1. Loài mèo được thuần hoá sớm hơn loài thỏ
Các xương mèo và người khai quật ở đảo
Cyprus cho ta kết luận loài mèo đă sống
chung với loài người và có khả năng được
thuần hoá cách đây khoảng 9500 năm; So với
loài thỏ th́ thời kỳ thuần hoá
(domestication) không rơ rệt, nhưng ước đoán
cách đây khoảng 3000 năm mà thôi. Điều này
cũng phù hợp với di chỉ t́m thấy ở Điền Viên
Động2 (Tianyuan cave 田园洞, gần Bắc Kinh) gồm
có xương người, sơn dương, khỉ, nhím và mèo
hoang (civet cat). Ngoài ra, bản tin từ Tân
Hoa Xă (Xinhua News Agency, ngày 22 tháng
Tám, 2006) trên mạng cho ta biết về các
xương thú t́m thấy sau khi bị chôn sống cách
đây khoảng 1700 năm. Các xương thú vật t́m
thấy gồm có mèo, chó, heo, dê, trâu và trừu…
Mèo c̣n rất thích hợp với xă hội nông nghiệp
v́ là loài động vật ăn thịt (carnivore): nhà
nông thường phải chứa (tồn kho) các sản phẩm
v́ thời tiết thay đổi bất thường, sau đó các
kho hàng hoá này hấp dẫn các loài chuột, sâu
bọ và ngay cả chim chóc cũng đến t́m lương
thực và quấy phá ... Đến nỗi nhà nông chúng
ta phải ra lời ta thán
Cái c̣ các vạc cái nông
Sao mày dẵm lúa nhà ông hỡi c̣ (ca dao)
Mèo đă đến như vị cứu tinh để giải quyết vấn
nạn trên; Khác hẳn với loài thỏ chỉ ăn rau
cải (herbivore) và phá hoại mùa màng – như
hiện nay, chính phủ Úc phải t́m các phương
pháp hoá học (như dùng thuốc độc) hay sinh
học (như cấy vi trùng bệnh) để kiểm soát dân
số loài thỏ - thay v́ săn bắn chúng một cách
dă man. Loài thỏ thuần hoá không thể tồn tại
khi nhiệt độ môi trường chung quanh lên trên
32oC, so với loài mèo có thể sống sót với
môi trường ở nhiệt độ 52oC; Thân nhiệt (body
temperature) của mèo th́ từ 38oC đến 39oC
(so với con người vào khoảng 37.5oC) tương
thích với một xă hội nông nghiệp với khí hậu
ôn hoà, c̣n thỏ lại là nguồn thực phẩm có
lượng prôtêin cao cho xă hội du mục và săn
bắn.
2. Tư duy nông nghiệp tổng hợp và cụ thể qua
ngôn ngữ
Liên hệ Măo Mẹo và mèo rất dễ hiểu: các âm
này đều thuộc thanh vực trầm3 (trọc) và
nguyên âm e (của Mẹo mèo) là dạng cổ hơn của
nguyên âm a (của Măo) như hè hạ (Hán Việt),
xe xa, keo giao, vẽ hoạ, mè (vừng) ma, chè
trà, beo báo ...v.v... Tương quan tự nhiên
c̣n thể hiện qua cách dùng ḷng (bụng dạ) -
bộ phận thấp nhất trong cơ thể con người -
thay v́ tim hay năo bộ (óc): ḷng tốt hay
tốt bụng (hảo tâm HV), buộc ḷng, mất ḷng
... Khi nhập vào tiếng Hán, ḷng trở thành
đảm 膽: theo GS Axel Schuessler4 th́ đảm 膽 có
gốc phương Nam (Nam Á, Austroasiatic) và một
dạng âm cổ phục nguyên là *tlam?. Schuessler
ghi nhận âm cổ Bahna Bắc/ProtoNorthBahnar là
*klàm (gan/liver), tiền Việt-Mường/Proto
Viet-Muong *lɔ:m, Katuic *luam hay dạng khác
hơn với phụ âm đầu t- như tiền
Palaunic/proto Palaunic *kơntɔ:m (gan). Tra
thêm các ngôn ngữ láng giềng ta thấy klơm
(gan, tiếng Kơho), tho-lom (gan, tiếng Khme)
so với L̉NG tiếng Việt gồm các bộ phận như
ruột, gan ... ‘Phật Thuyết Đại Báo Ân Trọng
Kinh’ c̣n dùng 'ḷng gan đều nát' (ḷng chữ
Nôm thường dùng lộng 弄, làơ theo Việt Bồ La
1651) phản ánh tương quan can đảm (Hán) và
ḷng gan/ruột gan (Việt); Ngoài ra cách dùng
lơm súng (ḷng súng, ṇng súng), lơm chuối,
lơm cây (ḷng cây)... cho thấy liên hệ trực
tiếp giữa dạng L̉NG - LƠM, thật ra khi phát
âm L̉NG bây giờ - tiếng Việt luôn đóng môi
lại (môi hoá, như L̉NG) chứ không để môi mở
như các dạng LONG của tiếng Anh, Pháp …
Tiếng Mường (Bi) c̣n dùng ‘ḷm’ là gan: ‘ho
ưa ăn ḷm củi’ (tôi thích ăn gan heo). klơm
là gan (tiếng Biat), k'lơm (gan, tiếng
Boloven) ...v.v...
