|  | 
		Bột Gạo La Khê 
		Thân Trọng Tuấn   
		Cám ơn anh Lê Quang B́nh đă cho nhiều tư 
		liẹu của họ Lê 
		Làng La Khê thuộc huyện Quảng Điền, Tỉnh Thừa 
		Thiên. Từ Kinh Thành ra hướng đông bắc, tức ra đồn Mang Cá Lớn, xong qua 
		Bao Vinh, hướng về phía Bàu Đồn, qua ngả lang Thế Lại Thượng, Thế Lại Hạ, 
		đi thêm khúc nữa là tới. Làng La Khê nằm dọc theo con hói nhỏ. Trong 
		làng có mấy cái g̣ đất. G̣ chính giữa làng dùng làm nơi xây lăng ông 
		khai canh họ Lê. 
		Theo chuyện kể, th́ khi chúa Nguyễn Hoàng vào 
		trấn đất Thuận Hóa, có viên phó tướng họ Lê theo pḥ. Viên phó tướng họ 
		Lê này thuộc ḍng dơi vua Lê Lợi. Tông tộc từ khi theo vua dời đô ra 
		Thăng Long, hệ phái của viên phó tướng này chọn làng La Khê thuộc tỉnh 
		Hà Đông làm nơi định cư. Vào Nam, v́ lập được nhiều công trạng nên được 
		chúa Nguyễn phong đất thuộc vùng phía bắc sông Hương để lập thôn ấp, bèn 
		lấy tên là La Khê để tường nhớ cố hương. Khi mất chôn ở đấy. 
		  
		* Thượng Hạ La Khê 
		Năm 1775, quân Trịnh vào chiếm Phú Xuân, cho 
		san bằng hầu hết các lăng mộ các tiên vương chúa Nguyễn cùng tổ tiên các 
		công thần xứ Đàng Trong. Lăng viên phó tướng họ Lê cũng bị triệt hạ, mất 
		hết dấu tích. Sau này con cháu nương theo lời truyền, thuê người phát 
		dọn bụi lùm xong dùng trâu cày để t́m di tích. Kết quả chỉ thấy tấm mộ 
		bia bằng đá bị đập bể thành ba bốn mảnh mà thôi. Con cháu họ Lê cho xây 
		lại lăng mộ và nhà thờ Tổ. Tên của vị Tổ v́ lâu đời, lại theo tinh thần 
		kiêng cữ sợ bị phạm húy không dám nói động đến tên cha mẹ tổ tiên nên 
		con cháu về sau không c̣n nhớ rơ. Bài vị chỉ ghi là Lê Văn Lang để thủ 
		lễ. 
		Theo gia phả họ Lê do ông Lê Văn Kư soạn và 
		ông Lê Tịnh thuộc đời thứ 12 dịch từ chữ Hán ra chữ Việt La Tinh và hiệu 
		đính, th́ ngôi mả Tổ phát ngành văn, nhưng lại bị độc đinh, cho dù có 
		được thêm con trai th́ cũng sẽ bị chết yểu hoặc vô tự. Thành thử truyền 
		xuống đời thứ tám, chỉ có bảy người con trai, mỗi người cho một đời. Sau 
		cuộc đại biến Phú Xuân 1775, tuy ngôi mả tổ cùng mấy ngôi mộ đời kế tiếp 
		bị san bằng, xương cốt chôn lạc nơi khác, con cháu không ai biết được, 
		nhưng về sau ḍng họ Lê lại hưng thịnh lạ thường, văn vơ rỡ ràng. Truyền 
		tông đời thứ tám là ông Lê Văn Hộ có tài chữa bệnh, sung chức Ngự Y. Khi 
		ông Hộ gần 50 tuổi, đang công cán tại Quảng Trị, th́ được triệu vào Kinh 
		trị chứng đẻ khó cho một bà Phi mà quan ngự y tại triều cũng không chữa 
		được. Lê Văn Hộ vào, cho thuốc giục đẻ, bà Phi sanh ngay, mẹ tṛn con 
		vuông. Vua (gia phả không ghi vua nào) hài ḷng, tính chuyện ban thưởng. 
