Home Tìm Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
 

Mạn Bàn Về Các Loài Hoa



Hằng năm sau khi mùa Đông mặc áo ấm ra đi, mùa Xuân phơi phới lại đến để bắt đầu một năm mới theo chu kỳ của tạo hóa thiên nhiên cho không gian chúng ta bừng sống lại của hương hoa phảng phất, để muôn hoa phô sắc thắm và người ta nói đến sự thưởng ngoạn vẻ đẹp của hoa, để chúng ta sẽ bàn thêm về những loại hoa. Một cành mai gầy trong gió đông hay một chiếc lá ngô đồng rụng báo hiệu mùa thu sắp đến, hay một đóa sen tỏa hoa vào mùa hạ; Hoặc một nụ tầm xuân vừa hé nở … đều được con người chiêm ngưỡng, quan sát như những biến dịch của trời đất, rồi từ đó suy nghiệm, nhận ra những qui luật tiến hóa của thiên nhiên trong ý niệm sanh diệt.

Hoa là biểu hiện cho cái đẹp mà tạo hóa đã ban tặng cho con người. Sự hiện diện của hoa trong địa cầu hay cuộc sống giúp cho tâm hồn con người dễ hòa nhập vào với thiên nhiên,vơi bớt những ưu phiền. Cái đẹp của hoa biểu tượng cho sự hoàn thiện và vĩnh cửu, dù cho hoa có sanh diệt theo lẽ vô thường. Người ta yêu hoa vì cái đẹp của hoa, của đời và của người. Nhưng con người khi yêu cái đẹp đã vô tình đem cái đẹp của hoa giam vào xã hội nhân thế đa đoan. Con người tùy theo sở thích, quan niệm riêng tư trong cung cách xử thế, đã phân định đẳng cấp cho hoa như: Mẫu đơn là Vương giả chi hoa; Hà hoa(hoa sen) là Quân tử hoa; Nguyệt Quế là Hoàng hậu hoa; Sơn trà là Trân phẩm hoa; Đỗ quyên là Tây Thi hoa, v.v.…


 



Ba từ ngữ đồng nghĩa "Huê", "Bông" hay "Hoa" được con người chia thành hai lọai chính: loại đẹp (sắc) và loại thơm (hương). Nên ta có những hoa vừa đẹp vừa thơm (hữu sắc hữu hương), những hoa chỉ đẹp không thơm (hữu sắc vô hương), những hoa chỉ thơm không đẹp (hữu hương vô sắc), hay đến những hoa không đẹp không thơm ( vô hương vô sắc/hoa cỏ ngậm ngùi hic, hic...). Đó chỉ mới nói về sự thưởng ngoạn hương sắc hoa. Còn nói về thể chất hoa thì có hoa mỏng manh, có hoa bền bỉ, có hoa mềm mại,có hoa cứng cát …Về màu sắc thì muôn màu như trắng, đỏ, tím, vàng... Chưa kể đến sự hiện hữu của hoa trong văn chương thi phú, thơ ca... cho đến “nền“ văn hóa ẩm thực, như các loại hoa không ăn được và hoa ăn được dùng làm thực phẩm.

Hoa dùng làm thực phẩm thì cũng có hoa đẹp, hoa không đẹp, nhưng thôi xin không bàn về sắc hương nữa , mà chỉ nói đến các món ăn được chế biến từ các loại bông hoa như: bông bí, hoa chuối, bông điên điển, bông lục bình, bông hẹ, hoa hiên, bông lẻ bạn, bông mướp, bông sầu đâu, bông so đũa, bông sen, bông súng và hoa thiên lý.

BÔNG BÍ:

Bông bí dùng để ăn là bông bí đực của cây bí rợ, không thể đậu trái. Bông bí lớn, màu vàng tươi rất vui mắt. Bông bí được cắt chừa cuống dài, bó thành bó nhỏ đem ra chợ bán, nhưng không có nhiều, chỉ có theo mùa. Thông thường bông bí đem về được rửa sạch, sau đó luộc chấm nước kho cá, kho thịt hay chấm nước tương dầm ớt. Bông bí luộc có vị ngọt, hơi nhân nhẫn, phần tiếp giáp giữa cuống và bông hơi dai dai, ăn rất ngon. Bông bí còn dùng để nấu canh, xào tỏi, xào thịt bò, xào nghêu…xào bông bí phải canh cho vừa chín mới còn dòn. Món đặc sắc nhất của bông bí là “bông bí dồn thịt chiên“ hay còn gọi là chả bông bí.