Tóm lại, ta có cơ sở đề nghị cấu trúc dạng
cổ phục nguyên *tlam? hay *klam? đă nhập vào
tiếng Hán cho ra dạng đảm 膽. Trường hợp âm
cổ phương Nam *tlam?/klam? (ḷng, một ḷng)
trở thành đảm (can đảm, đảm lược ...) khi
nhập vào tiếng Hán không phải là hiếm, ta
c̣n có những trường hợp như *krong (sông)
khi nhập vào tiếng Hán trở thành *kong hay
jiāng BK (giang HV), ...v.v... Nh́n rộng ra
hơn, tên 12 con giáp Tư Sửu Dần ... Măo ...
Tuất Hợi khi nhập vào tiếng Hán đă mất đi
phần nào ư nghĩa nguyên thuỷ của tên gọi các
loài động vật rất gần gũi với nhà nông.
Không những thế, chúng c̣n được tô son điểm
phấn (Hán hoá) và rất khó nhận ra các liên
hệ cụ thể nguyên thuỷ: chúng trở thành những
khái niệm trừu tượng (được ‘nâng cấp’) trong
bói toán và cách ghi ngày tháng (kết hợp với
Thập Can); Đây cũng là một lợi thế của nhóm
thống trị có chữ viết sẵn (chữ Hán) và khả
năng tổ chức. Lợi thế của một hệ thống chữ
viết có sẵn như chữ ô vuông (chữ Hán) có thể
là chỉ thêm một dấu phẩy nhỏ mà nghĩa lại
đổi hẳn đi. Thí dụ như chữ quốc5 chẳng hạn,
một dạng chữ quốc 囯 cổ đại viết bằng bộ vi 囗
hợp với chữ vương 王 hàm ư lănh thổ có giới
hạn/biên giới và có vua đứng đầu, tuy nhiên
khi thêm một dấu phẩy nhỏ vào bên phải chữ
vương th́ vương 王 lại trở thành ngọc 玉. Chữ
quốc cổ đại 囯 với chữ vương - phản ánh chế
độ vua chúa phong kiến - nay đă thay bằng
chữ quốc với chữ ngọc 国 hàm ư lănh thổ (bộ
vi) chứa những tài sản quư báu (như dân
chúng, ngọc ngà châu báu/đất đai ...). Chữ
quốc với chữ ngọc 国 cũng là loại chữ giản
thể rất thông dụng hiện nay. Hiện tượng
'thay đổi chữ viết' một cách thâm thuư6 trên
có thể giải thích được chữ thố/thỏ 兔 đă dùng
thay cho chữ miễn/*măn/ văn 免 - âm *măn đă
từng có nghĩa là mèo trong tiếng Việt7. Sự
lẫn lộn8 giữa mèo và thỏ c̣n thấy trong cách
dùng dă miêu 野猫 để chỉ loài thỏ hoang (wild
rabbit)9 và mèo hoang trong văn hoá TQ và
đáng được đào sâu hơn.
