| |
|
Nguồn gốc Việt Nam của tên 12 con
giáp - Ngọ- Ngũ -ngựa (phần 13)
Nguyễn Cung Thông nguyencungthong@yahoo.com
- Ngọ hay Ngũ 午 là chi thứ 7 trong
thập nhị chi hay 12 con giáp. Biểu tượng của Ngọ là con ngựa dùng
chỉ thời gian như giờ Ngọ từ 11 giờ sáng đến 1 giờ chiều (chính ngọ
là đúng trưa, giữa trưa hay 12 giờ trưa), tháng 5 ... và xác định
không gian như hướng Nam. Phần này không bàn về khái niệm thời không
gian hay Ngũ Hành/kinh Dịch của Ngọ mà chỉ chú trọng vào các liên hệ
ngữ âm của Ngọ và ngựa so với mă 馬 (tiếng
Hán Việt/HV cũng chỉ con ngựa). Phần sau sẽ cho thấy mă là tiếng Hán
có gốc Hán Tạng, khác hẳn với ngựa tiếng Việt - và liên hệ trực tiếp
của Ngọ và ngựa cho thấy tên chi này có nguồn gốc Việt (Nam) chứ
không phải Trung Quốc/TQ cũng như tên gọi của 11 con giáp c̣n lại
...
- Ngựa tiếng Thái là maH ม้า, năm Ngọ là
maH-mia มะเมีย hay bpee mah-mia ปีมะเมีย.
Điều này cho thấy ảnh hưởng trực tiếp của TQ (mă là ngựa)
cũng như dạng Ngọ HV của tiếng Việt. Tiếng Lào1 cũng có dạng maH chỉ
con ngựa cho thấy vay mượn từ TQ, sa-nga (ngựa) là một dạng khác
trong tiếng Lào có thể là tàn tích của một nhóm ngôn ngữ liên hệ đến
tiếng Ahom (shi-nga), tiếng Lanna (sa-nga)... Các dữ kiện như tiếng
Thái, Lào, Hán Việt ... sẽ không có trích dẫn nguồn (v́ rất dễ kiểm
tra lại) so với những bài viết hay tài liệu ngôn ngữ đặc biệt hơn.
- Giọng Bắc Kinh/BK bây giờ được ghi bằng pinyin (bính âm) rất phổ
thông, so với các số sau vần chỉ thanh điệu như ma3 (mǎ BK) hay mẫu
tự như H (High, chỉ thanh điệu cao như tiếng Thái maH) - không nên
lầm với các số cho phần ghi chú thêm.
- 1. Giới thiệu tổng quát
-
- H́nh ảnh loài ngựa rất thường gặp trong văn hóa Á Đông, khắp nơi
trên thế giới v́ các khả năng chuyên chở, săn bắn và chiến lược cũng
như loài ngựa khá dễ thuần hóa.
- 1.1
Ngựa trong văn hóa TQ
-
- Lăo kí phục lịch : chỉ người có chí lớn
- Lăo mă thức đồ : chỉ người thông minh lịch lăm
- Long mă tinh thần : hàm ư có tinh thần phấn đấu vượt hiểm nguy
- Thiên mă hành không : hàm ư ung dung tự tại phóng ngựa phi nhanh
...
- Mă đáo thành công, Mă đáo công thành : việc làm thành công sớm
- thời xưa khi quân đội xuất chinh th́ thường chúc nhau là đánh một
lần th́ thành công. Thành ngữ này xuất phát từ Nguyên khúc tuyển, Sở
Chiêu Công, chiết 1 ... Thành ngữ này rất thông dụng ngay cả bây giờ
trong tiếng Việt
- Thiên quân vạn mă : chỉ thanh thế mạnh mẽ (hùng mạnh)
- Tái ông thất mă (ông già cửa ải mất ngựa) : hàm ư phúc họa không
ai biết trước được hay trong điều xấu có thể có điều tốt …
- Hồ mă Việt điểu : ngựa Hồ phương Bắc và chim Việt phương Nam khi
ở Trung Quốc vẫn nhớ đến quê cũ
- Mă cách quả thi : da ngựa bọc thây (trích từ Hậu Hán Thư, câu
nói của danh tướng Mă Viện trả lời Hán Quang Vũ về ư chí làm trai
thà chết nơi chiến trường).