Bông bí vừa chớm nở phải hái xuống ngay, tướt xơ ở cuống, xoi tim, rửa sạch, để ráo.Tôm, mực, thịt nạc vai heo quết nhuyễn, trộn tiêu hành, mắm muối, bột năng. Bẻ gập các cánh hoa úp đè lên nhau, nhẹ tay bỏ vào chiên với lửa nhỏ để bông bí còn màu vàng tươi, không bị cháy xém. Chả bông bí beo béo, thơm thơm, chấm nước tương dầm ớt. Món ăn này thường được làm trong những ngày giỗ, tết của gia đình hay tụ họp, đãi đằng, chả bông bí không những phổ biến ở miệt vườn lụcv tỉnh nam bộ, mà còn nổi tiếng ở miền trung như Huế nữa. Ca dao miền Nam có câu:

"Má mong gả thiếp về vườn
Ăn bông bí luộc, dưa hường nấu canh"

Hiện nay với trào lưu fast-food đã Tây phương hóa dần dần cung cách ăn uống ở Đông phương nói chung, ở Việt Nam nói riêng, bạn tôi nhà thơ TTSH đã cho câu thơ “ý nghĩa” rằng thì là:

"Má mong đưa thiếp lên thành
Biết ăn fast-food cho rành… người ta"


HOA CHUỐI:

Người miền Bắc gọi là hoa chuối,thì người miền Nam lại gọi là bắp chuối. Thường buồng chuối trổ đủ nải rồi, người ta cắt bớt đi các bắp chuối. Bắp chuối có màu tím, ngon nhất là bắp chuối hột. Bắp chuối được chế biến thành nhiều món ăn như: trộn gỏi, nấu canh, ăn ghém và chiên làm đồ chay…

- Gỏi bắp chuối (nộm hoa chuối ): Bắp chuối lột bỏ phần bẹ già, còn phần non xắt mỏng, ngâm nước pha chanh hay dấm cho khỏi đen và ra bớt nhựa, vớt ra, để ráo.Trộn chung với tôm thẻ, thịt heo luộc, hến, gà luộc xé phay hay vịt luộc chặt miếng… rồi rau răm, củ hành tây xắt mỏng, đậu phọng rang giã nhỏ, nước mắm pha đường, chanh, tỏi, ớt.

- Canh chua bắp chuối: Bắp chuối phần non thái mỏng, nấu canh chua me dầm với tôm, cá, lươn…

- Bắp chuối bào trộn với các thứ rau sống khác, rau muống chẻ để ăn chung với các món nước như: bún riêu, bún bò, lẩu các loại…

- Phần trắng giữa bẹ bắp chuối được dùng thế mì căn làm món chay như gà xào xả ớt, tôm lăn bột chiên.

Cây chuối rất dễ trồng ở Việt Nam. Hình ảnh của bờ tre đầu làng, bụi chuối te tàu sau vườn là hình ảnh của quê nhà trong tâm người xa xứ, bụi chuối còn là hình ảnh người đàn bà Việt Nam trong ca dao:

"Gió đưa bụi chuối sau hè
Anh theo vợ bé, bỏ bè con thơ
Con thơ tay ẳm, tay bồng
Tay dắt mẹ chồng, đầu đội thúng bông"

BÔNG ĐIÊN ĐIỂN:

Còn được gọi là “hoa mùa lũ” hay “hoa cứu đói”. Do mỗi năm, khoảng một tháng sau khi nước lên theo mùa, ở vùng châu thổ sông Cửu Long, bông điên điển trổ đầy cành những cánh hoa vàng rực rỡ, trên những cánh đồng ngút ngàn. Trong những ngày không làm việc được để kiếm tiền, người nông dân chống xuồng ba lá đi hái bông điên điển tươi bán đổi gạo, làm dưa, hay nấu cháo với bông, luộc bông ăn cầm cự đói:

"Cầm trên tay chùm “hoa mùa lũ”
Tên lòai hoa chân chất quê nhà
Bông điên điển nở vào kỳ giáp vụ
Vượt lên trên ngầu đục phù sa
“Hoa cứu đói “, bà con thường gọi thế" (Bùi Văn Bồng)

