|
Cần phát huy sự trong sáng vốn có của ngôn ngữ Nam bộ
Cũng như người Nam bộ, ngôn ngữ Nam bộ rất chân quê, giản dị, nhưng lại
cực kỳ phong phú, đa dạng. Có để tâm tìm hiểu, người ta mới nhận ra rằng,
ở mỗi một trường hợp, mỗi một tình tiết, dân gian đã sử dụng ngôn từ rất
tinh tế, hình tượng và tất nhiên vô cùng chính xác. Về phương diện này,
đôi khi chính “người Nam bộ hôm nay” cũng chưa chắc đã thấu triệt hoàn
toàn ý nghĩa cụ thể của từng từ, cụm từ. Người đọc thỉnh thoảng vẫn bắt
gặp đó đây những cách giải thích từ, ngữ hết sức tùy tiện, cũng như nhận
định, xem xét sự kiện hết sức hời hợt, chủ quan, không chỉ làm “loạn mắt”
mà còn dẫn đến sai lầm nghiêm trọng.
Giải thích tùy tiện có khi còn làm mất đi cái hồn của ngôn ngữ, làm hoen
ố tính trong sáng vốn có của tiếng Việt đáng yêu, nhứt là tiếng Việt Nam
bộ.
Trong quyển “Văn hóa đại cương và cơ sở văn hóa Việt Nam” – Đại học quốc
gia Hà Nội – “tài liệu dùng để tham khảo giảng dạy và học tập trong các
trường đại học”, đã giải thích ngược: “Nước rong: nước cạn. Nước ròng:
nước lớn”! Hay sách “Diện mạo văn học dân gian Nam Bộ” đã giải thích chữ
buôi (trong câu “Nước chảy xuôi con cá buôi lội ngược”) là “bơi. Tiếng
Nam bộ xưa”! Cá buôi là một loài cá, quê hương của nó không chỉ khu biệt
ở Nam bộ, mà nó cũng có nhiều ở những nơi khác. Đó là “thứ cá sông tròn
mình, nhỏ con mà có nhiều mỡ” (“Đại Nam quốc âm tự vị” của Huỳnh Tịnh
Của). Trong kho tàng ca dao dân ca Nam bộ cá buôi được nhắc đến khá
nhiều, và thời trước nó cũng đã nghiễm nhiên là một loại thủy đặc sản
quý hiếm”:
Nước chảy xuôi con cá buôi lội ngược,
Nước chảy ngược con cá vược lội xuôi,
Anh với em xa cách ngậm ngùi,
Mong cho gặp mặt xác vùi cũng ưng.
Hay:
Ngó lên trời thấy cục mây bạch,
Ngó xuống vàm rạch thấy cá chạch đỏ đuôi,
Nước chảy xuôi con cá buôi lội ngược,
Nước chảy ngược con cá vược lội theo,
Con cá heo nó khóc, con cá lóc nó sầu...
Hoặc:
Năm tiền một khứa cá buôi,
Cũng mua cho đặng đãi người khách sang
Ba tiền một khứa cá buôi,
Cũng mua cho được mà nuôi mẹ già.
Và:
Dòng nước chảy xuôi.
Con cá buôi lội ngược.
Anh thương nàng biết được hay chăng...
Phải chăng con cá buôi ngày nay đã tuyệt chủng nên có sự lầm lẫn? Không!
Nó vẫn còn, tuy rất hiếm. Đó là một loại cá có tập tính sống thành bầy
đàn. Khi đàn cá trưởng thành, chúng tách ra sống thành từng cặp. Và
người đi bắt cá buôi thường bắt một lần được cả cặp, do con cá đi cùng
cứ lẩn quẩn bên người bạn tình vừa bị bắt. Cá buôi có đặc điểm là chỉ ăn
bọt nước và phiêu sinh vật nhỏ trong nước phù sa nên ruột rất sạch.
Người ta chỉ có thể đánh bắt, chứ không câu được.
***
Trong phạm vi của một bài viết nhỏ không cho phép người viết dài dòng
giải thích bởi không khéo sẽ mắc phải “nói sang đàng”. Các nhà văn, nhà
thơ, các nhà soạn văn bản, và nhất là giới nghiên cứu về ngôn ngữ bao
giờ cũng tỏ ra rất trân trọng, và luôn ý thức gìn giữ, bảo lưu tính tích
cực của vốn từ mà thực tiễn nhân dân vẫn đang sử dụng phát triển. Bởi
nếu không như thế thì sẽ không tránh khỏi tình trạng nghèo hóa ngôn ngữ,
nếu không muốn nói đó là một hành vi phủ nhận “công ơn sinh thành” của
lớp lớp thế hệ cha ông mình – những người đã phải trải quá trình lao
động, chiến đấu vô cùng gian nan, vất vả, để rồi từ sự cọ xát cuộc sống
trong sinh hoạt đời thường, họ mới lần lượt sáng tạo và phát minh ra cả
một kho tàng ngôn ngữ cực kỳ phong phú, chuyển giao lại cho chúng ta
thừa hưởng.
Ngôn ngữ - tiếng nói của Nam bộ mộc mạc, chân quê, nhưng rất đích xác,
phong phú. Chẳng hạn như để mô tả trạng thái của nước, ngôn ngữ Nam bộ
có đến hàng chục cách: nước lớn, nước ròng, nước rong, nước kém, nước
đầy mà, nước rặt, nước nhửng, nước nhảng, nước ưng, nước quay, nước lên,
nước đổ, nước lộn, nước dâng, nước bò, nước sụt, nước trồi, nước môi,
nước xẹt, nước lụt, nước tống, nước chụp, nước phân đồng... Hoặc như nói
về cái chết của con người, chắc hẳn không dưới hàng trăm cách nói, mà
cách nào cũng có nghĩa riêng như: mất, qua đời, tắt hơi, nghỉ thở, “đi”,
ngủm, sụm, ngoẻo, hui, đền tội, tử thần kêu, đi chầu Diêm chúa, “đi bán
muối”, anh dũng hy sinh, đền xong nợ nước, ly trần, tạ thế, quy tiên,
theo ông theo bà, tiêu diêu lạc cảnh, Chúa gọi, Phật rước, về bên kia
thế giới, về cõi vĩnh hằng, trở về cát bụi v.v.
Cách xưng hô, thói ăn nết ở, nói, cười... mỗi mỗi hầu như người Nam bộ
nào cũng sẵn có “cả kho”, ít gì cũng hàng trăm, thậm chí hàng ngàn – từ
nào cũng mang ý nghĩa riêng, biểu tỏ rất hình tượng, chân xác, đồng thời
thể hiện rất đúng tâm trạng hoặc trạng thái của nhân vật, ngay cả tại
“thời điểm khoảnh khắc”. Phong phú đến mức không ai tài nào có thể ghi
lại được một cách đầy đủ!
Trước đây người ta cho rằng tiếng Nam bộ là... phương ngữ, xem như nó
chỉ có giá trị giao tiếp nội bộ, khu biệt trong một địa phương – ít
nhiều có ý “phân biệt”! Nhưng dần về sau, khi đã nhận chân được rằng,
tiếng Việt Nam bộ quả đã thực sự đóng góp rất tích cực trong việc làm
giàu ra cho ngôn ngữ toàn dân thì, cách hiểu ấy không còn phù hợp. Không
ít nhà nghiên cứu đã đổi gọi lại, không dùng phương ngữ Nam bộ nữa mà
gọi là ngôn ngữ Nam bộ.
Ngôn ngữ Nam bộ cũng là ngôn ngữ của dân tộc, ngôn ngữ của nhân dân.
Nhân dân là cha đẻ của ngôn ngữ là người sử dụng, giữ gìn và phát huy sự
trong sáng vốn có của ngôn ngữ ấy. Nếu vì lý do nào đó ngôn ngữ toàn dân
bị héo hắt thì một ngày không xa đương nhiên nó sẽ teo tóp dần, lúc ấy
ta còn gì trong tay để “giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc”?
Danh nhân văn hóa thế giới – từng căn dặn: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục
đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ,
chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức
sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó, tức là văn hóa. Mỗi dân
tộc cần phải chăm lo đặc tính dân tộc mình trong nghệ thuật”.
NGUYỄN HỮU HIỆP
Post ngày:
10/20/17
Nguồn:
Internet
|