|
Ngôn ngữ Huế và danh xưng trong
dòng họ qúy tộc
Nguyễn Quý Đại
Người Huế ảnh hưởng đời sống qua chín đời Chúa, muời ba đời Vua. Trước
năm 1975 người miền Nam gọi Huế là cái rốn Văn hoá, Tuy nhiên người Huế
dùng nhiều thổ ngữ và phát âm nghe khó hiểu. Thí dụ như ông: ôn; mẹ: mạ;
cô: o, mụ; bựa qua: hôm qua; bể mõ: vỡ mồm; chộ: nhìn; chi rứa, làm răng...
nhiều từ nghe thật xa lạ.
Câu chuyện thật chàng sinh viên xứ Quảng ra Huế học, đến thăm gia
đình người bạn, tới cổng nhà con chó chạy ra sủa, nhe hai hàm răng nhọn
muốn cắn, nhưng bà mẹ người bạn, lên tiếng "con chó không răng mô, vô đi"
hai hàm răng như vậy mà nói không có răng, ai hiểu nổi ?
Thời gian vừa qua, cựu giáo sư Võ Văn Dật bút hiệu Võ Hương An, có
gởi cho trang khoahọc.net bài Tiếng Huế Một Ngọai Ngữ ? Giáo sư Võ Văn
Dật người Huế, tốt nghiệp Đại học Sư Phạm và cao học về ngành Sử. Những
bài viết của tác giả xuất hiện trên nhiều báo và Đặc san ở hải ngoại.
Mới đây, trong Kỷ Yếu Hội Ngộ Phan Châu Trinh và Hồng Đức 30 Năm Xa Xứ
có đăng bài Hai Thành Phố và Con Sông Xưa, viết về mối tương quan giữa
Hội An và Đà Nẵng qua một con sông đã bị vùi lấp, là sông Cổ Cò. Để
chúng ta hiểu về những danh từ nói trại đi hay thổ ngữ, thổ âm của người
Huế, từ giới quý tộc cho tới giới bình dân, và cách đặt tên lót của dòng
họ Nguyễn. chúng tôi mở cuộc phỏng vấn ngắn với cựu giáo sư Võ Văn Dật,
hy vọng có thể giúp tôi cũng như nhiều độc giả hiểu thêm về ngôn từ xứ
Huế :
NQĐ: Kính chào Giáo sư Võ Văn Dật.
Thưa Gs. Ngôn ngữ VN nói chung và Huế nói riêng, rất phong phú, tuy
nhiên có một số thổ ngữ khó hiểu nhưng các từ điển tiếng Việt không
giảng giải rõ ? xin Giáo sư vui lòng cho độc giả biết thêm một số thổ
ngữ, thổ âm ở Huế ?
VVD : Xin chào anh Nguyễn Quí Đại.
Tôi không dám nhận là biết nhiều để giảng giải như anh nói đâu. Chỉ
biết chút chút thôi, biết tới mô, nói tới đó. Phải công nhận Huế có
nhiều thổ âm, thổ ngữ rất đặc thù. Điều này cộng thêm với giọng Huế
thuộc về một âm vực trọ trẹ khó nghe đối với các miền khác của đất nước,
đã dẫn đến hậu quả - như người ta thường nói, là tiếng Huế khó nghe khó
hiểu. Xin báo tin vui đến quí vị và anh Đại rằng từ năm 2001, tại Nam
California, Bs Bùi Minh Đức đã cống hiến cho học giới cuốn Từ điển Tiếng
Huế, dày 531 trang khổ lớn, biên sọan công phu, do nhà Tâm An xuất bản.
Như thế, từ nay có thắc mắc chi về tiếng Huế, đã có tác phẩm của Bs Bùi
Minh Đức sẵn sàng giải đáp.