Bông điên điển lặt, rửa sạch, ngâm với giá sống trong nước muối có độ mặn vừa phải, chừng 3 ngày thì chua, thành dưa điên điển, dùng chấm nước kho cá, kho thịt, nấu canh với cá rô. Mùa nước nổi là mùa tôm cá sinh sôi đầy đặc dưới nước. Người ta giăng lưới, câu, xúc, kéo vó quanh nhà chừng nửa giờ là có cá rô con, rô mề cỡ mấy ngón tay. Canh dưa điên điển cá rô chẳng cần nêm, nếm gì thêm cũng đủ vị mặn, chua hấp dẫn. Bông điên điển dùng làm rau sống nhúng lẩu cá, lẩu mắm, xào tép, thay giá làm nhân đổ bánh xèo với thịt heo, ăn với các loại rau, đọt trong vườn, chấm nước mắm pha tỏi ớt; Làm mắm chay hoặc Nấu canh chua. Mùa điên điển ra bông cũng là mùa cá linh từ Biển Hồ trôi giạt xuống vùng sông Tiền, sông Hậu. Cá linh nấu với me sống vừa chua, làm lẩu, nhúng chỉ duy nhất bông điên điển vào. Hoặc bông điên điển được nấu canh chua với cá bông lau, đậu bắp như trong thơ Bùi Chí Vinh:

"Tôi biết có nồi canh điên điển
Cá bông lau, đậu bắp, mỡ hành
Em ngậm cái màu bông chín nõn
Thẹn thùng không nói được tiếng : anh
… Con sáo sang sông, con sáo hiếm
Kỳ hoa thành lẩu đãi nhà quan
Đâu biết có nồi điên điển luộc
Ăn thay cơm trên sóng thủy thần
Em ngậm cái bông màu nước mắt
Kỷ niệm buồn như một tiếng anh"

Hay hình ảnh bông điên điển và bông lục bình trong ca dao miền Nam:

Lục bình bông tím, điên điển bông vàng Điên điển mọc ở đất làng Lục bình trôi nổi như chàng hát rong

BÔNG LỤC BÌNH:

Còn có tên là sen nhật, bèo tây. Lục bình là thân cây cỏ, sống nổi trên mặt nước, có cuống phồng lên thành phao nổi. Lá có gân, hình cung. Hoa mọc thành chùm ở ngọn. Hoa không đều, có màu tím xanh, đài hoa và tràng hoa cùng màu, dính liền nhau ở gốc. Cánh hoa trên có đốm vàng, 6 nhụy (3 dài, 3 ngắn). Người ta dùng bông lục bình làm gỏi, chấm nước cá kho.

"Lục bình ai thả trôi sông
Mà sao tím cả mấy giòng sông quê
Xa nhà, xa mấy triền đê
Mà nghe thương nhớ lối về mênh mông
Ai về tìm lại khỏang sông
Có hoa tim tím cánh đồng ngày xưa"
(Hòai Trâm)

BÔNG LẺ BẠN:

Cây lẻ bạn có nguồn gốc từ các nước Trung Mỹ, được trồng rộng rãi ở Việt Nam. Cây trồng trong chậu làm cây cảnh, trồng ngoài vườn để làm thuốc. Cây có thân rất ngắn, lá mọc gần như sát đất. Lá không cứng, có bẹ, đầu thuôn dài, mặt trên màu xanh lục, mặt dưới màu đỏ tím. Cụm hoa nhỏ, mọc ở nách lá, ngoài có hai mo úp vào nhau, giống như vỏ con sò, nên còn được gọi là bông sò huyết (oyster plant). Hoa màu trắng, dùng làm thuốc trị ho, hay nấu canh với xương heo ăn cho mát, bồi bổ cơ thể suy nhược.
Đâu phải tại bông mà mình thành lẻ bạn:

"Tại tía má em đành đọan
Đốn ngọn cây bần
Chê anh nghèo áo chẳng ấm thân
Không cho ghe cá được gần ghe tôm."