- Mă thượng khán hoa : cưỡi ngựa xem hoa, hàm ư chỉ xem qua loa mà
thôi
- Mă giác ô bạch (sừng ngựa quạ trắng), mă giác ô đầu (sừng ngựa
đầu quạ) ... đều hàm ư chuyện không thể xẩy ra, không thể thực hiện
được (ngựa không có sừng, quạ không thể có màu trắng ...)
- Mă bất bội chủ : ngựa không phản lại chủ, hàm ư trung thành
- Phi lư phi mă : chẳng phải lừa và chẳng phải ngựa, không giống
con giáp nào cả ...
- Mă nhĩ đông phong (gió đông qua tai ngựa) : vào tai này ra tai
kia, không chú ư hay tập trung, nước đổ đầu vịt ...
- Mă công Mai tốc (công phu như Mă và nhanh nhẹn như Mai) : mọi
người đều có khả năng riêng
- Mă mă hổ hổ : lè phè, làm việc không cẩn thận ...
- Mă ngưu khâm cư : trâu và ngựa mặt quần áo người, thiếu tư cách
... Cách trang điểm phải thích hợp - so với câu 'cái răng cái tóc là
gốc con người' trong văn hóa Việt Nam
- Mă thượng bất tri mă hạ khổ : người đi ngựa không biết nỗi khổ
của người đi bộ (hoàn cảnh khác nhau khó thông cảm)
- Hại quần chi mă : con ngựa làm hại cả đàn, hàm ư một cá nhân làm
hại cả tập thể ...
- Mă đằng vu tào, nhân huyên vu thất : ngựa chạy trong chuồng và
người nói trong pḥng - hàm ư một nơi (cơ sở) to lớn
- Mă kháo an trang, nhân kháo y thường : cái yên làm nên con ngựa
và quần áo làm nên con người – hay ‘người đẹp nhờ lụa, ngựa nhờ
yên'2
- Mă bất đ́nh đề : ngựa chạy không nghỉ, hành tŕnh không nghỉ ...
- Thiên lư mă : ngựa giỏi, nổi bật. Ngựa xích thổ của Quan Công
thời Tam Quốc có thể đi rất xa (nên c̣n gọi là thiên lư câu) nhịn ăn
mà chết theo chủ cho thấy tính trung thành của loài ngựa ...
- Án đồ sách kí : xem tranh để chọn ngựa
- Hăn mă công lao : giải quyết thành công việc nước
- Phong mă ngưu bất tương cập : ngựa và trâu có đuổi nhau cũng
không gặp, hàm ư hai vật ǵ không có liên quan với nhau
- Mă thủ thị chiêm : đầu làm ǵ đuôi theo nấy, khi đánh trận phải
xem hướng đầu ngựa của chủ Tướng chỉ huy (tới, lui hay ngừng ...)
hàm ư vui vẻ ḥa thuận và tuân lời chỉ huy
- Đao thương nhập khố, mă phóng Nam Sơn : đao thương cất vào kho
và cho ngựa ăn cỏ ở núi Nam Sơn, thái độ tiêu cực không pḥng bị dễ
thất bại (dễ bị kẻ địch phản công).
- Mă đề đao biều lư thiết thái - trích thủy bất lậu : bần tiện như
thái rau cải bằng móng ngựa - xài nhỏ giọt, keo kiệt ...
- Ngưu tầm ngưu, mă tầm mă : người cùng bản tính thường t́m đến
nhau ...
- Mă c̣n là một họ TQ, như Mă Viện (danh tướng đời Hán). Tổ tiên
Mă Viện giỏi thuần ngựa nên có danh hiệu là Mă Phục Quân (người giỏi
thuần ngựa).
- …v.v…
-
- Đúng ra ta cần cả một cuốn sách dầy2 viết về h́nh ảnh của loài
ngựa trong văn hóa TQ và VN, tuy nhiên phần này chỉ tóm tắt những
câu thường gặp cho thấy ảnh hưởng sâu xa của loài vật này qua thành
ngữ tục ngữ TQ.
-
- 1.2 Ngựa trong văn hóa Việt Nam
-
- Loài ngựa đă gắn bó với loài người từ thời Thượng Cổ, không chