Home Tìm Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Chữ Nôm
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
  Thể thơ Lục Bát

Wednesday, June 15, 2011
Viên Linh

Nhân ngày giỗ nhà thơ Tản Ðà, người có bài lục bát danh truyền Thề Non Nước, chúng tôi chọn đăng dưới đây bài viết về thể thơ đặc biệt Việt Nam này. Nếu Trung Hoa có thể thơ Ðường Luật (tám câu, 56 chữ), Nhật Bản có thể thơ Haiku, (ba dòng, 17 chữ, thì Việt Nam có thể Lục Bát (hai câu 14 chữ, dài bao nhiêu câu cũng được).

I. Lục Bát có phải là một thể thơ hoàn toàn Việt Nam không?

Câu hỏi này đã được nhiều nhà biên khảo văn học tìm cách trả lời. Bùi Kỷ trong Quốc Văn Cụ Thể viết: “Theo cách gieo vần mà xét các lối văn vần, có thể phân biệt được ngay lối nào là của ta, lối nào là của Trung Quốc mà ta bắt chước.



Nhà thơ Tản Ðà, từ trần ngày 7 tháng 6, 1939.



Lối gieo vần của Trung Quốc bao giờ cũng để ở chữ cuối cùng câu. Lối riêng của ta gieo vần khác hẳn lối Trung Quốc, câu trên vần ở chữ cuối cùng, còn câu dưới thì vần không ở chữ cuối cùng.” Câu trên ở đây là câu lục. Còn câu dưới là câu bát.

Dương Quảng Hàm trong Việt Văn Giáo Khoa Thư cũng tán đồng ý kiến này. (1)

Theo Phạm Ðình Toái, tác giả Ðại Nam Quốc Sử Diễn Ca do Hoàng Xuân Hãn dẫn thì chính người Tàu đã ngạc nhiên khi đọc Nhật Trình Bắc Sứ của Nguyễn Huy Oánh (1722-1789) viết bằng Hán văn và bằng thể Lục Bát. Vậy Lục Bát không phải thể thơ Tàu, mà là đặc sản Việt Nam.

II. Thể Lục Bát xuất hiện từ bao giờ?

Câu hỏi này cũng chưa thể xác định. Bùi Kỷ viết: “Phát nguyên bởi ca dao, phương ngôn, ngạn ngữ đời cổ”... Nhưng những câu lục bát có thời điểm sáng tác được ghi nhận xuất hiện sớm nhất, là bài hát Chúc Làng của Lê Ðức Mao (1462-1529). (Theo Thi Văn Việt Nam của Hoàng Xuân Hãn, 1951). Hoàng Xuân Hãn viết: “Bài thơ này Lê Ðức Mao làm khi còn ở Ðông Ngạc, nghĩa là trước năm 1504” (2)

Dưới đây là một đoạn của bài thơ đó:

Hoan thanh ba tiếng hô tung,
Hương nghi ngút khói, rượu nồng nàn hoa.
Ðình tấu nhạc, miếu dâng ca,
Vẻ thanh múa phượng, khúc hòa bay loan.
Ngày xuân, xuân tịch thừa hoan,
Thọ trăm chén thuốc, phúc ngàn câu ca.

Phùng Khắc Khoan (1528-1613) có một tác phẩm toàn lục bát vài trăm câu là Ðào Nguyên Hành, có đoạn như sau:

Bông lau, lông vịt* lấy bông,
Làm chăn làm đệm mùa đông ngự hàn
Trâu bò, gà lợn, dê ngan
Ðầy lũ đầy đàn rong thả khắp nơi...

Lục bát lên đến độ cao nhất về nghệ thuật và số lượng là với truyện Kiều của Nguyễn Du (3).

III. Một thể thơ có nhịp chẵn

Lục Bát như lối gọi tên là một thể thơ mà câu trên sáu chữ, câu dưới tám chữ, gồm mười bốn chữ. Cũng có thể nói câu lục và câu bát, nếu nghĩ mỗi dòng là một câu. Mười bốn chữ này được xếp đặt thành hai dòng. Khác với thể ngũ ngôn, thất ngôn, hai câu mới ráp thành một vần, mỗi câu thơ lục bát phải tự ổn định trong vần riêng của nó, ở chữ thứ sáu và chữ thứ mười hai. Lục Bát dễ làm, ai cũng làm được, vì ngay từ thời thơ ấu đã được nghe nó, qua hình thức những bài ca dao. Ðó là một thể thơ mà vần điệu rất đỗi quen thuộc. Thơ Lục Bát không hay do ở âm điệu. Âm điệu lục bát đều quá. Cái hay của lục bát ở những chỗ khác. Cái hay của lục bát là ở ngôn ngữ lục bát. Ngôn ngữ lục bát là ngôn ngữ hình tượng. Nhịp lục bát là nhịp hình tượng. Ðọc một câu lục bát lên, người đọc phải thấy hình ảnh chuyển động rung rinh:

Ải xa quằn quại bóng cờ,
Phất phơ buồn tự ngàn xưa thổi về.

(Huy Cận)

Xập xè én liệng lầu không

(Nguyễn Du)

Thơ Lục Bát là những câu thơ chẵn. Từ sáu đến tám. Nhịp chẵn, thơ thường đều, gây buồn. Nhịp lẻ, thơ vui hơn. Nhịp chẵn gieo xuống những âm trầm đều đặn. Nhịp lẻ đưa lên những thanh cao, nhẹ nhàng. Hồ Dzếnh:

Trời không nắng/ Cũng không mưa
Chỉ hiu hiu rét cho vừa nhớ nhung.

Phải đọc luôn 3 chữ “trời không nắng,” và 3 chữ “cũng không mưa.” Không ai đọc “Trời không / nắng cũng / không mưa,” vì như thế là vô nghĩa. Vậy tác giả đã đổi nhịp câu lục này, không cho người ta đọc khác. Trường hợp tương tự đã xảy ra khi Nguyễn Du viết:

Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây.

Người ta phải đọc luôn “Ôi Kim lang!” 3 tiếng, mà không thể đọc khác được.

Nhịp lục bát là nhịp võng, đã lên thì phải xuống, không bỏ ngang được.

Thơ lục bát sẽ trôi đi mất hình dạng, mất hiệu lực nếu chỉ là những dòng thơ không hình ảnh, những nhịp hai đều đặn, những câu mười bốn chữ không xong một ý nào.

Ngôn ngữ hình tượng đòi hỏi trước hết sự quan sát. Trước hết hình tượng. Ðời sống là cảnh tượng trước mắt, tâm hồn là cảnh tượng bên trong. Mô tả cảnh tượng trong những câu thơ chẵn là chụp cảnh tượng rộng lớn qua một ống kính cố định, không khuếch đại được. Những nhịp hai của sáu chữ trên, những nhịp hai của tám chữ dưới, đọc lên, thành bảy nhịp hai hết sức rời rã. Trong cái nhịp âm thanh cố định ấy, hình ảnh trở thành một yếu tố không thể không có được. Hình ảnh là chính, trong thơ Lục Bát. Âm điệu chỉ là đẩy hình ảnh chuyển động, như hơi gió để đẩy những mặt của chiếc đèn kéo quân.

Ngôn ngữ tượng hình là thứ ngôn ngữ bắt buộc phải có đời sống nơi thực tế. “Cổ cao, áo kín, đi về mình tôi.” Một câu lục của Cung Trầm Tưởng. Một hình ảnh có đường nét, có bóng tối và ánh sáng, có khung cảnh trong đó nhân vật lui tới.

Thơ Lục Bát tiền chiến của ta thường được coi như có hai trường. Trường Huy Cận. Trường Nguyễn Bính. Những người làm thơ Lục Bát ở đây hoặc được nhìn từ cổng trên, hoặc được ngó từ cổng dưới. Nhưng, dùng một câu của Jean Cocteau, “trong văn chương không có trường này trường nọ, mà chỉ có bệnh viện,” thì chúng ta có rất nhiều bệnh viện.