BÔNG HẸ:

Cây hẹ đây là hẹ trồng, chứ không phải hẹ nước để ăn mắm kho. ông hẹ tiếng Tàu gọi là Cửu thái, tiếng Anh là Chives. Bông hẹ màu trắng. Nấu canh với đậu hủ tươi ăn giải nhiệt . Xào với lòng gà (tim , gan ,mề), nghệ ăn để trị ho.

BÔNG MƯỚP:

Cây mướp dễ trồng, thuộc họ dây leo, chưa phủ kín giàn đã ra hoa. Người ta thường có câu: ”Nụ cà, hoa mướp“. Hoa mướp màu vàng rực, nụ hoa tròn và đen. hông bằng bông bí, nhưng hoa mướp cũng được dùng luộc, xào lòng gà, ngon nhất là hoa mướp hương , ăn bùi và béo.

BÔNG KIM CHÂM:

Tiếng Tàu gọi là kim châm hay hoàng hoa. Tiếng Việt gọi là hoa hiên. Cây thường mọc hoang. Cuống hoa da`i từ 80- 100 cm, đầu cuống chẻ làm hai, có từ 6-12 hoa. Hoa màu vàng, phơi khô thành màu nâu. Người ta thường dùng hoa kim châm khô với nấm mèo để nấu canh, hầm thuốc bắc, tiềm vịt, gà… Hoa kim châm có vị ngọt, tính mát, được dùng làm thuốc lợi tiểu, giảm đau, chữa chảy máu cam. Ngày nay cây được trồng nhiều ở vùng cao nguyên Trung phần Việt Nam.

BÔNG SÚNG:

Cây súng là giống cây mọc hoang dại quanh năm ở dưới nước của đồng bằng miền Nam. Từ ao, hồ, đầm đến mương, kênh, rạch,láng, bàu, trũng… Vùng Đồng Tháp Mười cây súng mọc nhiều nhất, nên ca dao miền Nam có câu:

"Muốn ăn bông súng mắm kho
Thì vô Đồng Tháp ăn cho đã thèm"

Cây súng có lá tròn giống lá sen, phía trên màu xanh lục, phía dưới màu hồng nhạt, nổi trên mặt nước. Có hai loại bông súng: Súng sen được trồng ở đầm chùa, ao làng có bông màu tím đỏ, rất to. Súng dại có cuống lá nhỏ, bông màu trắng hay tím. Bông súng có nhiều lá noãn gắn với nhau thành một bầu nhiều ô. Bông có 4 lá đài, 20-30 cánh hoa, 30-50 nhụy. Nhụy bông súng màu vàng. Thật ra, người ta chỉ xài phần thân, cọng súng màu nâu, nhưng vẫn gọi đó là bông súng.

Bông súng muốn ăn phải tướt vỏ, xắt khúc, ngâm nước cho sạch. Bông súng dùng trộn gỏi; Ăn sống với mắm kho; Nấu canh chua với cá đồng; Bóp muối cho héo, ngâm giấm làm dưa.
 

BÔNG SEN:

"Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh, bông trắng lại chen nhụy. vàng
Nhụy vàng, bông trắng , lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn"

Hoa sen từ xưa đến giờ vẫn được xưng tụng là một loài hoa thanh khiết, được dùng để dâng, cúng Phật . Hoa sen hữu hương, hữu sắc. Hoa sen trắng mang vẻ tinh khiết. Hoa sen hồng có nét thắm tươi. Phù cừ là tên một loài sen nổi tiếng. Nói về hoa sen thì không bút mực nào kể cho xiết. Từ chuyện ngài Ma Ha Ca Diếp nhìn sen mà bừng nở tâm hoa, mỉm cười ngộ đạo trong câu chuyện “Niêm hoa vi tiếu” của Phật giáo đến những cái diệu kỳ, tinh túy của hồn hoa sen. Hoa sen là một loại thực vật đắc dụng vô kể , không bỏ xót thứ gì. Trong địa hạt Đông y , mỗi bộ phận của cây sen có tính trị liệu khác nhau:

- Gương sen (liên phòng) , lá sen (hà diệp), vỏ ngoài hột sen: tánh mát, trị tiêu chảy, cầm máu.
- Hột sen (liên nhục):
vị thuốc bổ tì, bổ thận.
- Nhụy sen (liê tu): thông thận, cầm máu,giữ tinh(liên tu bất tận).
- Tim sen (liên tử tâm/lõi xanh trong hột sen): an thần, trị huyết áp cao.
- Ngó sen (liên ngẫu): thanh nhiệt, dùng sống giải rượu, nấu chín giải độc trong thức ăn đồ biển.