Cuốn từ điển dày hơn 500 trang, nhưng cũng chưa hẳn là đủ. Điều đó
cũng nói lên tính phong phú trong ngôn ngữ của miền đất quê hương em
nghèo lắm ai ơi (Phạm Duy) này. Nhân anh yêu cầu tôi cho biết thêm một
số thổ ngữ Huế, tôi xin kể một vài chuyện cười về tiếng Huế, do chính
tôi kinh nghiệm. Người Huế thường biến âm từ ô sang u, từ ôi sang uị Tôi
có 7 năm sống chung với anh em Quảng Nam Đà Nẵng trên núi; vì vậy, Huế
và Quảng đôi lúc không gặp nhau trên ngôn ngữ nếu không rời cái vỏ địa
phương của mình. Ngày 30 Tết, được lệnh phải vệ sinh lán trại sạch sẽ để
ăn Tết. Sau khi quét gom lá rụng thành một đống cao, tôi chỉ đống lá và
nói với anh bạn cùng tóan," Sẵn sàng rồi đó, anh đút nó đị". Ý tôi nói
anh ta đốt đống rác đi, vì tôi biết anh có hộp quẹt. Anh ta trợn mắt,"
Đút cái chỉ Anh biểu tôi đút cái đầu tôi vô đó hả?" Một lần khác, nhân
giải thích một điều gì đó mà anh bạn vẫn không chịu thông cảm, tôi tức
quá, la lên, "Nói chuyện với anh chán quá, thà nói chuyện với đầu gúi
của tui còn hơn."
Anh ta hỏi, "Đầu gúi là cái chỉ". Tôi đưa chân ra, chỉ cái đầu gối --
mà có nơi ở Huế gọi là trốt cúi -- thì anh ta cười ngặt nghẽo, "Cái đó
mà gọi là đầu gúi thì mụ nội ai mà hiểu được." May mà tôi không dùng hai
chữ trốt cúi Lại một lần thấy con rắn lãi mập và dài bò ngang trước mặt,
tôi la lên " Đưa cái đùi, đưa cái đùi cho tui!" Ý tôi muốn nói anh bạn
đưa giúp khúc cây để tôi đập con rắn, một nguồn thịt bổ dưỡng lúc đó.
Nhưng dễ giận chưa, anh ta cười ha hả, nói "Anh cũng có hai cái đùi như
tôi, sao không dùng mà mượn đùi tôi làm chỉ" Tôi đớ người ra, chợt thấy
cái hố của mình trong ngôn ngữ.
Theo tôi nghĩ, đó mới chỉ là khó hiểu vì lạ tai. Có khi là những từ
quen tai với miền khác, nhưng người Huế dùng theo kiểu bóng gió thì hiểu
cũng mệt. Người Huế, cũng như một số vùng khác, gọi hạt là hột, ví dụ
hột lúa, hột mè, hột đậu, hột trai. Hai bà già cùng xóm nói chuyện với
nhau như thế này:
- Nghe nói con Chanh có người đi ngó rồi mà còn chưa ưng.
- Xì, bày đặt, có hột có hạt rồi mà còn làm bộ.
Không ưng chừ thì mai mốt đem lên tra mà cất. Đi ngó hay đi dòm,
trong ngữ cảnh (context) này nên hiểu là đánh tiếng, ngỏ ý. Tra là chỗ
cao và kín trong ngôi nhà rường nhà dùng để cất lúa, các vật quí, các
vật ít dùng hay không dùng nhưng vất đi thì tiếc. Trong mẫu đối thọai
ngắn đó, một bà nói rằng cô Chanh trong xóm có người ngõ ý muốn cưới
nhưng cô ta chưa bằng lòng. Bà kia đáp lại rằng cô Chanh đó đã quá lứa,
quá tuổi xuân thì rồi, không bằng lòng bây giờ, mai kia trở thành gái
già thì chỉ có nước xếp xó mà thôi. Chỉ có trái đã già thì mới có hột.
Bà già kia dùng chữ hột theo lối ẩn dụ, bóng bẩy.
NQĐ: Thưa Giáo sư câu chuyện trên thật hấp dẫn, Quảng Nam và Huế cách
nhau đèo Hải Vân mà chúng ta chưa hiểu nhau hết, huống gì ở xạ Từ năm
1970 tôi ra Huế học và dạy cho các con ông Vĩnh Quan nhà ở gần hồ Tịnh
Tâm, thời gian đầu nghe các từ Mệ, Mụ và thổ âm khác không hiểu mô tê
chi hết, nhiều năm sau mới có thể hiểu được. Thưa Giáo sư phát âm có ảnh
hưởng theo nước uống, và món ăn? các vùng Truồi, Sịa, nói chung vùng
ngoại ô Huế nghe giọng nói nặng hơn? phần lớn người Huế thích ăn cay xé
miệng như bún bò, cơm hến ? VVD: Thưa anh Đại, tôi không nghĩ như thế.
