|
Lời cáo chung
cho thuyết Aurousseau về nguồn gốc người Việt
Hà văn Thùy
I/
Thuyết “Sở-Việt” của nguồn gốc dân tộc Việt và những đệ tử
Năm 1904, trong cuốn Le Cambodge xuất bản tại Paris, học giả người Pháp
E. Aymonier đề xuất giả thuyết:
“Tổ tiên những
người ngôn ngữ Mon-khmer bắt nguồn từ những sườn núi phía nam Tây Tạng
rồi di chuyển về phương nam theo hai hướng, hướng tây nam sinh ra người
Munda ở Ấn Độ, hướng đông nam sinh ra các tộc Mon-khmer ở Đông Dương.”
(1)
Từ
thuyết này, vào đầu những năm 20 thế kỷ trước, L. Aurousseau khai thác
thư tịch Trung Hoa, cho rằng:
“Người Việt Nam trước ở Trung Hoa rồi mới di cư qua miền Bắc Việt Nam.
Nước Sở thuộc gịng Bách Việt, lănh thổ bao gồm 2 tỉnh Hồ Bắc và Hồ Nam
ngày nay, xuất hiện trước thế kỷ thứ XI trước CN. Đến thế kỷ thứ IX
trước CN, một ngành nước Sở di cư về phía Nam, dọc theo sông Dương Tử,
định cư ở Chiết giang, thành lập nước Việt (Việt Vương Câu Tiễn) vào thế
kỷ thứ VI trước CN. Năm 333 trước CN, nước Sở đánh bại nước Việt, người
Việt chạy về phương
Nam theo bốn nhóm: Nhóm Đông Âu hay là
Việt Đông ở miền Ôn Châu (Chiết Giang). Mân Việt ở Phúc Kiến. Nam Việt ở
Quảng Đông, Quảng Tây. Lạc Việt ở phía Nam
Quảng Tây và miền Bắc Việt
Nam. Các nhóm kể trên bị Hán hóa, chỉ
c̣n lại nhóm Lạc Việt là tồn tại…”
“Những chúa dẫn
các dân Việt di cư xuống miền Nam Quảng Tây và đến tận Bắc kỳ ngày nay
về thế kỷ thứ IV và thứ III trước Gia tô là cùng một ḍng họ với các vua
Việt đến định cư ở Ôn Châu, Phúc Châu và Quảng Đông vậy.”
”Vậy thời ta
có đủ chứng cớ mà nói quyết rằng người An Nam ngày nay là ḍng dơi trực
tiếp của người nước Việt bị diệt năm 333, và tiên tổ ngàn xưa, về
thế kỷ thứ VI trước Gia tô, đă ở miền tỉnh Triết Giang nước Tàu ngày
nay, vào khoảng lưu vực con sông cùng tên ấy”(2).
Trong hoàn cảnh thông tin về văn minh Đông Á c̣n hạn chế lúc đó, một số
trí thức nước ta như Phạm Quỳnh đă chớp lấy “phát kiến tân tiến” trên
rồi truyền bá trong cộng đồng.
Từ
đó, thuyết của Aurousseau được coi như tài liệu chính thống về cội
nguồn dân tộc Việt. Không chỉ dừng lại ở thế kỷ đă qua, tư tưởng của ông
c̣n được một số tác giả mang sang thế kỷ XXI.
Giáo
sư Cao Thế Dung trong bài “Tên nước Việt” được lưu hành trên nhiều
website tiếng Việt, nhắc lại ư tưởng của L. Aurousseau với ư tán thành,
đồng thời cũng góp phần hiện đại hóa thuyết này bằng cách bổ sung vào đó
những tri thức mới của di truyền học hiện đại từ công tŕnh của Y. Chu,
Jin Li…
Nguyên Nguyên với loạt bốn bài “Thử đọc lại truyền thuyết Hùng Vương”,
là học tṛ trung thành của của L. Aurousseau. Tác giả đào xới cổ thư Tàu
và áp dụng kỹ thuật điện tử
'fast forward' (quay băng video nhanh) để rút ngắn thời đại Hùng Vương
đi 2500 năm cho vừa với giả thuyết người thầy Tây của ḿnh.
Người trẻ nhất trong trường phái là Trương Thái Du với các bài viết trên
mạng và in thành sách ở Nhà xuất bản Lao Động - 2007: “Tiếp cận những
vấn đề cổ sử Việt Nam” và “Nói thêm về Đàn Nam Giao” (vannghesongcuulong.org
19.12.06), trong đó đưa ra những bằng cứ từ cổ thư Trung Hoa để minh
chứng cho truyết “Sở - Việt”
Nót một cách công bằng, người viết cũng chịu ảnh hường của Aurousseau.