- Củ sen: chữa bệnh mất ngủ, hoạt tinh.

Trong phạm vi ẩm thực, cây sen được xử dụng từ: Gương sen phơi khô đem đun thay củi; Lá sen gói cơm, xôi, quà bánh giữ được hương vị rất lâu; Lá sen non nấu cháo trị chứng giữ nước, phù thủng…

Hột sen tươi hay khô được xỏ xâu dùng nấu chè , làm bánh, làm mứt, tiềm vịt, tiềm gà,… Ngó sen làm gỏi. Củ sen làm mứt, luộc, chiên bột, hầm canh… cho đến trà ướp hương sen. Hoa sen vị ngọt, hơi đắng, không độc, có tánh ấm, giúp an thần, trị xuất huyết. Có một món ăn nấu từ hoa sen của nhà văn Tản Đà, đã trở thành giai thoại: Vịt hấp hoa sen. Ông cho rằng tinh túy của sen đọng lại ở hoa, nên dùng cánh hoa sen phủ kín vịt để hấp cách thủy. Vịt ở đây là vịt tơ vừa, được làm sạch bằng rượu, khử mùi bằng gừng, ướp gia vị cho thấm trước. Khi vịt chín, bao nhiêu hương hoa ngấm hết vào thịt. Ăn cả thịt vịt mềm, không bị béo ngậy cùng hoa thơm, nọt. Đến hết vẫn còn “vương vấn“ hương vị, cứ như là: ” Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng“ ( Nguyễn Du ), còn theo ý thơ của Mạnh Giao: "Thiếp tâm ngẫu trung tị , tuy đoạn do khiên liên" (Lòng thiếp tơ trong ngó sen, dù đứt còn vương hoa)

BÔNG SẦU ĐÂU:

Tên gọi sầu đâu dễ bị lầm lẫn với tên gọi là thầu đâu, là sầu đông của cây xoan ta. Cây sầu đâu có nhiều ở vùng Thất sơn, An Giang, Châu Đốc, những tỉnh giáp giới Campuchia. Cây sầu đâu thân gỗ, cao to,vỏ sần sùi ,chứ không trơn láng như thân cây xoan ta. Lá xoan ta độc, không ăn được, còn lá non và bông sầu đâu thì ăn được. Lá sầu đâu dùng làm thuốc sốt rét. Bông sầu đâu ra hoa vào mùa xuân, màu trắng, mọc thành từng chùm như hoa nhãn, dùng làm gỏi. Gỏi sầu đâu tương đối dễ làm: Rửa sạch bông và lá non, có thể trụng sơ qua nước sôi. Nướng khô cá sặc rằn, khô cá lóc, xé nhỏ, bỏ vào. (Nếu không có khô thì có thể thế bằng cá lóc nướng trui xé nhỏ). Trộn thêm rau thơm, hành tây xắt mỏng, xoài băm sợi… Ăn với nước mắm me, đường, ớt. Gỏi sầu đâu có vị đắng nhưng hậu ngọt dai.

"Thấm hoài vị đắng sầu đâu
Thương bông so đũa trắng đầu… má ơi !"
NTTN

BÔNG SO ĐŨA:

Cây so đũa hoặc mọc hoang, hoặc được trồng nhiều ở các vùng bờ quanh ruộng của đồng bằng sông Cửu Long. Cây so đũa thon cao, thẳng, vỏ nham nhám, xù xì, nứt nẻ. Trái so đũa nhỏ dài , hình dáng như chiếc đũa. Thân cây so đũa dùng làm cột nhà, cấy nấm mèo. Lá là món hảo của dê. Bông so đũa mọc ở trên cao, kết thành từng chùm , có 2 màu: trắng và tím. Bông so đũa có vị nhân nhẫn đắng, nhưng ngọt hậu. Đầu tháng 10 âm lịch trở đi , cây so đũa đồng loạt ra hoa, cùng lúc với mùa cá linh để có món ăn nức tiếng là cá linh nấu canh chua bông so đũa. (Cá linh thường được dùng làm mắm để dành; Chế biến nhiều món như kho mặn, kho mẳn lót mía, kho mắm với cà tím, kẹp vỉ nướng, chiên giòn, nấu canh chua với bạc hà… ). Bông so đũa lặt cuống, rửa sạch. Nấu nước sôi,dầm me, thả cá linh, nêm vừa miệng, hớt bọt, cho bông so đũa vào là nhấc xuống liền , để bông còn giòn mới ngon. Trên mặt bỏ ngò gai, rau om xắt nhỏ, thêm một chút tỏi phi, vài lát ớt tươi. Không có cá linh, người ta nấu canh chua so đũa với tôm, tép. Bông so đũa còn dùng luộc, xào, đặc biệt là món cá lóc bọc bằng bông so đũa hấp, chấm nước mắm đồng dầm ớt.