Các con tôi nói Huế rặt nhưng lại không thích ăn cay. Một cô con dâu của
tôi không phải Huế mà ăn cay còn hơn tôi nữa. Người ta thường cho rằng
giọng nói mỗi miền khác nhau là do phong thổ, do nguồn nước mỗi miền
khác nhau. Quê tôi là thôn An Ninh, xã Hương Long, huyện Hương Trà, nơi
có chùa Thiên Mụ và dòng sông Bạch Yến chảy qua. Trong thôn có hai cái
xóm nhỏ là Xóm Bàu và Xóm guốc nói với giọng khác các xóm khác. Cho đến
nay, tôi thấy chưa có một giải thích hợp lý nào về nguyên nhân ảnh hưởng
đến sự khác nhau về giọng nói của các miền cả. NQĐ: Thưa giáo sư Nguyễn
Hoàng là người khai sáng sự nghiệp chín đời Chúa ở xứ Đàng trong, nhưng
gia đình chúa Tiên phải chịu cảnh phân ly con cháu mang chữ lót khác
nhau như Nguyễn Thuận... Nguyễn Hựu.. và phần lớn là Nguyễn Phước....
Đến đời vua Minh Mạng làm một bài Đế hệ thi 20 chữ dành cho 20 đời
Miên Hường Ưng Bửu Vĩnh
Bảo Qui ĐịnhLong Tường
Hiền Năng Kham Kế Thuật
Thế Thụy Quốc Công Gia Xương
Và thêm 10 bài Phiên hệ thi
Bài thi dưới dành cho con cháu Hoàng tử Cảnh anh cả của Minh Mạng
Mỹ Duệ Anh Cường Tráng
Liên Huy Phát Bội Hương
Lệnh Nghi TàmTốn Thuận
Vị Vọng Biểu Khôn Quang
Còn thêm 9 bài nữa dành cho dòng họ quý tộc. Thưa Giáo sư có quốc gia
nào vua chúa Tây Phương có những dòng họ "văn chương" như Vua Chúa VN
mình không ?
VVD: Thưa anh Đại, rất tiếc là tôi không biết có dòng họ vua chúa nào
ở Tây phương mà cũng sính "văn chương" như trường hợp Nhà Nguyễn mình
không. Nếu anh đặt câu hỏi này với nhà bút khảo đàn anh Lê Văn Lân, tôi
tin rằng chúng ta sẽ có câu trả lời lý thú. Theo tôi nghĩ, chắc chắn là
có. Dòng họ nào, nhất là những dòng họ quí tộc, bao giờ cũng muốn tạo
cho dòng dõi mình một nét đặc sắc nào đó để phân biệt với các dòng họ
khác. Theo sự hiểu biết lơ mơ của tôi, thì ông Tây nào mà trong cái tên
có mang thêm chữ de, ví dụ Charles de Gaulle, cựu Tổng thống Pháp, hay
Jean le Lattre de Tassigny, một tướng lãnh Pháp từng tham chiến ở VN
trước 1954, đều có nguồn gốc quí tộc cả.
NQĐ : Thưa Gs nhà bút khảo, bác sĩ Lê Văn Lân gốc Hà Nội, trưởng
thành ở Huế học ĐH Y khoa Saigon, hiện nay ở Austin Texas, nếu có dịp
tôi sẽ mời Bs Lân lên diễn đàn. Thời gian qua tôi thường hỏi Bs Lân về
các từ Y khoa và Hán Văn. Thưa Gs. về dòng họ Tôn Thất có phải phát xuất
từ nguồn gốc hậu duệ của 9 đời Chúa cùng họ Nguyễn Phúc (Phước) với vua
Minh mạng được nhà vua đặt là Tôn Thất . Con gái của Tôn Thất là Tôn Nữ
?
VVD: Vâng, quả đúng như vậy. Tôn Thất cũng thuộc về Hòang tộc, là hậu
duệ của các chúa Nguyễn. Mỗi vị chúa lập ra một chi nhánh gọi là Hệ. Cái
gì cũng vậy, ở mức độ nhỏ thì đơn giản, nhưng khi đã phát triển thành
qui mô lớn thì phức tạp. Lúc đó, cần có sự tổ chưc hợp lý thì mới nắm
vững tòan bộ cơ cấu. Họ Nguyễn cũng thế. Vua Minh Mạng là người nhận
thức được điều đó nên năm 1823 đã ban hành những qui định nhằm hệ thống
hóa lại giòng họ để thứ tự, kỷ cương đâu ra đấy. Theo đó, không những
vua đã đặt ra Ngự chế Mạng danh Kim sách để đặt tên cho các ông vua
tương lai của Nhà Nguyễn, Ngự chế Mạng danh thi để đặt tên cho dòng họ,
Đế hệ thi và Phiên hệ thi để đặt chữ lót làm dấu hiệu nhận ra thế thứ
anh em, trên dưới -- như anh đã trình bày qua hai bài thơ điển hình vừa
nói -- mà còn đưa ra qui định cơ bản để phân biệt sự thân sơ, gần xa
trong dòng họ.