Có một thời, đó là cách giải thích khả dĩ nhất về gốc gác người Việt.
Nhưng rồi, cùng với sự trưởng thành của trí tuệ, với những phát hiện
khảo cổ học mới và nhất là từ khi có thông tin từ công tŕnh của nhóm Y.
Chu về con đường phương nam của người tiền sử tới Việt Nam, niềm tin của
chúng tôi thay đổi.
Từ
những bằng chứng khảo cổ học, nhân chủng học vững chắc hiện có, chúng ta
có đủ cơ sở để viết lời cáo chung cho thuyết Aurousseau.
II/ Sự
cáo chung của thuyết Aurousseau
Thuyết “Sở-Việt” được đưa ra sau khi khảo cổ học phát hiện di chỉ Ngưỡng
Thiều mà lúc đó cho là khởi nguyên của văn minh Hán truyền xuống Long
Sơn và vùng Đông Nam.
Nhưng đầu thập niên 30, Hội nghị Quốc tế về tiền sử Viễn Đông đă thống
nhất cho rằng: “Cả Long Sơn, cả Ngưỡng Thiều đều từ văn hóa Ḥa B́nh sớm
đưa lên.”
Tại sao khi khảo cổ học phát hiện ḍng chuyển dịch văn hóa ngược với
quan niệm cũ th́ niềm tin vào thuyết Aurousseau vẫn không thay đổi? Đó
là do trong lịch sử có những cuộc di dân về Việt
Nam vào thời Chiến Quốc. Lịch sử người
Việt có hai giai đoạn: giai đoạn đầu đi lên khai phá đất Trung Hoa và
giai đoạn sau từ Trung Hoa về xây dựng Việt
Nam. Giai đoạn đầu quá xa xôi, không
được ghi chép trong thư tịch Trung Hoa nên đến cuối thế kỷ trước, nhân
loại chưa biết tới. Do chỉ biết giai đoạn sau nhưng lại ngộ nhận đấy là
toàn bộ lịch sử Việt
Nam nên Aurousseau cùng học tṛ của ông
đă sai lầm.
Cho tới cuối thế kỷ trước, thuyết “Sở-Việt” vấp phải những mâu thuẫn
sau:
1/
Mâu thuẫn thứ nhất: hoàn toàn phủ định truyền thuyết Hùng Vương dựng
nước.
Giả thuyết Aurousseau là sự phủ định lịch sử 4000 năm của dân tộc Việt.
Kết quả là lịch sử của chúng ta chỉ c̣n lại một nửa thời gian. Về mặt
tâm linh, đó là đ̣n chí mạng đánh vào lương tri người Việt. Chưa biết
đúng hay sai, giả thuyết như vậy là rất khó chấp nhận.
Một lư thuyết đưa
ra mà trái ngược tới mức phủ định truyền thuyết gốc của dân tộc là điều
phải hết sức đắn đo, thận trọng.
V́ vậy, không lấy làm lạ là, dù không ít học giả quảng bá cho thuyết này
th́ nó cũng không được đại đa số người Việt chấp nhận. Hầu như mọi người
đều hướng về lịch sử 4000 năm với Phục Hy, Thần Nông, rồi Kinh Dương
Vương, Lạc Long Quân.
2/Mâu
thuẫn thứ hai: Trái ngược với bằng chứng khảo cổ học:
Từ
thập niên 70 thế kỷ trước, do việc phát hiện thời đại Hùng Vương trong
lịch sử Việt Nam, thế giới đă công nhận Việt Nam là trung tâm văn hóa
đồng thau xuất hiện sớm và phát triển nhất khu vực, bắt đầu từ 1850 năm
đến thế kỷ II TCN, mà rực rỡ nhất là văn hóa Đông Sơn kéo dài khoảng 800
năm TCN. Thời kỳ này tương đương với sự xuất hiện cùa nước Sở, mà ta
biết, hiện vật đồng thau nước Sở vừa muộn hơn, lại ít hơn và nhất là
không tinh xảo bằng của Việt
Nam. Đấy là bằng chứng cho thấy, Việt
Nam là một trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa
phát triển sớm và mạnh hơn nước Sở. Đạt được tŕnh độ phát triển như vậy
chứng tỏ rằng trên địa bàn Việt
Nam lúc đó có một nhà nước mạnh. Điều
này cho thấy không thể có chuyện ngược đời là người Sở-Việt di cư xuống
lập nước Văn Lang và thành tổ tiên của người Việt.