HOA THIÊN LÝ:

Cây thiên lý là một loại dây leo, dài hàng mét, thân non có lông, lá mọc đối. Hoa mọc thành chùm màu vàng chanh hay trắng ngà. Ban đêm hoa tỏa hương thơm ngát, nên còn được gọi là Dạ lai hương:

"Đêm thơm như một dòng sữa
Lũ chúng em êm đềm rủ nhau ra trước nhà
Hiu hiu hương tự ngàn xa, bỗng quay về
Dạt dào trên hè, ngoài trời khuya
… Nhờ đêm đưa lối những ai làm ngát hương đời
Nhẹ bàn chân, hương đêm ơi ! (Phạm Duy)
Lá và hoa thiên lý được thu hái vào mùa hè, dùng tươi. Rễ thu hái vào mùa thu, phơi hay sấy khô. Lá có tác dụng chửa bịnhtrĩ, trị giun kim. Rễ chửa tiểu buốt hay ra máu. Hoa thiên lý giống như cái chuông gió nhỏ, lấp ló trong những tán lá xanh mướt. Ngoài chức năng làm đẹp:

"Tóc em dài em cài hoa thiên lý
Miệng em cười hữu ý anh thương"

Cộng mùi hương thoang thoảng, hoa thiên lý còn có vị ngon ngọt, tánh mát, được người nông dân miền Bắc coi như một loại rau có sẵn trong nhà. Hoa thiên lý đi vào ca dao qua câu:

"Thương chồng nấu cháo le le
Nấu canh thiên lý, nấu chè hạt sen"

Canh thiên lý mang hương vị đặc trưng của mùa hè. Nấu canh thiên lý không phức tạp. Chọn những chùm hoa mới nở, ngâm nước cho hết kiến, chùm hoa to thì tách làm 2, 3 nhánh nhỏ. Ở thành phố thì nấu hoa thiên lý với thịt heo bằm, giò sống. Nhưng kết hợp độc đáo của hoa thiên lý là cua đồng giã nhỏ là canh có hương vị đậm đà ngay. Hoa thiên lý xào với thịt bò, có ướp chút gừng và nước tương cho thấm. Ngày nay, người ta dùng hoa thiên lý như một loại rau sống, nhúng với lẩu các loại:

Người ấy dạo xưa vẫn hay sang
Xin mẹ từng chùm thiên lý hoa vàng
Về nấu nồi canh hoa thiên lý
Tưởng bắc đò sang nối họ hàng
Bướm đậu vô tình, bướm lại bay
Để giàn cây mướt nở hoa đầy…
Chiều nay ngắt từng chùm thiên lý
Cánh mỏng manh, nhụy trắng, hoa vàng.

Chiều nay nấu nồi canh thiên lý
Giải nỗi sầu trong lòng nặng mang.
LH

Nhiều dân tộc khác cũng có các món ăn chế biến từ các loài hoa như: người Nhật ăn hoa cúc đồng, người Pháp nấu thức ăn với choux-fleur, artichaut , người Hy Lạp dùng bông bí để chiên, dân Nam Mỹ có hoa của cây yucca dùng làm salad , xào.