Như ta đã biết, năm 1558, chúa Tiên Nguyễn Hòang mang bầu đòan thê
tử, bà con dòng họ và tướng tá quân lính trung thành lên đường vào Nam
lập nghiệp mới. Như vậy, cùng một gốc từ làng Gia Miêu ngọai trang --
tức Quí hương -- huyện Tống Sơn -- tức quí huyện -- ở Thanh Hóa, có hai
nhánh của dòng Nguyễn phân ra từ đấy. Vua Minh Mạng cho những người còn
ở lại quê nhà mang công tánh Nguyễn Hựu và những người ra đi vào Nam
mang quốc tánh Tôn Thất Nguyễn Phước. Về sau, để gọn nhẹ, người ta chỉ
còn dùng Nguyễn Hựu và Tôn Thất để gọi mà thôi. Ở đây, cho tôi mở một
dấu ngoặc nhỏ: họ Nguyễn nguyên là Nguyễn Văn, đến Nguyễn Kim mới bỏ chữ
Văn. Sau khi bà vợ chúa Tiên Nguyễn Hòang trong khi có thai chúa Sãi nằm
mộng thấy thần ban cho chữ Phúc, thì họ Nguyễn mới lấy chữ đó làm chữ
lót kể từ đời chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635) trở đi.
Giữa những người mang họ Nguyễn Phước lại có một sự phân biệt nữa:
Hậu duệ của các chúa Nguyễn thuộc các Hệ Chánh Tiền biên, đồng lọat mang
họ Tôn Thất Nguyễn Phước, nhưng lâu ngày người ta lược đi hai chữ Nguyễn
Phước nên chỉ còn Tôn Thất mà thôi. Hậu duệ của vua Gia Long thuộc Hệ
Chánh Chánh biên, nếu thuộc dòng vua Minh Mạng thì mang chữ lót theo thứ
tự trong Đế hệ thi (Miên, Hồng, Ưng, Bửu, Vĩnh. . . ), còn nếu thuộc
dòng các anh em ruột của vua thì mang chữ lót trong Phiên hệ thị
Về câu hỏi con gái của Tôn Thất có phải là Tôn Nữ không, thì xin thưa:
đúng như thế. Thực ra, theo qui định chính thức thì phải gọi là Công Tôn
nữ thị, nhưng lâu ngày, người ta thấy dài dòng quá, lại khác họ của cha
- Tôn thất - nên thu gọn lại thành Tôn Nữ cho sát thực tế hơn. NQĐ :
thưa Giáo sư con gái vua gọi Công chúa (như Công chúa Huyền Trân) nếu
trở thành cô thì được gọi là "Thái trưởng Công chúa", con gái của công
tử là Công Tôn nữ" con cháu kế tiếp là "Công tằng tôn nữ" xuống một bậc
nữa là "Công huyền tôn nữ"; "Lai tôn" ngày nay chỉ còn họ cuối cùng là
Tôn Nữ với nghiã là cháu gái ?
VVD: Thưa anh, vâng. Con gái của vua gọi là Công chúa. Không cần mang
họ, chỉ gọi, ví dụ, Công chúa Ngọc Tú, Công chúa Ngọc Anh, v.v. là đủ.
Con gái của Hòang tử, đời thứ nhất (con) gọi là Công Nữ thị, đời thứ hai
(cháu) là Công Tôn Nữ thị, đời thứ ba (chắt) là Công Huyền Tôn Nữ thị,
đời thứ tư (chút, chiu) là Công Tằng Tôn Nữ thị. Tới ngang đây thì chế
độ quân chủ sụp đổ, kiểu cách như thế này không ai hiểu mà theo nữa,
việc lập hộ tịch khó khăn v.v. nên người ta không hẹn mà rút gọn lại
thành Tôn Nữ thôi. Vâng, Tôn Nữ nghĩa đen là cháu gái.
NQĐ: thưa Giáo sư như vậy quan đại thần Tôn Thất Thuyết thuộc hệ thứ
mấy? và có nhiều người cho biết dòng họ Tôn Thất có từ đời nhà Mạc? như
vậy có đúng không ?