Do
không hóa giải được hai mâu thuẫn trên nên số ủng hộ viên của thuyết
Aurousseau giảm đi.
Tuy vậy, chứng lư bác bỏ thuyết Aurosseau chưa đủ mạnh v́ c̣n thiếu bằng
chứng quan trọng nhất là nhân chủng học. Sang thế kỷ XXI, với việc phát
hiện con đường thiên di phương nam của người tiền sử tới Việt
Nam, khoa học có đủ bằng chứng để bác
bỏ thuyết Aurousseau.
3/Mâu
thuẫn thứ ba: trái với chứng cứ nhân chủng học.
Điều khá khôi hài là, trong khi khẳng định người Sở - Việt là tổ tiên
của người Việt Nam
th́ những người theo thuyết Aurousseau chẳng hề biết người Sở - Việt là
ai, người Văn Lang là ai, người Việt
Nam hiện đại là ai?! Ở đây không có chỗ
cho những tên gọi nôm na như “tộc Tâu Âu”, “tộc Việt cổ”, “tộc Thái cổ”
mà phải là những tên Latinh trong bảng phân loại nhân chủng. Khi chưa
minh định được điều đó th́ việc cho rằng người này là tổ tiên của người
kia chỉ là chuyện ăn ốc nói ṃ!
Có
định luật như sau: Nếu trong quá khứ dân cư vùng A thiên di làm nên tổ
tiên của dân cư vùng B tất sẽ để lại những vết tích trong bộ gene
(genome) của dân cư vùng B. Như vậy, nếu vào thế kỷ IV TCN, người
Sở-Việt di cư xuống tạo thành tổ tiên người Việt Nam hiện đại th́ phải
có bằng chứng về sự chuyển hóa di truyền của cư dân Việt Nam ở thời điểm
trên.
Không hề có bằng chứng như vậy. Xin đọc:
“Thời
đại Đá Mới, dân cư trên lănh thổ Việt Nam thuộc hai đại chủng Australoid
và Mongoloid cùng với các loại h́nh hỗn chủng giữa chúng cộng cư với
nhau, trong đó Indonesien và Melanesien là hai thành phần chủ yếu. Sang
thời đại Đồng - Sắt, người Mongoloid đă là thành phần chủ thể trong khối
cư dân ở Việt Nam, người Australoid mất dần đi trên đất nước này, hoặc
do thiên cư, hoặc do đồng hoá.”(3)
Đấy là kết luận của nhà nhân chủng học hàng đầu Việt Nam Nguyễn Đ́nh
Khoa, được tŕnh bày trong cuốn Nhân chủng học Đông Nam Á, xuất bản năm
1983 ở Hà Nội.
Đầu năm 2005, khi phân tích 30 di cốt ở khu mộ cổ Mán Bạc tỉnh Ninh
B́nh, tiến sĩ M. Oxenham của Đại học Quốc gia Úc một lần nữa xác nhận: “Người
Việt từ trước thời đá mới đă có biểu hiện của giống người Úc châu [Nam
đảo] hay Đa đảo Melanesian, nhưng người Việt từ đầu thời Đồng thau đă có
biểu hiện đặc trưng của giống người Đông Nam Á. Sự hiện diện của cả hai
nhóm sắc tộc này sát cánh nhau trong khu mộ táng cho thấy đă có sự hỗn
hoà giữa hai chủng ở mức độ đáng kể, có thể là đánh dấu những nguồn gốc
sớm nhất về dân cư Việt hiện thời, vốn đă tương đối ổn định khoảng năm
2000 TCN.”(4)
Hai đoạn dẫn trên cho thấy: chỉ có việc chuyển hóa cùa dân cư Việt
Nam từ loại h́nh Australoid sang
Mongoloid, hoàn tất vào khoảng 2000 năm TCN. Không có biến đổi di truyền
nào cùa dân cư Việt ở thời điểm thế kỷ IV TCN.
Như vậy là,
người Việt hiện
đại ra đời từ hơn 2000 năm trước khi người Sở - Việt di cư xuống.
Cố nhiên, người Sở - Việt không thể là tổ tiên của những người được sinh
ra trước họ.
Điều này chứng tỏ rằng, khi di cư xuống Việt
Nam, người Sở - Việt có cùng bộ gene di
truyền với người bản địa.
Bằng chứng nhân chủng học là chiếc đinh cuối cùng đóng xuống quan tài
thuyết Aurousseau về nguồn gốc người Việt
Nam.
