu, quán đỏ đèn suốt sáng,
bắt rận, bắt chấy, cứ bỏ rẻ, ra ao tắm, ta nhắm vài miếng, mâm cỗ, bà ấy
hay ốm lửng ( Giả vờ ốm ), chẳng biết đâu mà lần, bật hồng là gì nào,
đốt đuốc đấy, tôi chạy ù xuống bếp, chú nghiêng đầu dòm ông , có như vậy,
nhược bằng không, gì chứ cái ấy không được, cô Gái là người vắt mảnh
sành ra nước, nhưng cái khoản rượu bao giờ cũng biện đủ, tháng chạp còn
gọi là tháng củ mật ( tháng trộm cướp như rươi ), phóng * bút chì *.
Không phải cái bút chì để viết đâu ( ùng cái mai buộc vào một sợi thừng
dài dùng để phóng vào đối thủ), có ăn phải có trả, sợ cô quở, đi biệt
tăm tích, mời ông xơi, con mắt cùi nhãn, chơi đánh chắt, những chùm quả
lúc lỉu trên cành, chơi đố lá, đời thủa nhà ai, nhựa sung được dùng vào
vô khối việc, sạch như ly như lau, mời ông đưa cay, những ngày rau lụi (
hiếm rau), tôm he giã lấy nước đánh lòng đỏ trứng gà giả làm yến ( Trích
Thời xa vắng, Lê Lựu ), lại gắp vài miếng , từng rủa không thiếu một lời,
giỗ sống rồi, nói không ngoa, được mấy nả, không có cái chân đảng trong
làng, ông đứng chân chủ họ, ông Phúc đã đánh trúng huyệt, trong việc
làng, phần đầu gà má lợn , hôn nhân điền thổ, vạn cố chi thù, đã có
người lân la hỏi chuyện gia cảnh, thế là cạch không ai dám hỏi, cạch đến
già, có những tiếng thật hay như : có tiếng ai hờ khóc ngoài xóm lọt ra,
thế mới biết sông có khúc, người có lúc, trống đánh đến hỏng dùi, đã
trót phải trét, tôi đã trót đẻ ra ông, chữ trót đi liền với đẻ ra ông
mới diễn tả được nỗi thất vọng như thế nào của ông bố ( Tả trong một
trận đấu tố), rửa qua quít, rán cá, thịt nạc kho rim, ăn uống húp háp xì
xoạp, chửa xong, đánh chén, cơm đèn, cơm đóm, cơm sáng trăng, có khi ăn
cơm khan chỉ chan nước mưa, nước vối, động thớt, hễ bên đó đụng đũa,
động bát là biết n_, muốn ăn thì lăn vào bếp, lên ăn boóng được nhiều
bữa nhờn môi . Thật hay. Ăn giả miệng, không dè, cái đói giáp hạt, nấu
cháo độn rau tập tàng, không dư dật, mấy ông uống nước cả cặn, ăn tợm
lắm, con tì con vị được đánh thức, cứ nhao nhao lên như chào mào ăn dom,
con nào cũng lành chanh, lành chói, mồm năm miệng mười, Biện là tên cúng
cơm , chỉ có hai bữa cơm đèn, làm ăn giật gấu vá vai, nó vác rá đến xin
ăn trước cũng túng, bóc ngắn cắn dài, rách như tổ đĩa, người từ dưới
xuôi, người trên mạn ngược, ăn hại đái nát, họ lùa ra sân, lùa bát cơm
vào mồm. Hai chữ lùa đều có nghĩa khác nhau. Khóc như mưa như gió, sắc
như tiếng dao cạo vào tinh nứa, nghe đến ghê cả mình. Có chữ nghe đến lạ
: dù có mùa đông rét chết chim, hay * máu gái đẻ * nó bất thường lắm hay
vợ dậy lau lưỡi ( lần đầu tiên người viết thấy dùng như vậy ) và xi con
đái ( cũng đắt lắm ) phải lai ( đèo sau xe ) vợ đến sở, anh của Tuyên đã
đánh xe đi đón, những cái hắn sợ là hão cả, thế nào là mềm nắn rắn buông,
ngồi chắp chân bằng tròn, chỉ nhớ ang áng, người đã thất cơ lỡ vận, thì
ra già néo đứt giây, những thằng tứ cố vô thân giết đi thì dễ, anh bứa
lắm, mỡ gầu lực xực, không chanh cốm, một thời đã xa lắc xa lơ, con có
nói gian thì trời tru đất diệt, chúng cháu không dám chắc lép, nhưng quả
là ít vốn, Bá Tứ ngồi rười rượi nhảy xuống trẫm mình, anh với Châu cọc
cạch ( độc thân, ám chỉ như ế vợ ) quá, bà bón cơm cho cháu, bà ăn cả