3. Lẫn lộn giữa các loài mèo và thỏ …
trong văn hoá TQ
Thố
tôn 兔猻 (thỏ tôn) là loài mèo hoang đang từ
từ biến mất: loài thú này ở Trung Á, Tây Bá
Lợi Á, Kashmir, Nepal, Thanh Hải , Nội Mông
Cổ , Hà Bắc , Tứ Xuyên , Tây Tạng , Tân
Cương ... Thố tôn hay Xá Lị tôn 猞 猁 孫 :
tiếng Anh c̣n dùng cụm từ Steppe cat và
chúng hay sống trong các khu sa mạc. Khi
người Hán tràn xuống phía Nam và Tây, ta
thấy hiện tượng lẫn lộn ‘trông/nh́n mèo ra
thỏ’ (trông gà hoá cuốc) như cách gọi Thố
tôn này: các lẫn lộn trên giải thích được
phần nào tại sao chi thứ tư Măo Mẹo liên hệ
đến mèo chứ không phải là thỏ từ nguyên
thuỷ. H́nh sau trích từ trang mạng Bách Khoa
TQ
http://zh.wikipedia.org/wiki/%E5%85%94%E7%8C%BB
hay xem thêm
http://baike.baidu.com/view/39824.htm
Thố tôn 兔狲
Thỏ và mèo
Thố tôn c̣n được gọi là dương xá lị 洋猞猁, ô
luân 烏倫, mă năo 瑪瑙, mă năo tặc 瑪瑙勒 ... Xá lị
猞猁 là loài mèo hoang (lynx).
Miêu là từ HV nghĩa là mèo, nhưng nghĩa Hán
cổ đại của miêu là loài hổ ít lông chứ không
phải là mèo; Dữ kiện này hỗ trợ cho khả năng
Măo 卯 chỉ là một cách kư âm của một tiếng
nước ngoài (tiếng Việt cổ) nhập vào tiếng
Hán. Đây là định nghĩa của miêu
【 爾雅 • 釋獸】 虎竊毛, 謂之虦貓
【Nhĩ Nhă•Thích Thú】 hổ thiết mao,vị chi sạn
miêu
Sạn/sàn 虦 theo Ngọc Thiên cũng là mèo.
Sạn/sàn虦 c̣n viết là 虥 (chữ hiếm - tần số
dùng là 11 trên 237243358) chỉ loài mèo
hoang có vằn.
Thố/thỏ 鵵 hay 𨿮 nghĩa cổ là một loài chim
Văn hay *măn 梚 (chữ hiếm) chỉ một loài cây
theo cổ thư TQ; Nhưng giọng Hẹ lại đọc là
t'u2 (như âm thổ) - so với hai âm măn (mèo)
và thố/thỏ.
…
4. Các cách giải thích khác nhau
Để hiểu tại sao người Việt lại dùng mèo cho
chi Măo 卯, một cách giải thích thường gặp10
trong tài liệu TQ là âm Măo khi nhập vào
tiếng Việt đọc giống như mèo hay miêu HV nên
người Việt dùng mèo làm biểu tượng thay v́
thỏ. Điều này không hợp lư v́ các lư do sau
3.1 Mèo là แมว maew (tiếng Thái), maaw (Lào)
... nhưng thỏ lại là loài vật biểu tượng cho
chi Măo ở Thái, Lào! Điều lầm lẫn giữa Măo
và mèo lại càng rất khó xẩy ra khi đất Giao
Chỉ có những liên hệ rất gần với các triều
đại phương Bắc (Hán ... Đường) so với các
dân tộc khác ở phía tây Giao Chỉ.
3.2 Nếu mèo đọc gần như Măo và được dùng làm
loài vật tượng trưng cho chi thứ tư này, rất
khó giải thích tại sao nga (ngỗng trời ...
c̣ biển) gần gũi với dân ta (đánh cá, gần
biển ...), đọc gần giống âm cổ *ngwa của Ngọ
午, lại không là loài vật biểu tượng cho chi
Ngọ? C̣n âm cổ Mùi (Vị) 未 của chi thứ tám
đọc gần với âm muỗi, tại sao người Việt lại
dùng dê chứ không là muỗi ... và c̣n nhiều
các âm giống khác nữa ....v.v... Ngoài ra,
tuy chữ Nôm c̣n quá ‘trẻ’ để phân tích liên
hệ ngữ âm của tên gọi 12 con giáp, nhưng
cũng có vài điểm đáng chú ư là mèo (cũng như
meo) thường dùng chữ miêu 貓 HV như
'Lẻo lẻo doành xanh con mắt mèo' (Bạch Vân
Thi Tập, Nguyễn Bỉnh Khiêm 1491-1585)
Nhưng méo th́ chữ Nôm dùng Măo 卯 (có khi
cộng thêm dấy nháy)
'Tṛn tṛn méo méo in đ̣i thuở’ (Hồng Đức
Quốc âm Thi Tập, soạn bởi quần thần và Lê
Thánh Tông 1442-1497).
Do đó, hai âm Măo và mèo đă có sự phân biệt
ít nhất từ thời nhà Lê, và xác suất nhầm lẫn
giữa Măo11 (âm Hán trung cổ, nhập ngược vào
VN khoảng từ thời Đường Tống) và mèo (âm
thượng cổ) trong tiếng Việt rất nhỏ!
3.3 Khuynh hướng tổng quát và tự nhiên của
chữ viết loài người tiến hoá từ cụ thể và
đơn giản đến trừu tượng12. Thí dụ như tên
gọi các loài vật được dùng với nghĩa mở rộng
hơn, trừu tượng hơn như mặt chuột (so với
mặt rồng), thân trâu ngựa, ăn như mèo ngửi,
tính t́nh như rắn rít ... Thành ra, suy luận
từ âm Măo cho ra mèo th́ không phù hợp với
khuynh hướng tự nhiên; Đáng lẽ là từ mèo
(loài vật, cụ thể) cho ra âm Măo (hệ thống
ghi thời gian, trừu tượng, bói toán/số mệnh)
mới hợp lư hơn. Hệ thống gọi tên các con vật
cụ thể (đơn giản) và rất gần gũi với nhà
nông khi nhập vào văn hoá Hán đă trở thành
hệ thống ghi nhận thời gian, bói toán (trừu
tượng, phức tạp); Hệ thống 12 con giáp này
cùng khởi sắc khi văn hoá Hán phát triển cực
mạnh (Tần, Hán ... Đường, Tống ...) và ảnh
hưởng đến các khu vực chung quanh, đây lại
là hiện tượng nhập ngược mà ít người ư thức
được trong trường hợp Việt Nam.
3.4 Có những cách giải thích không có cơ sở
khoa học, đầy cảm tính như sự thay đổi giữa
mèo và thỏ là sự xuyên tạc sự thật13 , hoặc
dựa vào những ‘huyền thoại’ không thể kiểm
chứng khách quan được: người viết chỉ ghi
nhận vắn tắt ở đây mà thôi.
Từ những góc độ nh́n khác nhau như trên, ta
thấy khả năng nguồn gốc tên gọi 12 con giáp
có thể đến từ tiếng Việt cổ. Thật ra th́
người Việt chúng ta không cần phải lư giải
tương quan rất tự nhiên giữa Măo Mẹo và mèo,
cũng như Tư chút *chuốt chuột, Ngọ ngựa, Hợi
*Gỏi cúi (heo), Sửu *tlu trâu ... Người Việt
không phải dùng các từ ghép so với văn hoá
TQ như Măo Thố 卯兔 , Tư Thử 子鼠, Sửu Ngưu 丑
牛để giúp ta nhớ đến tương quan Măo mèo, Tư
chuột, Sửu tlu/trâu ..... Chính các ngôn ngữ
hay dân tộc nào dùng thỏ thay v́ mèo cho chi
Măo/ Mẹo mới cần phải giải thích sự khác
biệt này: đây là sự vay mượn hay cố t́nh
thay đổi? …. Không phải là hoàn toàn nghịch
lư khi tổ tiên c̣n dặn ḍ con cháu rằng