		Trong khi chừa cho bà Phi tại Kinh Đô, th́ ở Quảng Trị, thuộc địa phận 
		huyện đường do ông trấn nhậm có chứng dịch tả, người chết rất nhiều. Vợ 
		và con của Lê Văn Hộ cũng chết sạch. Lê Văn Hộ buồn chán, kịp vua triệu 
		vào tính chuyện ban thưởng. Lê Văn Hộ tâu hết gia cảnh hoạn nạn, xin cáo 
		quan về hưu. Vua thấu hiểu, cưới cho Lê Văn Hộ một lúc năm bà vợ để kiếm 
		con nối dơi tông đường. Lại ban cho một ngh́n mẫu đất chưa canh tác gọi 
		là lộc triều đ́nh thưởng cho vị thầy thuốc mát tay. Lê Văn Hộ lạy tạ 
		nhận lănh. Ra khỏi Kinh Thành, theo đường thiên lư, xuôi về hướng Nam 
		cách xa sông hương cả trăm dặm. Đến địa phận làng Truồi, thấy non nước 
		hữu t́nh bèn xin vua cho chọn đất ở đây. Vua ưng cho Lê Văn Hộ khai khẩn 
		lập ấp. Ngoài huyện Quảng Điền có xă La Khê là nơi lập nghiệp đă được 
		tám đời. Nay tuy lập 
		ấp mới nhưng không v́ thế mà bỏ quên cội 
		nguồn, Lê Văn Hộ bèn cải lại làm La Khê Thượng. Ấp mới tại Truồi là La 
		Khê Hạ. Thượng Hạ cách nhau hơn trăm dặm đường quan, đi bộ cả ngày mới 
		tới nơi. Tại Huế phân chia ranh giới làng xóm chỉ cách nhau bờ tre, con 
		đường, cái hói, khúc sông hay một cánh đồng là cùng. Vấn đề La Khê 
		Thượng Hạ chỉ dùng riêng trong hệ họ Lê của ông Hộ, chứ không được chính 
		thức chấp thuận trên văn thư hành chánh, v́ vậy ở Huế ít người biết đến 
		ấp La Khê Hạ bên cạnh sông Truồi dưới vùng Cầu Hai Đá Bạc. Đất nước Thừa 
		Thiên xưa nay vẫn có nhiều làng phân chia thượng hạ đông tây xa ngái 
		nhưng không quá xa cách nhau như thượng hạ La Khê. Xa xôi cho lắm cũng 
		chỉ như hai làng Dă Lê Thượng và Dă Lê Hạ cách nhau cả một cái đầm! (Chữ 
		nho chữ Hán cổ hủ rắc rối chào lui nhường chỗ cho chữ Quốc Ngữ. Có người 
		giỏi chữ Việt gốc La Tinh viết thành Giả Lê, Giạ Lê hoặc Dạ Lê thiệt là 
		vô cùng thông thái!) 
		  
		* Họ Lê hưng phát 
		Ông Lê Văn Hộ sau khi theo lệnh vua lập gia 
		đ́nh lần thứ hai, cưới luôn một ngh́n năm bà, sống cuộc đời nhàn hạ tại 
		ấp tân lập La Khê Hạ. Bà vợ Cả không con. Bốn bà kia đều 
		sanh con trai. Như vậy, ḍng thứ nhất vô tự. 
		Bốn ḍng c̣n lại đều có con nối dơi. Ông cho bà thứ năm và con trai của 
		bà lên thủ từ tại La Khê Thượng. Từ đây về sau, ḍng họ Lê hết nạn độc 
		đinh. Con cháu đầy nhà, thành công rạng rỡ. Xuống cho tới đời thứ mười 
		hai, vẫn lót chữ Văn hoặc tên không có chữ lót. Tới đời thứ mười hai trở 
		đi, con cháu vẫn giữ nguyên họ Lê nhưng chữ lót lại tùy ư chọn cho con 
		như chữ Quang, chữ Bá, chữ Đ́nh, v.v… Có người lấy họ vợ ghép vào tên 
		con. Tên gọi từ tên đơn như B́nh, Liễn v.v… đặt thêm tên kép (hai chữ 
		như Diệu Hương), tên mền (ba chữ như Bạch Hải Đường) hay tên đụp (bốn 
		chữ Thanh Hương Như Ư)... Theo sự ḍ hỏi, con cháu họ Lê phát ở nhánh 
		Nh́, nhánh Ba và nhánh Bốn. Nhánh Năm ở La Khê Thượng không phát lắm. 
		Nhà thờ Tổ vẫn ở La Khê Thượng, nhưng hàng năm con cháu tế kỵ đều quy về 
		La Khê Hạ bên cạnh sông Truồi. Hiện nay, con cháu họ Lê lên đến cả ngàn 
		người. Gần một nửa số người trong họ, Sau 1975, ra sống ở các nước ngoài 
		như Mỹ, Canada, Úc Đại Lợi và một số nước bên Âu Châu. 
		  
		* Bột 
		gạo La Khê 
		Người Huế khi nhắc tới tên làng La Khê là ám 
		chỉ La Khê Thượng ngoài Quảng Điền, phía bắc Hương Giang, nổi tiếng với 
		món bột gạo "La Khê". Gần La Khê có làng Thế Lại, phân chia Thế Lại 
		Thượng và Thế Lại Hạ. Hai làng Thế Lại cách nhau "cẩm tỉ" chưa đầy ba 
		bước, có mô "xa ngái" cả một ngày đường như Thượng Hạ La Khê! Một điều 
		hi hữu là con cháu ở La Khê Hạ dưới Truồi, có người tuy đă lên lăo mà 
		vẫn chưa bao giờ nghe biết cái thứ bột gạo La Khê, nói chi chuyện thưởng 
		thức? Gặp người hỏi đến, trả lời qua loa rằng “cái thứ bột gạo nớ con 
		liền bà tui vẫn làm”! Lần khân hỏi tới, sẽ được nghe trả lời đại khái 
		"mấy cái chuyện bột biếc th́ phải hỏi con liền bà tui mới đặng, chứ tui 
		không quen. Chờ khi mô có dịp, tui sẽ nói với con liền bà tui...". 
		Quư hóa chi mô, mọi lần bột gạo làng La Khê 
		vẫn bán đầy chợ, nhiều nhất là tại chợ Đông Ba. Bán từng mủng, từng 
		gánh. Bán dễ dàng v́ đây là thứ bột ngon nhất hạng, không thể so sánh. 
		Giá cả lại b́nh dân. Người ta mua về thường dùng cho nhiều việc, nhất là 
		đổ bánh bèo, gói bánh nậm, nhưng tuyệt nhất là để gói bánh lá ăn với chả 
		tôm. Ui chu chao! Lại một thứ khi ăn chỉ biết ngậm mà nghe cái thi vị 
		của cuộc đời đang th́ thầm mấy lời rất Huế! Bánh lá chả tôm nguyên thủy 
		không bán ngoài đường ngoài chợ. Phải có chuyện chi như ngày kỵ, ngày 
		chạp, hay ngày tết ngày nhứt để mấy bà mấy cô ưa trổ tài trổ tiếc như 
		vẫn thường thấy trong những nhà quyền thế danh gia, lâu lâu bày ra làm 
		cái chuyện đổi gió chút chơi! Bột làm bánh có nhiều thứ, nhiều loại 
		hạng. Duy chỉ có mỗi cái thứ bột gạo chính cống làng La Khê mới chịu 
		được sự cuốn tṛn khít rịt cái bánh lá nhúng nhính mà không găy đổ xếp 
		ṿng tṛn trong dĩa sứ men xanh vây quanh mấy lát chả tôm đỏ nâu óng ánh 
		như e dấp “dem thèm” khiến vừa mới thấy thoáng qua đă làm cho "người ta" 
		bắt rệu nước miếng. 
		Khi nói tới bột gạo, người ta thường h́nh 
		dung một thứ trắng mịn đựng trong bao, trong hũ, tuyệt đối tránh xa gió 
		máy v́ gặp gió, bột sẽ dễ bị cuốn theo làm mây trắng bay! Bột gạo La Khê 
		lại khác. Bột nằm trong thúng, trong mủng trông giong như mấy con nhộng 
		không đầu, hoặc như bó đũa tre cột thắt lỏng le, mấy cọng bột to dài như 
		ngón tay út, cong cong lổn nhổn, có khi lại dính chùm dính nút v́ khi 
		bột vừa ép lọt qua cái sàng xưa, mỏi tay nên xếp xoay không kịp trước 
		khi phơi, nên bây chừ thôi th́ cứ để kệ cha ông cố nội mượt kệ cho hắn 
		rối, chứ ai hơi mô ngồi mà gỡ lỡ găy bể vụn bể vằn biết bán cho ai? 
		Người bán bốc từng nạm, đong từng chén, gạt từng phần hay xoay nguyên cả 
		mủng tùy theo ư người mua. Bột cũng không trắng tinh như trứng gà bóc và 
		thua xa màu trắng của loại bột gạo xôm xốp bỏ bao giấy dầu đục in chữ đỏ 
		bán từng kư trong mấy tiệm chập phô của các chú ba tàu. Bột gạo La Khê 
		sau khi mua về, phải bỏ vô trong chậu nước, khuấy tan xong gạn lọc lại 
		cho sạch hết cát sạn rác rến dính theo trước khi dùng, thiệt là công kỹ. 
		  
		* Chuyện Mợ Ấm Năm 
		Vấn đề chế biến bột gạo của làng La Khê xưa 
		nay vẫn ở trong t́nh trạng khó hiểu. Người ta cho rằng dân làng La Khê 
		giấu nghề thiệt kỹ, lại không truyền cách làm bột cho con gái. Có nhà 
		chỉ truyền cho con trai trưởng. Ôi thôi người ta đồn đủ thứ, nghe mà 
		phát mệt. Có dịp ra làng La Khê chơi th́ chỉ thấy một số bột phơi sẵn, 
		hoặc may lắm là thấy người ta đang quay bột. Hỏi th́ người ta cũng chỉ 
		cho cách làm, nhưng khi về làm thử, kết quả vẫn không giống như thứ bán 
		ngoài chợ nổi danh là Bột La Khê! 
		Có người chủ tâm muốn học lóm cách làm bột, 
		nhân việc đi mua phân heo bón ruộng cho gia đ́nh, sai người gánh cả gánh 
		tiền nặng trĩu để trước sân hầu chủ nhà thấy giàu sẽ nghĩ rằng kẻ mua 
		phân không cần chi nghề làm bột. Trong lúc người làm ra phân, gánh xuống 
		đ̣ đậu dưới bờ hói, kẻ chủ tâm mới thật kiên chí, tuy đang tuổi cặp kê, 
		tóc xơa đuôi gà, nhưng đóng bộ chủ nhân thật trưởng giả, lững thong xem 
		xét từng hạt lúa, hạt gạo trong cối xay. Lén xem cách giă gạo, vút gạo, 
		lại lén nếm cả nước ngâm, nh́n các cách khuấy bột, ép bột và phơi bột 
		luôn hai ba năm liên tiếp, thậm chí có lúc giả vờ hết gạo để này mua lại 
		thúng gạo của chủ nhà, múc luôn cả luôn cả lu nước xong đem về làm thử. 
		kết quả: bánh vẫn bở rời không dẻo. Sự ṭ ṃ vẫn không thôi. Sau khi về 
		nhà chồng, thấy giàu có bạc triêng bạc thúng nhưng chuyện học cách làm 
		bột của xă La Khê vẫn không nên việc, mới nghĩ rằng muốn mượn quyền thế 
		nhà chồng cho thỏa măn sự ṭ ṃ. Quan thượng thấy cô dâu mới tháo vát 
		lanh lợi, thỉnh thoảng cho gọi lên hỏi chuyện.Cô dâu thưa gởi rơ ràng, 
		luôn tiện xin quan Thượng cho hỏi người để học cách làm bột gạo La Khê 
		nghe cô dâu mới hỏi, quan Thượng cứ ừ hử cho qua. Không nản chí, biết 
		chị chồng có người về làm dâu làng La Khê, vẫn gọi là Bà Cô La Khê, liền 
		kiếm cách làm thân. Chiều ư cô vợ mới, cậu Ấm Năm đưa đi thăm chị Huấn 
		vài ngày. Chị em tâm sự chuyện nọ chuyện kia, đến chuyện bột biếc, bà Cô 
		La Khê thở dài thườn thượt nói với cô em dâu rằng "Ń thím Ấm Năm, vợ 
		các quan cũng như vợ những người biết chữ không cần học chi cái nghề làm 
		bột. Muốn bao nhiêu xe, bao nhiêu tàu, người ta sẽ chở tới tận cửa tận 
		nhà cho tiện. C̣n cách làm bột th́ theo như lời người ta nói, công việc 
		rắc rối khó nhọc nặng nề, không dám để các cô các bà bận tâm. Chính như 
		"tơ" đây, chồng là Huấn Đạo, ngày Tế làng tế Họ, hay ngày kỵ ngày Tết, 
		anh Huấn vẫn ngồi chiếu trên trọng vọng, muốn chi có nấy. Thế mà “tơ” về 
		làm dâu hơn mười năm nay, nếm không biết bao nhiêu xửng bánh, nhưng nội 
		cách làm bột th́ thiệt t́nh chẳng biết chút chi...!" 