Cụ Tiên Điền Nguyễn Du có câu:
”Chơi hoa dễ có mấy người biết hoa“. Ý cụ dùng là ám chỉ về sự thưởng ngoạn, chiêm ngưỡng hương sắc của đất trời ban tặng cho con người qua biểu tượng là muông hoa mỹ mieều trong không gianm chúng ta. Còn kiểu nếm hoa để thưởng hoa trong phạm vi bài sưu tầm này, thì người viết được văn hữu TTSH phang ngay cho tước hiệu là: “Huê học giả“ khi đọc bản thảo. Phân tích từng chữ thì thật là “khổ“ lắm thay !!! Bần bút xin miễn nhận phong vị cao sang này vậy. May sao nhà văn lão thành Võ Phiến trong bài “Ăn và đọc” đã phần nào "cứu bồ" cho người viết đỡ đặng chút đỉnh ý tưởng văn chương qua một đoạn văn như thế này: ”Nhưng văn chương nghệ thuật không khác cái ăn là mấy. Ca dao, dân ca là sản phẩm của một địa phương, và thưởng thức đến tận cùng cái hay ho của nó hình như cũng chỉ có thể là người địa phương… Như vậy, người ta không chỉ ăn bằng mồm. Con người đã ăn cả gốc gác quê hương, bằng phong tục tập quán của mình, bằng khí chất riêng biệt của cơ thể mình, cũng như bằng lịch sự, trình độ văn hóa của xứ sở mình. Trong một dĩa đồ ăn, có phản ảnh khí hậu một miền, của những đặc điểm sinh lý con người địa phương… Và giả sử nói có cả phản ảnh của một phần nào những đặc điểm tâm hồn trong đó có quá chăng ?". Sau cùng, người viết muốn mượn ý tưởng của cụ Võ Phiến kết thúc bài biên khảo về hoa tại đây.

Xuân Phương

Bài Đọc Thêm

 

Chúng ta nên loại bỏ các định kiến lâu đời về những loại rau mùi, nào là ớt gây loét dạ dày, gừng làm tăng dục...

         Cây đinh hương (girofle) hiệu nghiệm hơn thuốc Aspirine trong việc làm loãng máu? Đúng. Bác sĩ Krishna Srivasta ở Đại học Odense (Đan Mạch) đã chứng minh rằng có 3 loại gia vị kháng lại hữu hiệu sự đông kết tiểu cầu, đó là thìa là, gừng và đinh hương. Thậm chí đinh hương còn hơn hẳn thuốc Aspirine. Đinh hương có trong thành phần của món masala, món cơ bản của Ấn Độ, mà qua nhiều thử nghiệm trên động vật đã cho thấy nó có khả năng ngừa ung thư. 

         Đinh hương (Eugenia aromatica) có hoạt chất là eugénol, acid gallotanic, caryophylline.

 

         Cây xạ hương (thym) ức chế được trực khuẩn lao ? Đúng. Giáo sư Hubert Richard giảng dạy về khoa học gia chánh tại Trường Cao đẳng Quốc gia Massy đã khẳng định điều đó. Xạ hương có đuợc đặc tính đó là nhờ lượng thymol và carvacrol cao, 2 chất kháng nấm và vi khuẩn. Chúng tiêu diệt các ký sinh đường ruột và lăng quăng muỗi. Nếu nấu nước uống, xạ hương có thể ngừa cảm cúm và viêm phế quản.

         Xạ hương (Thymus vulgaris) có hoạt chất là thymol, carvacrol, terpénoid, flavonoid, saponine.

 

         Cây cam cúc (camomille) có thể thay thế cho cortisone ? Sai. Nhưng những chất trích từ cam cúc dùng để thoa tại chỗ đã tỏ ra hiệu quả như các loại kem cortisone điều trị bệnh chàm. Người Đức dùng rất nhiều cam cúc thoa ngoài da để trị tất cả các loại viêm nhiễm, và uống để trị loét. Khả năng kháng viêm của cam cúc đã được đánh giá qua nhiều cuộc thử nghiệm : dường như nhờ một terpénoid là hélénaline. Cây cam cúc rất phổ biến tại Đức, đến mức nó có một tĩnh từ là “alles zutraut” (có mọi khả năng). Nhiều thí nghiệm khoa học đã xác nhận đặc tính đó. Cam cúc có thể ức chế nấm Candida albicans và một vài loại vi khuẩn (Staphylococcus), ngăn chặn sự phát triển của virus bại liệt, kích thích sự sản sinh các đại thực bào và lymphô bào B.

         Cam cúc (Matricaria recutita) có hoạt chất là hélénaline, acid anthémic, anthestérol, apigénine, chamazulène.

 

         Cây hương thảo (romarin) và rau é (basilic) có đặc tính kháng ung thư ? Đúng. Các đặc tính kháng khuẩn và diệt nấm của loài hương thảo này đã được biết đến từ lâu. Nó cũng kích thích sự tiêu hóa : acid carnosic tác động lên các cơ trơn của bộ máy tiêu hóa. Ngoài ra hương thảo còn cải thiện sự tuần hoàn và củng cố các mạch máu nhờ những chất flavonoid như diosmine. Điều mà người ta ít biết đến là hương thảo có thể ức chế các gène gây ung thư. Hiện thời đó chỉ là những thử nghiệm trong phòng thí nghiệm. Trong hội nghị về ung thư học tại Philadelphia gần đây, bác sĩ Michael Sporn đã đưa những chất terpénoid lên hàng đầu trong số các chất kháng ung thư thiên nhiên (cùng với những dẫn xuất của 2 vitamin A và D). Người ta đã biết được 7.000 loại terpène, chẳng hạn như limonène của cam quít, glycyrrhézine của cam thảo, myrcène của hốt bố, menthol của bạ hà, carvacrol của cây xạ hương. Cũng như những stéroid, các terpénoid có khả năng kích thích tế bào biệt hóa, một cơ chế kháng lại việc sinh ung thư. Những loại rau mùi chứa rất nhiều terpénoid. Bác sĩ Sporn đã chứng minh rằng cây hương thảo có thể ức chế một vài dạng ung thư da.

         Hương thảo (Rosmarinus officinalis) có hoạt chất là terpénoid, flavonoid, acid phénolic, quinone.     

         Rau é (Ocimum basilicum) có hoạt chất là estragol, eugénol, linéol, linalol.

 

         Ớt làm nặng thêm chứng loét dạ dày ? Sai. Chẳng những không có chống chỉ định đối với những bệnh nhân loét dạ dày mà nó còn có tính chất làm dịu  mọi chứng đau và viêm. Ớt có chứa chất capsaicine kích thích sự sản sinh chất P mà nhiệm vụ là chuyển truyền những tín hiệu đau lên hệ thần kinh. Chất capsaicine làm cạn kiệt nhanh chóng lượng dự trữ chất P trong tế bào, do đó sẽ làm tê liệt hệ thần kinh. Nhiều loại kem có chất capsaicine đã được sử dụng để chống lại bệnh khớp và các cơn đau do lên sẹo.  

         Ớt (Capsicum frutescens) có hoạt chất là capsaicine, apsaicine, capsacutine, capsanthine, caroténoid.

 

         Rau thìa là bẹ (fenouil) làm giảm các rối loạn trong thời kỳ mãn kinh ? Đúng. Thìa là bẹ rất giàu phytoestrogène, môt loại hợp chất mô phỏng hoạt động hormone bằng cách chiếm các thụ thể của những oestrogène thiên nhiên. Khi việc sản sinh hormone giảm sút, chẳng hạn như trong thời kỳ mãn kinh, sự tiêu thụ những thực phẩm giàu phytoestrogène giúp giảm thiểu các bất lợi trong thời kỳ này. Nhiều loại thực vật, chẳng hạn như đậu nành, bạch chỉ và cần tây cũng có chứa các phytoestrogène. Ngoài ra thìa là bẹ còn được dùng trong y học cổ truyền để tạo nhiều sữa nơi các bà mẹ mới sinh.  

         Thìa là bẹ (Foeniculum vulgare) có hoạt chất là phytoestrogène, anéthole, fenchone, estragole, limonène, acid oléic, flavonoid, coumarine. 

 

         Gừng tăng khả năng tình dục ? Sai. Chẳng có gì chứng minh điều đó. Gừng là vị thuốc chống buổn nôn rất tốt. Trong một nghiên cứu mới đây, các viên thuốc gừng đã tỏ ra hơn hẳn những thuốc khác trong việc chống lại các cơn buồn nôn sau khi gây mê. Viện Ung thư Quốc gia Mỹ đang nghiên cứu về khả năng kháng ung thư của gừng.

         Gừng (Zingiber officinalis) có hoạt chất là zingeribone, bisabolène, camphrène, géranial, linalool, bornéol, cinéole, oléorésine.

                                                                              MINH  LUÂN

 

 

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui lòng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những gì liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 10/19/17