VVD: Mỗi người trong Hòang tộc phải biết mình thuộc Hệ nào Phòng nào,
người ngòai khó biết. Theo một tài liệu tôi đọc được thì quan đại thần
Tôn Thất Thuyết thuộc hệ 5 Tiền biên, là hệ do chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần
(1648-1687) khai sáng. Chúa Hiền là người lúc đang còn Thế tử, đã là một
vị tướng tài, chiến thắng hải quân Hòa Lan năm 1643, trong một trận thủy
chiến ngòai khơi Quảng Nam. Có lẽ do thừa hưởng cái dũng lược này mà ông
Thuyết cũng là một dũng tướng.
Tôn Thất chỉ có nghĩa là người thuộc về Hòang tộc, thuộc về dòng họ
đang trị vì. Sự thật, khi một người VN mang họ Tôn Thất, có nghĩa rằng
người đó có họ là Nguyễn Phước, nhưng thuộc dòng các chúa Nguyễn đời
trước chứ không thuộc dòng của vua Gia Long sáng lập Nhà Nguyễn sau này.
Chẳng qua lâu ngày người ta quên mất nguyên ủy của sự việc nên mới xem
Tôn Thất là một họ, như các họ khác. Nếu đọc trong sử VN, thỉnh thỏang
ta sẽ bắt gặp những cụm từ như Tôn thất nhà Lý, Tôn thất nhà Trần, Tôn
thất nhà Mạc, v.v. thì điều đó có nghĩa là những người thuộc Hòang tộc
Nhà Lý, Nhà Trần, Nhà Mạc chứ không gì khác. Bởi các lẽ đó nên tôi không
tin rằng dòng họ Tôn Thất có từ đời Nhà Mạc như anh đã hỏi. Có lẽ đây
chỉ là sự hiểu lầm về chữ nghĩa của người ta mà thôi.
NQĐ: Thưa giáo sư danh từ gọi là "Mệ" có phải dành riêng cho Hoàng
tộc thí dụ như gọi ông hoàng Bửu Đảo là Mệ lúc chưa lên ngôi ? tôi có
thể gọi một người Tôn Thất là Mệ không ?
VVD: Thưa anh, danh xưng Mệ có từ đời chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khóat
(1738-1765) vì Võ Vương sinh nhiều con trai nhưng khó nuôi, chết sớm,
nên dùng cách gọi con gái để ma quỉ khỏi làm hại. Người xưa tin rằng con
nít sinh ra, nhất là con trai, nếu xinh xắn mà lại mang tên hay, tên đẹp
thì dễ làm cho ma quỉ chú ý, ham thích, mà bắt đị Vì vậy, phải chê xấu,
phải dùng tên xấu để gọi ở nhà, còn tên chính thức chỉ dùng khi trưởng
thành. Từ đó trở thành nề nếp, hễ con vua cháu chúa, trai, gái gì cũng
gọi là Mệ hết. Ban đầu thì người ta dùng chữ Mệ để gọi con của các ông
hoàng bà chúa, và dùng chữ Mụ để gọi con của các Mệ, nhưng về sau thì dễ
dãi, muốn gọi Mụ hay Mệ đều được cả.
Các ông Hòang khi còn bé thì người ta gọi bằng Mệ, ví dụ vua Bảo Đại
là Mệ Vững. Nhưng một khi đã lớn, họăc đã được phong tước thì phải gọi
bằng tước hiệu. Do đó, tôi nghĩ, khi Hòang tử Bửu Đảo, dù chưa làm vua,
nhưng đã mang tước Phụng Hóa Công ở phủ Phụng Hóa, tức cung An Định sau
này, thì anh không thể gọi là Mệ Đảo được.
Theo kinh nghiệm của tôi thì người ta chỉ dùng Mệ hay Mụ để gọi những
người thuộc đế hệ. Không ai dùng hai từ đó để gọi những người thuộc
phiên hệ (anh em vua Minh Mạng) hay bàng hệ (các Tôn Thất). Tuy nhiên,
điều này không cấm chúng ta gọi đùa một cách thân mật bạn bè Tôn Thất
của chúng ta vì chẳng có luật lệ nào cấm đóan cả.