Trăm năm bia đá th́ ṃn
Ngàn năm bia miệng vẫn c̣n trơ trơ
5. Phụ chú và phê b́nh thêm
Để cho liên tục, người đọc có thể xem thêm
các bài viết về chi Măo (hai bài trước số
thứ tự là phần 4, 4A) chủ đề "Nguồn gốc Việt
(Nam) của tên 12 con giáp" trên trang mạng
khoahoc.net, dunglac.com ... của cùng một
tác giả (Nguyễn Cung Thông), hay lên google
và đánh tên nguyencungthong th́ sẽ có loạt
bài liên hệ đă đăng ớ các địa chỉ/website
khác nhau. Ngoài hiện tượng đổi chữ (dùng
dấu phẩy chẳng hạn), lẫn lộn (mèo thành
thỏ), chúng ta cũng nên để ư đến hiện tượng
nhập ngược (Măo nhập ngược vào ngôn ngữ Việt
với dạng cổ mèo đă hiện diện). Hiện tượng
nhập ngược lại (back-loan) trong quá tŕnh
giao lưu văn hoá như Bụt-Phật, tên 12 con
giáp (gốc Việt cổ) trong tiếng Việt không
phải là hiếm - nhất là khi các dân tộc sống
gần nhau qua một thời gian rất dài; Một thí
dụ gần đây hơn và thường được nhắc đến đă
xẩy ra vào thế kỷ 20 khi Nhật Bản du nhập
văn minh Tây phương và dùng một số từ gốc
Hán, sau đó các từ này nhập ngược lại tiếng
Hán và sau đó nhập vào tiếng Việt
Xí nghiệp (HV) 企業 qi4 ye4 (Bắc Kinh) kigyō
(Nhật)
Điện tử 電子 dian4 zi3 denshi
Nguyên tử 原子 yuan2 zi3 genshi
Thị trường 市場 shi4 chang3 shijō
Khoa học 科學 ke1 xue2 kagaku
Hàng Không Mẫu Hạm 航空母艦 hang2 kong1 mu3
jian4 kookuubokan
...v.v...
1) nhưng theo học giả Lê Quư Đôn (1726-1784)
trong ‘Vân Đài Loại Ngữ’, và Jean Bonet
trong ‘Dictionnaire annamite-francais’
(1899) th́ thỏ là con vật biểu tượng cho chi
Măo: điều này cho thấy ảnh hưởng không nhỏ
và có khi méo mó của chữ và văn hoá Hán,
nhất là khi dùng tài liệu TQ. Văn hoá dân
gian ta vẫn duy tŕ cách dùng con mèo (không
phải thỏ) như trong tự điển Việt Bồ La
(1651) – xem phần giải thích về giờ.
3) thí dụ như thanh điệu trong từ láy bốn
chữ nũng nà (na) nũng nịu ... đều cùng âm
vực trầm (trọc)
4) xem thêm chi tiết trong cuốn "ABC
Etymological Dictionary of Old Chinese" của
GS Axel Schuessler, NXB University of
Hawai'i Press (Honolulu, 2007) trang 91 mục
8.2.1
5) danh từ nước (tiếng Việt) có khả năng là
một dạng ngạc cứng hoá của vực 域 (vực >
*nhược > nước tiếng Việt) so với dạng quốc
(vực > *kwuc > quốc tiếng Hán Việt), nhưng
ảnh hưởng của đạo Phật đă đưa nước (quốc gia
có biên giới rơ ràng, xem lịch sử h́nh thành
chữ quốc國 tiếng Hán bên dưới) đến với nước
(chất lỏng, không phân định ranh giới rơ
ràng, tuỳ thuộc h́nh thể/địa chất) trong vốn
từ của toàn dân; Đây là sự thể hiện qua ngôn
ngữ của giáo lư PG vô thường và mầu nhiệm.
Các dữ kiện này cho thấy tư tưởng PG và văn
hoá dân gian VN, qua tư duy nông nghiệp/tổng
hợp và cụ thể, đă hoà lẫn với nhau từ thuở
xa xưa để h́nh thành những nét văn hoá ngôn
ngữ đặc thù của dân tộc, một đề tài lớn rộng
đáng được nghiên cứu rất chi tiết để hiểu rơ
hơn lịch sử và bản sắc văn hoá tộc Việt cho
đến ngày nay.
6) từ khi dùng bút lông để viết chữ Hán, dấu
chấm (nguyên thủy) trở thành dấu phẩy cho
hợp với thế viết. Dấu phẩy bên phải của chữ
ngọc được thêm về sau này - giáp văn, kim
văn, triện văn không có dấu phẩy - chữ vương
王 và ngọc 玉 bắt đầu giống nhau từ thời kim
văn
Chữ miễn/*măn/văn免và chữ thố兔thời Xuân Thu
có thể hoán chuyển cho nhau như trong đề từ
khắc hoạ ở đền thờ Vũ Lương, bia khắc thời
Hán ... Ngoài ra, các cách khắc/viết của
miễn/*măn/văn và thố/thỏ cũng có lúc giống
nhau trong triện văn
Có những trường hợp chữ Hán không thay đổi
nghĩa khi thêm (hay bớt) dấu phẩy ở trên hay
dưới
Triện văn Tư HV (nghĩ, tư duy)
7) 'con măn tam thể': chat à trois couleurs
(mèo tam thể, mèo có ba màu) theo Gustave
Hue trong cuốn 'Dictionnaire
vietnamien-chinois-francais' (Imprimerie
Trung Hoà, 1937). Thuyết Văn Giải Tự/TVGT
c̣n ghi chữ 獌 man, mán, mạn (màn mán wàn -
giọng Bắc Kinh/BK) là chữ hiếm với tần số
dùng là 9 trên 171894734 như sau
獌,[舞販切 ],狼屬。從犬曼聲。《爾雅》曰:“貙獌,似貍。”
mạn ,[ vũ phiến thiết ] , lang thuộc . Ṭng
khuyển mạn thanh . " Nhĩ Nhă " viết : " sâu
mạn , tự li . "
Để ư TVGT cũng ghi miêu là loài li 貓,貍屬
(miêu, li thuộc). Người Mèo 苗族 (Miêu tộc)
c̣n được gọi là người Man, Mán 蠻 蛮
8) hiện tượng lẫn lộn giữa loài thỏ và mèo
(khi nh́n từ xa khá giống nhau) c̣n thể hiện
qua các phương ngữ ở TQ thời cổ đại, phản
ánh giao lưu văn hoá ngôn ngữ của các dân
tộc đă từng hiện diện ở khu vực Trường Giang
và phía nam TQ. Thí dụ như chữ nậu 䨲
(Unicode 4A32), nóu BK neu2 wan5 giọng Hẹ
... Chữ này rất hiếm từng chỉ thỏ con, nhưng
lại có thể đọc là *man (so với măn là con
mèo tiếng Việt), trích tự điển Khang Hy
《集韻》江東呼兔子爲䨲 ... 《廣韻》《集韻》無販切,音萬
"Tập Vận" Giang Đông hô thỏ tử vi nậu ...
Quảng Vận, Tập Vận : vô phiến thiết, âm vạn
(nậu HV)
9) Dă miêu 野猫 có các nghĩa là (a) mèo hoang
(dă) hay mèo đồng, (thỏ hoang, và nghĩa mở
rộng (tỷ dụ/metaphor) là © người lỗ măng ...
11)
cách đọc Măo rất phù hợp với cách phiên
thiết theo Đường Vận/Tập Vận: 莫飽切, 音昴 mạc
băo thiết, âm măo. Cũng như đa số các âm Hán
Việt khác tương thích với âm Hán trung cổ,
phản ánh khả năng nhập vào tiếng Việt vào
khoảng thời Đường Tống ... Điều này cho thấy
cách đọc HV Tư Sửu Dần ... Tuất Hợi cũng
nhập vào tiếng Việt khoảng đời Đường hay sau
này. Âm thượng cổ của Măo là *meu - theo tự
điển phổ thông trên mạng
http://tool.httpcn.com/Html/zi/22/PWCQKOUYRNUYKOTBF.shtml
[ 上古音 ]:幽部明母,meu - so với dạng mèo tiếng
Việt
[ 广 韵 ]:莫飽切,上31巧,mǎo,效開二上肴明
[ 平水韵 ]:上声十八巧
[ 国 语 ]:mǎo
[ 粤 语 ]:maau5
[ 闽南语 ]:bau2
Các dữ kiện về âm thượng cổ *meu (mèo) của
tự điển TQ trên c̣n chứng minh rằng dạng mèo
thượng cổ đă cho ra dạng Măo/mǎo trung cổ,
và đă ‘hoá thạch’ hay trở nên bất tử trong
tiếng Việt.
Post ngày:
10/19/17