III/ Giả thuyết: “Người Lạc Việt từ lưu vực Hoàng Hà trở về dựng nước
Văn lang”
Dựa trên những phát kiến khoa học mới, nhất là công tŕnh của tập thể
nhà di truyền Trung Quốc và Mỹ cộng tác trong Dự án Đa dạng di truyền
người Trung Hoa (Chinese Human Genome Diversity Project), chúng tôi xin
đưa ra giả thuyết “Người Lạc Việt từ lưu vực Hoàng Hà trở về dựng
nước Văn lang” như sau:
Khoảng 40.000 năm trước, người Việt từ Đông Nam Á đi lên khai phá đất
Trung Hoa. Cho đến thiên niên kỷ thứ IV CTN, họ đă làm chủ vùng đất mênh
mông từ Đông Nam Á tới phía nam sông Hoàng Hà, có nhân số khoảng 2/3
nhân loại và phát triển nền nông nghiệp tiên tiến.
Cũng khoảng thời gian này, một số nhóm người Mongoloid từ Đông Nam Á đi
lên, định cư ở phía tây bắc Trung Hoa và chuyển dần từ săn bắt hái lượm
sang du mục, là tổ tiên của chủng Mongoloid phương Bắc.
Khoảng giữa thiên niên kỷ thứ III TCN, người du mục xâm phạm lănh thổ
của người Việt, cướp của, hăm hiếp, bắt người làm nô lệ, mức độ ngày một
tăng. Do vậy đă xuất hiện liên minh các bộ lạc Bách Việt phía bắc sông
Dương Tử do Đế Lai chỉ huy với các bộ lạc phía nam Dương Tử do Lạc Long
Quân lănh đạo chống lại quân xâm lăng. Khoảng năm 2600 TCN, người Mông
Cổ do họ Hiên Viên dẫn đầu mở chiến dịch lớn tổng tấn công ở Trác Lộc.
Liên quân Việt thua trận, Đế Lai hy sinh. Lạc Long Quân dẫn đoàn quân
dân Việt lên thuyền theo ḍng Hoàng Hà ra biển xuống phía nam, đổ bộ vào
vùng Nghệ Tĩnh. (5)
Trong đoàn thuyền nhân trở về Việt
Nam, có một số người lai Mông Cổ được
sinh ra từ những cuộc xâm lấn trước đó và cả những phụ nữ bị quân Mông
Cổ hăm hiếp mang thai. Khi trở về, họ sinh những con lai thuộc chủng
Mongoloid phương Nam.
Do sự chiếm đóng mở rộng, cuộc di tản khỏi lưu vực Hoàng Hà c̣n tiếp tục
và bổ sung thêm người Mongoloid phương Nam cho dân cư Việt Nam. Những
người mang gene Mongoloid phương Nam
này lai với người bản địa thuộc loại h́nh Australoid, làm chuyển hóa dân
cư Việt Nam sang loại
h́nh Đông Nam Á, là tổ tiên của người Việt
Nam ngày nay.
Đoàn thuyền nhân từ Hoàng Hà trở về, do cùng chủng tộc, ngôn ngữ và được
dắt dẫn bởi Lạc Long Quân, vua của nước Xich Quỷ nên dễ dàng ḥa nhập
với dân bản địa. Người mới về, do hoạt động trên vùng đất rộng, phải
thường xuyên đối mặt với kẻ xâm lấn phương Bắc nên biết cách tổ chức nhà
nước và kỹ thuật quân sự, v́ vậy được cộng đồng bản địa tôn lảm vua. Nhờ
ưu thế lai của chủng Mongoloid phương
Nam, nhờ được tổ chức thành nhà nước,
người Văn Lang trở nên hùng mạnh, sáng tạo văn hóa đồng thau, đặc biệt
là chế tác trống đồng.
Tuy thời gian này người Việt có kỹ nghệ hàng hải cao và làm chủ biển
Đông nhưng di tản bằng thuyền không thể đưa ồ ạt nhiều người nên số
người mang gene Mongoloid phương
Nam có mặt lúc đầu ở Văn Lang không
nhiều. V́ vậy quá tŕnh chuyển hóa dân cư Việt khá chậm chạp, phải trong
thời gian hơn nửa thiên niên kỷ, cho tới 2000 năm TCN mới ổn định.
Giải thích và chứng minh
Giả thuyết do chúng tôi đề xuất có những ưu điểm sau:
a/
Phù hợp với truyền thuyết Hùng Vương dựng nước: thời gian dựng nước Văn
Lang khoảng 2600 năm TCN, Lạc Long Quân theo Hoàng Hà ra biển Đông, xuôi
về Nam.
Đồng thời cũng phù hợp với Ngọc phả đền Hùng là có “đoàn người đổ bộ vào
Nghệ Tĩnh”
b/
Việc không t́m được sọ Mongoloid thuần chủng ở Việt
Nam chứng tỏ là vào thời kỳ này
không có người
Mongoloid thuần chủng
trên đất Việt Nam.
Như vậy chỉ c̣n khả năng duy nhất là có
người Mongoloid
phương Nam
từ lưu vực Hoàng Hà – nơi đầu tiên xuất hiện người Mogoloid phương Nam -
di cư bằng thuyền tới Việt Nam và làm biến đổi gene của dân cư Việt.
Giả thuyết của chúng tôi giải thích thỏa đáng điều này: cách nhau vạn
dặm núi rừng và một biển người Bách Việt ḍng Australoid,
khoảng 2600 năm TCN, bên sông Hoàng và bên sông Hồng, chủng người
Mongoloid phương Nam gần như đồng thời xuất hiện.
Nguyên nhân tại đâu?
Chỉ có khả năng
duy nhất là những người lai Mông Cổ trong đoàn thuyền nhân từ sông Hoàng
Hà đi về Việt Nam.
c/
Giả thuyết của chúng tôi cho phép chứng minh ngược lại thuyết của
Aurousseau.
Có
thể có khả năng sau:
Lạc Long Quân làm vua nước Xích Quỷ từ phía Nam Dương Tử tới tận miền
Trung Việt Nam.
“Nước” ở đây là một liên minh bộ lạc lỏng lẻo do tộc Lạc Việt
(Indonesien) có số dân đông và nói ngôn ngữ Mon-khmer đứng đầu. Khi lên
thuyền chạy theo Hoàng Hà ra biển, Lạc Long Quân v́ lư do nào đó, không
trở về đô của ḿnh ở Ngũ Lĩnh mà dông thuyền xuống tới vùng Nghệ Tĩnh
rồi đi lên lập đô mới ở Bạch Hạc, từ đây dựng nước Văn Lang. Như vậy, có
thể hiểu đây là một lần dời đô và đổi quốc hiệu: đô mới là Bạch
Hạc c̣n quốc hiệu là Văn Lang thay cho Xích Quỷ. Cùng một thời kỳ lịch
sử, cương vực Văn Lang trùng khớp với địa bàn nước Xích Quỷ ủng hộ cho
giả thuyết này.
Từ
xa xưa vẫn có ḍng người từ Việt
Nam đi lên phương bắc. Tới thời điểm
này trong ḍng di dân có thêm những
người lai.
Người lai đă
truyền bá gene Mogoloid phương Nam
ra
khắp nước Văn Lang rộng lớn, làm chuyển hóa di truyền của người Việt ở
phía nam Dương Tử. Đến khoảng 2000 năm TCN, đại bộ phận dân số Văn Lang
đă được Mogoloid hóa. Các nước Sở, Ngô, Việt… là những mảnh vỡ của nước
Xích Quỷ - Văn Lang nên dân cư đều thuộc chủng Mongoloid phương
Nam.
Việc người nước Việt của Câu Tiễn trở về Việt
Nam vào năm 333 TCN là lá rụng về
cội, cháu con trở lại đất xưa của tổ tiên.
IV/ Kết luận
Có
thể, khi phát biểu giả thuyết của ḿnh, L. Aurousseau là một trí tuệ mẫn
tiệp của thời đại ông. Thuyết của ông được ủng hộ bằng cuộc di cư của số
đông người từ Nam Trung Hoa tới Việt
Nam vào thời Chiến Quốc. Chính v́ thế
ông chiếm được ḷng tin của nhiều học giả người Việt thông thuộc cổ thư
Trung Hoa.
Tuy nhiên thực tế lịch sử cho thấy, đấy là lầm lẫn lớn. Từ những bằng
chứng khảo cổ và nhất là di truyền học, khoa học hiện đại chứng minh
được rằng, người tiền sử xuất hiện đầu tiên ở Việt
Nam rồi đi lên mở mang đất nước Trung
Hoa. Sau đó, do người Mông Cổ xâm lấn, đă trở về lại Việt
Nam cùng các quốc gia Đông Nam Á khác.
Khảo cổ và di truyền học cũng xác nhận, vào thời điểm 2000 năm TCN,
chủng Mongoloid phương Nam là chủ thể dân cư Việt Nam và là tổ tiên của
người Việt hiện đại. Những bằng chứng vững chắc trên đă bác bỏ thuyết
Aurousseau.
Một câu hỏi tất phải nảy sinh: v́ sao, trước sự thực khoa học như vậy mà
vẫn c̣n người tin theo thuyết “Sở-Việt”?
Có
thể, đó là hậu quả của thói ù lỳ trí thức nơi những người chỉ duy nhất
tin vào những ǵ quen thuộc, do kiến văn hạn hẹp nên không c̣n lựa chọn
nào khác.
Đấy c̣n là sự thất bại về phương pháp luận của những người leo cây t́m
cá. Các tác giả này tận tín vào sách của thày Tàu mà không biết tới
nghịch lư: người Trung Hoa hiện nay cũng chẳng biết tổ tiên gốc gác của
họ là ai trong khi lại ảo tưởng rằng cổ thư Tàu là nguồn duy nhất chỉ
dạy ḿnh biết gốc gác tổ tiên người Việt! Phải chăng đó cũng là vấn nạn
của dân tộc Việt?!
Phật Đản 2007
1. E.Aymonier.
Le Combodge. Paris.Tom 3. Dẫn theo Nhân chủng học Đông
Nam Á.
2. Léonard
Aurousseau, "Khảo về cỗi rễ dân An
Nam". Bản dịch của Hồng Nhân Phạm Quỳnh.
Nam Phong tạp chí số 84, tháng 6-1924, tr.480. Dẫn theo Cao Thế Dung.
Tên nước Việt.
3. Nguyễn Đ́nh Khoa. Nhân chủng học Đông
Nam Á. NXB Đại học và THCH. HN,1983
4. Lê Anh Vũ- Tin
BBC hay tin Oxenham-talawas 3.3.05
5. Hà Văn Thùy.
T́m lại cội nguốn tổ tiên, cội nguồn văn hóa. vannghesongcuulong.org
Bài 2
Người Tàu là tổ
tiên của người
Việt?
Tôi nghĩ
nhiều người Việt
nghĩ như thế: tổ
tiên chúng ta (người
Việt) là người
Tàu. Họ không
hẳn là thuộc
nhóm "thân Tàu"
hay Lê Chiêu
Thống hiện đại
đâu, mà có thể
là những người
có tinh thần dân
tộc tốt và có
học thức khá.
Nhưng chứng cứ
khoa học mới
nhất cho thấy
ngược lại: Người
Tàu có nguồn gốc
từ Đông Nam Á.
Có thể nhiều bạn
cảm thấy sốc với
phát biểu đó,
nhưng đó chính
là bằng chứng về
di truyền học
chứ không phải
của cá nhân tôi.
Xin nhắc lại để
nhấn mạnh: Người
Đông Nam Á là tổ
tiên của người
Tàu.
Hôm kia, khi
bàn về Tố Hữu là
nhà văn hoá dân
tộc, có một bạn
đọc gửi tôi một
bài thơ của thi
sĩ này. Bài thơ
có tựa đề là "Nhớ
người chị phương
Bắc" do Tố Hữu
viết vào năm
1946 để ca tụng
giặc Tàu. Bài
thơ chẳng có ǵ
đặc sắc, nhưng
có những câu làm
tôi chú ư và do
đó làm động cơ
để viết cái note
này:
"Cả Trung Hoa
đứng dậy thét
vang lừng
và Nam Việt em
cũng nghe chừng
nôn nả
Chị đây rồi
Trung Hoa người
chị cả
Mấy ngh́n năm
Đông Á mái che
chung
Mà biên cương
không xé được
đôi ḷng ...
...
Trong máu em có
ḍng máu của chị
Núi sông em rên
siết đă bao lần
Dưới vó ngựa bạo
tàn quân Nguyên
Những lúc ấy chị
cũng đau ḷng
huyết thống"
Phải công
nhận là một cây
bút nịnh bợ có
hạng, mà Lê
Chiêu Thống nếu
có sống lại chắc
phải chào thua.
Thi sĩ tự nhận
Việt Nam là
"em", c̣n Tàu là
"chị". Em có
sau, chị có
trước. V́ nhận
chị em như thế,
nên ông xem hai
dân tộc này có
cùng huyết
thống. Tuy Tố
Hữu không viết
ra, nhưng tôi
đoán rằng trong
đầu ông lúc đó
nghĩ rằng người
Tàu là tổ tiên
của ông, của
người Việt.
Nhưng công
bằng mà nói, ông
không phải là
người đầu tiên
nhận bừa như thế
(nếu có), nhiều
người Việt Nam
cũng tự nhận một
cách thành kính
rằng họ có nguồn
gốc từ người
Tàu. Chẳng hạn
như mấy năm
trước có một cô
tên là Đỗ Ngọc
Bích viết một
bài mà trong đó
có câu “Người
dân Việt Nam bắt
nguồn từ Trung
Quốc, Vua của
Việt Nam cũng
khởi tổ từ người
Trung Quốc, coi
vua Trung Quốc
như anh như cha…
từ Ngô Quyền,
Đinh Bộ Lĩnh,
hay Lư Công Uẩn,
rồi các gia tộc
họ Trần, Lê,
Nguyễn, v.v…”
Nhưng đó là
một nhận định
chủ quan, thiếu
chứng cứ khoa
học. Chứng cứ
khoa học thuyết
phục nhất là
gen, là chất
liệu di truyền.
Đă có nhiều
nghiên cứu về
nguồn gốc dân
tộc và văn minh
Đông Nam Á, và
tôi có lần tổng
kết trong một
bài báo cũng khá
lâu rồi. Một
trong những tác
giả đi tiên
phong về lĩnh
vực nghiên cứu
này là Bác sĩ
Stephen
Oppenheimer,
người Anh và nay
làm việc ở ĐH
Oxford (sau này
là chỗ quen biết
của tôi). Trong
cuốn sách nổi
tiếng "Eden in
the East: The
Drowned
Continent of
Southeast Asia"
(tạm dịch là "Địa
đàng ở phương
Đông: Lục địa
ch́m đắm của
Đông Nam Á) (1),
qua những dữ
liệu dồi dào
được thu thập
một cách công
phu từ nhiều
ngành nghiên cứu
khác nhau,
Oppenheimer đi
đến kết luận
rằng Đông Nam Á
là cội nguồn của
văn minh hiện
đại, và người
Đông Nam Á chính
là tổ tiên của
người Tàu. Đó là
một thách thức
ghê gớm với quan
điểm chính thống,
nhưng cho đến
nay khó ai có
thể bác bỏ dữ
liệu của
Oppenheimer.
Gần đây, một
nghiên cứu hết
sức công phu về
nguồn gốc dân
tộc chứng minh
rằng nhận định
của Oppenheimer
có thể đúng. Đó
là công tŕnh
nghiên cứu qui
mô lớn gọi là
HUGO Pan Asian
SNP Consortium
công bố trên tập
san Science (2)
người Đông Á có
nguồn gốc từ
Đông Nam Á.
Nghiên cứu này
phân tích khoảng
50,000 SNP trên
2000 người thuộc
73 sắc tộc, và
họ đi đến kết
luận:
• Người Đông
Á và Đông Nam Á
có cùng nguồn
gốc;
• Người Đông Á
chủ yếu xuất
phát từ cư dân
vùng Đông Nam Á.
Xin nhắc lại
Đông Á ở đây là
Tàu, Hàn Quốc,
Mông Cổ, và có
thể kể cả Nhật.
Nên nhớ rằng
ngày xưa không
có người Thái,
Việt, Mă Lai,
v.v. mà chỉ có
Đông Nam Á nói
chung. Do đó,
nói Đông Nam Á ở
đây tôi muốn nói
đến người Thái,
Mon-Khmer,
Tạng-Miến, Mă
Lai, hay gọi
chung là Bách
Việt.
Đây là một
nghiên cứu có
thể nói là
"final say" -
lời phát biểu
sau cùng về
nguồn gốc dân
tộc. Thật ra,
trước đó cũng đă
có một vài
nghiên cứu cho
thấy người Đông
Nam Á chính là
tổ tiên của
người Đông Á. Dĩ
nhiên, cũng có
nghiên cứu cho
thấy kết quả
ngược lại, nhưng
do phương pháp
chưa tốt nên
cũng khó thuyết
phục. Tôi th́
thấy chứng cứ
trên (Đông Nam Á
có trước Đông Á)
rất thuyết phục.
Thuyết phục là
v́ nhiều dữ liệu
ngoài di truyền
cũng cho thấy
Đông Nam Á là
một trung tâm
văn minh thế
giới cổ.
Trước hết,
hăy nói về trồng
lúa nước. Nhiều
sách vở Việt Nam
(và thế giới)
cho rằng Tàu là
dân tộc đầu tiên
thuần hoá và
phát triển kĩ
thuật trồng lúa
nước. Sách sử
Tàu c̣n viết
rằng mấy quan
thái thú Tàu như
Nhâm Viên và
Tích Quang dạy
người Việt làm
lúa nước (3).
Nhưng bây giờ
th́ chúng ta
biết rằng quan
điểm này SAI.
Người Đông Nam Á
mới chính là chủ
nhân của kĩ
thuật này. Hạt
lúa lâu đời nhất
được t́m thấy
trong một hang
động ở Thái Lan.
Điều này có lí
v́ nghề trồng
lúa nước đ̣i hỏi
người dân phải
nắm vững và
thích nghi với
thời tiết, môi
trường sông
nước, rất thích
hợp với người
Đông Nam Á.
Thứ hai là
thuần hoá gia
cầm. Nghiên cứu
di truyền gần
đây cho thấy tất
cả các loài gia
cầm như gà, chó,
heo, v.v. trên
thế giới đều có
nguồn gốc từ
Đông Nam Á.
Trong cuốn
“Origin of
species”, Darwin
cũng từng khẳng
định rằng tất cả
các giống gà
nuôi trên thế
giới đều có
nguồn gốc từ gà
rừng Đông Nam Á.
Trong một bài
viết cho Tập san
National
Geographic, W.
G. Solheim II
nhận xét rằng
Đông Nam Á là
nơi phát triển
nền chăn nuôi
đầu tiên trên
trái đất. Điều
này phù hợp với
giả thuyết Đông
Nam Á là một cái
nôi văn minh
nông nghiệp đầu
tiên của con
người, và cư dân
tại đây rất là
những người phát
minh ra kĩ thuật
trồng lúa nước,
chăn nuôi, và
truyền các kĩ
thuật này lên
phía Bắc (tức
miền Nam của Tàu
ngày nay).
Câu chuyện
người Đông Nam Á
là tổ tiên người
Đông Á khá dài
ḍng và phức tạp,
nên tôi hẹn các
bạn một bài sau
để nói chi tiết
hơn. Câu chuyện
chúng ta nói ở
đây xảy ra gần
10 ngàn năm
trước, và xảy ra
trong bối cảnh
di dân từ Phi
châu. Nói tóm
lại, một nghiên
cứu mới nhất và
qui mô lớn nhất
công bố trên
Science cho thấy
người Đông Nam Á
chính là tổ tiên
của người Đông
Á, kể cả người
Tàu. Phát hiện
này giúp chúng
ta suy nghĩ lại
nguồn gốc dân
tộc, mà cũng
khẳng định câu
của Nguyễn Trăi
Như nước Đại
Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn
hiến đă lâu,
Núi sông bờ cỏi
đă chia,
Phong tục Bắc
Nam cũng khác.
Đúng quá!
Nghiên cứu
mới nhất công bố
trên Science và
lời B́nh Ngô Đại
Cáo của Nguyễn
Trăi c̣n là một
lời nhắc nhở cho
những ai c̣n ảo
tưởng rằng tổ
tiên của chúng
ta là người Tàu.
=====
(1) Cuốn sách
"Eden in the
East" do tôi
giới thiệu lần
đầu ở VN khoảng
10 năm trước, và
đă được dịch
sang tiếng Việt.
Tôi có viết lời
giới thiệu cho
cuốn sách ở đây:
http://www.vanhoanghean.com.vn/…/nhu…/dia-dang-o-phuong-dong
(2)
http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/20007900
(3) Sách Hậu
Hán thư (tức sử
của Trung Quốc)
chép: "Phàm đất
thuộc bộ Giao
Chỉ, tuy đă đặt
quận, huyện,
nhập vào lănh
thổ Trung Quốc,
nhưng ngôn ngữ
vẫn khác nhau,
phải có thông
ngôn mới hiểu.
Người như cầm
thú, không phân
biệt trưởng ấu (tức
không có tôn ti
trật tự), búi
tóc ở gáy, đi
chân không, lấy
vải quấn qua đầu
làm áo. Sau đó
những người tội
phạm Trung Quốc
đến ở lẫn với họ,
mới biết ngôn
ngữ dần dần thấy
hóa theo lễ. Đến
thời Quang Vũ
Trung Hung, Tích
Quang làm thái
thú Giao Chỉ,
Nhâm Diên làm
thái thú Cử Chân,
bấy giờ mới dạy
cho dân biết cày
cấy, biết đội mũ
đi giày, đặt mối
lái, dân mới
biết hôn nhân,
dựng học hiệu
dạy lễ nghĩa
Post ngày:
10/20/17 |