thể nhá, sao im ắp đến thế, cái máy ảnh cà khổ, xin dành cho chị tất,
cái ô tô phanh đến két một cái, bộ rui mè, có gì không nên không phải
bảo nhau, sợ thọt dái lên cổ, thôi ta ăn khan một cái, thế hệ chém to
kho nhừ ( lấy ăn no làm vui rồi ), có ông chồng hâm, chị vẫn gọn gàng
như người son rỗi, gạo vừa đỏ vừa dớn, dáng chừng chị cả mấy lần nhấp
nhỏm định nói, cái cạp sổ ruột, quanh năm hết dật tạm lại vay nóng, làm
lắm thì chầy vẩy ra chứ ăn thua gì, những thứ ấy chẳng kiếm được mấy nả
tiền, bác Tú Mỡ ngày ngày chăm chút lau xe đạp rồi buộc thừng treo lên,
ngồi xuống chiếu, xếp bằng tròn, không để bánh xe chịn đất, quay đi quay
lại, làm chân điếu đóm điếu
------------------------------------------------------------
Thay lời kết luận :
Nhà văn trước hết là người sử dụng ngôn ngữ như một người đầu bếp dùng
rau cỏ, thịt thà, gia vị nấu món ăn. Làm văn không nhất thiết là sáng
tạo từ mới, chữ mới. Chùi đồ đồng, đồ cổ không nhất thiết là nhai lại.
Bởi vì, cùng một từ, một chữ được dùng đúng trong từng cảnh huống, nó
vẫn có chỗ đắc địa. Rất tiếc là trong tất cả các nhà văn miền Bắc di cư
vào Nam đã tự mình cắt cái đuôi quá khứ mở ra một lối viết mới. Hay cũng
có, mà dở cũng không thiếu. Tuy không vay mượn vốn cũ, vay mượn cái cũ
của người làm cái mới của mình thì tự nó vẫn là vay mượn, vẫn là cái cũ,
vẫn là đi chùi đồ cũ. Cho đến nay, những suy tư, những trăn trở hiện
sinh về sự tồn tại, về ý nghĩa đời sống của các nhà văn ấy, sau 54, xét
ra cũng chẳng có đất sống nữa. Chẳng nói đâu xa, lối viết, lối suy nghĩ
của trí thức thành thị, trưởng giả vay mượn, đượm không khí phòng trà
với cà phê, thuốc lá, ánh đèn mầu, tiếng nhạc xập xình tự nó đã không có
đất đứng nữa sau biến cố Phật giáo 63. Từ đó, chiến cuộc leo thang, lối
viết hưởng thụ, suy tư trưởng giả về ý nghĩa đời người, về cái đáng sống
hay dư thừa nhường chỗ cho lối viết nhập cuộc, dấn thân. Các nhà văn
thời buổi 54-55 một lần nữa trượt dốc, bơ vơ, lạc lõng trong cuộc đu dây
chữ nghĩa. Cuộc di cư năm 1954 đáng nhẽ là một cuộc hành trình chữ nghĩa,
tiếp nối cái sợi giây văn hoá nối dài hai miền, tự nó đánh mất đi khúc
ruột liền sản sinh ra một thứ văn chương không gốc. Lẽ dĩ nhiên, cạnh đó,
nhiều trào lưu tư tưởng, văn học cũng góp vào các dòng chảy chung đó.
Người viết gợi lại những chữ nghĩa của thời xa xưa miền bắc, có những
chữ tự nó cũng không còn được dùng nữa ở miền Bắc. Điều đó thật tự nhiên
và dễ hiểu. Nhưng phần đông, chúng vẫn là cái vốn liếng văn hóa của đất
nước, của dân tộc nói chung vượt lên trên những đối lực chính trị vốn
lúc nào cũng là kẻ thù của văn hóa. Nghĩ như thế mới thấy vai trò và sứ
mệnh nhà văn quan trọng đến bực nào. Bài viết này, đã hẳn chưa đầy đủ,
vì còn rất nhiều chữ bị bỏ quên chưa được nhắc tới, lại chưa hệ thống
hóa đúng mực, nhưng trong chừng mực của một bài báo, thiết tưởng cũng là
một hoài niệm của những người di cư nay di tản ra xứ người để có dịp
nhâm nhi, dịp nhớ lại và hồi tưởng về một dĩ vãng đã qua. Và có lẽ đó là
mục đích chính của bài nầy theo cái nghĩa : Vang bóng một thời của chữ
nghĩa.
Nguồn:
http://vietsciences.net và
http://vietsciences........fr
Nguyễn Văn Lục
Post ngày:
10/20/17
|