		Vốn trước tê khi chưa lấy chồng, mợ Ấm Năm 
		vẫn thường đi mua phân heo rải ruộng, đă quen hết cả làng La Khê. Gặp 
		ai, mợ cũng chào thưa liến thoắng nên được cảm t́nh. Người làng cũng 
		chào lại o nó o tê. Bây chừ làm em dâu bà Huấn trong làng, nên thân hơn, 
		thành mợ thành bà. Mấy nhà làm bột cũng chiều nể "cái cô mợ Ấm Năm tọc 
		mạch" nên mới cho xay, khuấy, ép, phơi phong không thiếu thức chi. Bột 
		ra trông thiệt ngon lành, ḷng tươi vui phơi phới. Lấy cớ là để tỏ ḷng 
		quư mến biết ơn chị chồng đă dạy thêm cho cách xử sự về đạo làm dâu 
		trong mấy ngày qua, bèn xin hấp xửng bánh đầu tay, xong mời chị chồng 
		thời thử mấy cái, chẳng dám thưa là bột của ḿnh làm. Bà huấn vô t́nh, 
		ăn xong tấm tắc khen ngon, c̣n cậu Ấm Năm cũng hỏi thêm là bột lấy của 
		nhà ai để sau này lúc cần sẽ nhắn biểu mang tới cho khỏe, đỡ phải mất 
		công lựa chọn, mợ Ấm Năm cúi đầu dạ dạ cho qua. Khi trở về, mợ Ấm Năm 
		không quên mua thêm thúng gạo. Tới nhà, cũng thong thả cho ngâm xay ép 
		khuấy không khác chút chi. Mớ lá dung bẻ tim tước cọng rửa sạch lau khô 
		sắp bày ngay ngắn. Chiếc đũa bếp quẹt bột phết gọn gàng thẳng thớm thiệt 
		đều tay. Bánh hấp xong rồi, lấy ra khỏi xửng, vuốt xếp phẳng phiu, chờ 
		cho nguội hẳn. Lột lá ra thấy mặt bánh cũng óng mướt ngon lành. Dùng 
		chiếc đũa gạt ngang nâng cái bánh lên th́ cả cái bánh cũng uẩn cong nhún 
		nhẩy. Nhưng mà lạ chưa tề, sau khi cuốn tṛn miếng bánh, chưa kịp xếp vô 
		dĩa đă thoáng thấy lớp bột bánh rung rinh, rồi theo đó cứ từ từ nứt rạn. 
		Ôi thôi rồi, trời chao biển động với nỗi giận hờn lai láng! Thiệt khó 
		chịu rơ ràng như Công Dă Tràng khi mông mang nguyên cả một xe cát đến đổ 
		đầy sân chận hết lối vô ra! Tức lộn ruột muốn xáng một cái cho rồi đời 
		xong om củ tỏi! nhưng nề nếp gia phong, buồn phiền không cho lộ ra mặt. 
		Kiêng kỵ khắt khe đến cả tiếng thờ dài! Mợ Ấm Năm vẫn âm thầm kiên nhẫn 
		lấy mớ bột cũ c̣n lại từ hồi học làm thử ở nhà người ta ngoài nớ ra làm 
		tiếp. Vệt bột giáo hai lần hai thứ nh́n thiệt kỹ cũng chẳng khác chi 
		nhau, nhưng mấy cái bánh về sau này lột cuốn thiệt dễ dàng, xếp vô dĩa 
		trông ngon lành hết sức, vừa gắp cho vào miệng mà hương vị đă thấm tận 
		đến chân răng!... Sự ấm ức cũng tạm có cách trả lời: Bột ngon là do tại 
		dùng nước của con hói La Khê để ngâm và xay đăi gạo! Nếu dùng nước múc ở 
		chỗ khác th́ sẽ hết dẻo hết ngon! 
		  
		* Chút chuyện đời xưa 
		Bột gạo La Khê ngon lành lại bổ! Các ông thầy 
		thuốc bắc cũng thường chọn để dùng làm con viên cho một số thuốc hoàn. 
		Lớp áo bao viên thuốc không bị nứt, nên thuốc giữ được lâu, vẫn đẹp, vẫn 
		không hư. Lại nữa, các bà, các cô mọi lần vẫn dùng phấn nụ làm bằng bột 
		gạo để bôi mặt, thường kén chọn kỹ càng cho đúng bột La Khê. Mua thứ 
		khác về bôi, nhiều khi sinh loam đốm vết chân ruồi, hoặc là đâm ngứa 
		ngáy, lại phải tốn công sai người t́m con tằm thẳng cứng lâu lâu cũng 
		thấy bày bán ngoài chợ gọi là "bạch cương tàm” về tán bột bôi thêm để 
		gọi là làm tốt nọ kia. Mấy bà mấy cô đi chợ mua phấn nụ là chuyện 
		thường, chứ ai lại hỏi mua con tằm khô căng thiệt thẳng nghe bắt dị, cho 
		dù có úp nón che nghiêng vẫn không hết ngượng ngùng. 
		Không nghe ai nói ông thợ mă dùng bột gạo La 
		Khê khuấy hồ để phất nộm, ngựa, hoa, quả, thụ, bằng v.v… Thời đại văn 
		minh, người ta chê chẳng c̣n mặc áo quần vải quyến vuốt hồ thẳng thớm. 
		Quần áo nhà binh ủi láng say sắc cạnh không câu nệ loại hồ, miễn sao "đứng" 
		là được. Những loại mỹ phẩm của mấy bà dùng bôi mặt xoa tay bán đầy cửa 
		hiệu, thơm tho đẹp đẽ và tốt gấp mấy vạn lần thứ bột gạo quê mùa. Bây 
		chừ ai hơi mô có th́ giờ để mắn mó làm công việc như thời xa xưa nhàn 
		tản, ngồi cả ngày xay rây mớ bột gạo xong bốt đổ từng nụ phấn “don don”, 
		h́nh dáng trông như mấy con men làm rượu. Đến như bánh nậm, bánh lá cũng 
		thay h́nh, đổi vị, lại c̣n trộn thêm bột nọ bột ḱa cho dẻo cho dai! 
		Miếng chả tôm bôi phẩm ṭe ḷe chứa toàn mấy thứ bột khoai bột bắp bột 
		ngọt bột tùm lum nên ngon cũng gần bằng miếng đậu hũ loan bột ḿ căn 
		chiếu với thứ dầu cháy cặn nâu nâu, lại cắt ngang bổ dọc h́nh dài như 
		thạch xoa rau câu trông thật hồng hoang của kỷ hà thời đại. Cũng như 
		bánh canh Nam Phổ bây chừ chỉ c̣n một chút dư âm, v́ sau khi múc ra, để 
		một chút đă vữa tan lỏng la lỏng lét, có mô như lúc thời xưa, chén bánh 
		canh để từ sáng đến trưa cho dù có nguội ngơ nguội ngắt vẫn đặc sền seat 
		vây quanh cọng bánh canh dẻo rền, thêm vào đó mấy thứ nhụy tôm hồng hồng, 
		điểm tí ớt vằm đỏ đỏ chen mấy lát hành tim tím xanh xanh cứ đứng lưng 
		chừng trong chén thấy thiệt đă thèm; bột gạo La Khê thứ thiệt chứ không 
		c̣n thấy bày bán ngoài chợ, có lẽ đang theo chân cái vạy tre vốn có mô 
		từ thời công chúa Huyền Trân mở nước để người ta ăn bánh bèo, bánh nậm 
		và mấy thứ chè đặc, đă bị bỏ quên không dùng đến hơn năm bảy chục năm 
		nay. 
		  
		* Chú Thích: 
		(1)Theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quư Đôn 
		th́ trong thời quân Trịnh chiếm Phú Xuân, La Khê chỉ là một phường thuộc 
		Tổng Kim Long, huyện Kim Trà, xứ Thuận Hóa. Tổng Kim Long lúc này gồm 17 
		xă, 11 phường, 1 sách, 1 châu và 1 ấp. 
		(Phủ Kim Long nằm trong địa phận xă Kim 
		Long, thuộc Tổng Kim Long. Phủ, xă và tổng đồng mang tên là Kim Long). Nguồn: Saigontimesusa.com   |