Như đã nói ở trên, thể lục bát là thể thơ có nhịp chẵn. Thông thường khi làm một bài lục bát, người thi sĩ sẽ cứ xuôi theo nhịp chẵn đó mà làm, và bài thơ sẽ đều đều như sau: “Trăm năm/ trong cõi/ người ta - Chữ tài/ chữ mệnh/ khéo là/ ghét nhau.” (Nguyễn Du) “Thôn Ðoài/ ngồi nhớ/ thôn Ðông - Một người/ chín nhớ/ mười mong/ một người.” (Nguyễn Bính) “Ta không/ muốn nắn/ cung đàn - Ðêm xưa/ dạo dưới/ trăng vàng/ đợi Em.” (Hồ Dzếnh) Với nhịp chẵn, đều đều như nhịp võng lên rồi xuống, kéo qua rồi lại kéo lại, thơ lục bát thường buồn. Tâm lý căn bản của lục bát là tâm lý buồn. Nó không bao giờ mạnh như thơ có câu lẻ và nhịp lẻ: “Thư tình không lạc/ trong tay mỏi - Ðã nản thêu thùa/ kim chỉ ôi.”( Xuân Diệu) “Hồn tôi/ như đỉnh hương - Bốc lên/ mình thánh giá” (Bích Khê).

Ðể tránh sự đều đặn trầm trầm cân đối của lục bát, những người hay làm lục bát, và đuợc nổi tiếng với thể thơ này, đã tìm nhiều cách phá cái nhịp đó đi.

Sau đây là vài cách dẫn chứng.

Nai cao gót/ lẩn trong mù
Xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về.

(Huy Cận)

Trăng ơi đừng bỏ kinh thành
Hồn cố đô/ vẫn thanh bình/ như xưa

(Ðinh Hùng)

Những gạch chéo (/) cho thấy người đọc không thể đọc một cách nào khác như đã gạch. Nghĩa là Huy Cận và Ðinh Hùng đã làm những câu trên với nhịp lẻ, dù đọc thế nào thì câu thơ vẫn có nhịp lẻ. Ví dụ đọc:

Nai cao gót/ hay Nai/ cao gót

Hồn cố đô/ hay Hồn/ cố đô

thì toàn câu vẫn có cái bố cuc của nhịp lẻ.

Sau đây là bài lục bát danh truyền của Tản Ðà:

Thề Non Nước

Nước non nặng một lời thề, Nước đi đi mãi không về cùng non. Nhớ lời nguyện nước thề non, Nước đi chưa lại, non còn đứng không.

Non cao những ngóng cùng trông, Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày. Xương mai một nắm hao gầy, Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương.

Trời tây ngả bóng tà dương, Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha. Non cao tuổi vẫn chưa già, Non thời nhớ nước, nước mà quên non.

Dù cho sông cạn đá mòn, Còn non còn nước hãy còn thề xưa. Non cao đã biết hay chưa? Nước đi ra bể lại mưa về nguồn.

Nước non hội ngộ còn luôn, Bảo cho non chớ có buồn làm chi. Nước kia dù hãy còn đi, Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui.

Nghìn năm giao ước kết đôi, Non non nước nước chưa nguôi lời thề.

Chú thích:

(1) Có hai người trước đó cho rằng thể lục bát của ta bắt chước Tàu, là Kiều Oánh Mậu và Ðào Nguyên Phổ. Phó Bảng Kiều Oánh Mậu viết trong bài tựa sách Tỳ Bà Quốc Âm rằng lục bát bắt chước Tàu, vì trong Kinh Dịch có câu có dạng lục bát. Thật ra đó chỉ là câu duy nhất ngẫu nhiên như thế, nhưng có dạng bốn chữ, các câu khác bị cắt xén đi chứ không đúng nguyên văn. Trong tựa Truyện Kiều, Ðào Nguyên Phớ chỉ nhắc lại ý của Kiều Oánh Mậu.

(2) Lê Ðức Mao người làng Ðông Ngạc, ngoại thành Hà Nội, đỗ tiến sĩ năm 1505 đời Lê Uy Mục.

(*) Cây lông vịt

(3) Bài này từ trang đầu đến chỗ này là ghi theo tài liệu của NVH, có lẽ là Nguyễn Văn Hầu.

(4) Viên Linh, Nhật Ký Văn Nghệ, Khởi Hành số 10, ngày 3 tháng 7, 1969

 

Post ngày: 10/20/17 

Nguồn: Internet

 

 

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui lòng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những gì liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 10/20/17