NQĐ: Câu hỏi chót, dù Giáo sư muốn mai danh ẩn tích khi định cư ở
California, nhưng xin hỏi thêm, Gs. từng là Giám học, và Quyền Hiệu
trưởng trường trung học Hàm Nghi Huế, sau đó lại chuyển ngành làm Thanh
tra Giám Sát Viện Vùng I ở Đà Nẵng. Trong thời gian đó Gs. đã sinh hoạt
trong Hội Khuyến Học Đà Nẵng với ông Trần Gia Thoại, thân phụ nhà văn
Trần Gia Phụng, và các nhà văn: Duy Lam, Nguyễn Văn Xuân, Phan Du v.v.
Sau ngày 30.4.1975 Giáo sư bị tập trung cải tạo ở trại Tiên lãnh (Tiên
phước, tỉnh Quảng Nam) Giáo sư định cư tại Hoa kỳ có phải theo diện H.O
? Trong tương lai Giáo sư có dự định xuất bản tác phẩm nào để gíup thế
hệ con cháu mai sau, có cái nhìn thực tế về lịch sử VN ?
VVD: Thưa anh Đại, vâng, HO là cái cầu đưa gia đình tôi định cư tại
Hoa Kỳ từ năm 1991. Tôi thích viết về những đề tài thuộc lịch sử và dân
tộc học. Hiện có một vài tập đã biên sọan xong, chẳng hạn Lịch sử Đà
Nẵng; Huế của một thời; Vua Khải Định, sự kiện và hình ảnh, hy vọng sẽ
xuất bản một ngày gần đây, gọi là đóng góp một chút gì đó trong sinh
họat văn hóa hải ngọai và giúp ích phần nào cho thế hệ sau.
NQĐ: chân thành cảm ơn Giáo sư Võ Văn Dật đã dành thì giờ trả lời,
giúp cho riêng tôi học hỏi thêm, và độc giả biết về Ngôn ngữ sử dụng ở
Huế, cũng như danh xưng trong dòng họ quý tộc Huế. Kính chúc gia đình
Giáo sư luôn bình anh và khoẻ mạnh.
“Phiên Hệ Thi”
1) Anh Duệ hệ: Mỹ Duệ Tăng Cường Tráng Liên Huy Phát Bội Hương Linh
Nghi Hàm Tốn Thuận Vỹ Vọng Biểu Khôn Quang
2) Kiến An hệ: (hoàng tử thứ 5) Lương Kiến Ninh Hòa Thuật Du Hành
Suất Nghĩa Phương Dưỡng Di Tương Thực Hảo Cao Túc Thể Vi Tường
3) Định Viễn hệ: (hoàng tử thứ 6) Tịnh Hoài Chiêm Viễn Ái Cảnh Ngưỡng
Mậu Thanh Kha Nghiễm Khác Do Trung Đạt Liên Trung Tập Cát Đa
4) Diên Khánh hệ: (hoàng tử thứ 7) Diên Hội Phong Hanh Hiệp Trùng
Phùng Tuấn Lãng Nghi Hậu Lưu Thành Tú Diệu Diễn Khánh Thích Phương Huy
5) Điện Bàn hệ: (hoàng tử thứ 8) Tín Diện Tư Duy Chánh Thành Tôn Lợi
Thỏa Trinh Túc Cung Thừa Hữu Nghị Vinh Hiển Tập Khanh Danh
6) Thiệu Hóa hệ: (hoàng tử thứ 9) Thiện Thiệu Kỳ Tuần Lý Văn Tri Tại
Mẫn Du Ngưng Lân Tài Chí Lạc Địch Đạo Doãn Phu Hưu
7) Quảng Oai hệ: (hoàng tử thứ 10) Phụng Phù Trưng Khải Quảng Kim
Ngọc Trác Tiêu Kỳ Điển Học Kỳ Gia Chí Đôn Di Khắc Tự Trì
8) Thường Tín hệ: (hoàng tử thứ 11) Thường Cát Tuân Gia Huấn Lâm
Trang Túy Thạnh Cung Thận Tu Dy Tấn Đức Thọ Ích Mậu Tân Công
9) An Khánh hệ: (hoàng tử thứ 12) Khâm Tùng Xưng Ý Phạm Nhã Chánh
Thủy Hoằng Quy Khải Dễ Đang Cần Dự Quyên Ninh Cộng Tráp Hy
10) Từ Sơn hệ: (hoàng tử thứ 13) Từ Thể Dương Quỳnh Cẩm Phu Văn Ái
Diệu Dương Bách Chi Quân Phụ Dực Vạn Diệp Hiệu Khuông Tương.
Riêng Anh Duệ Hệ không thuộc Dòng Chính
Post ngày:
10/20/17
|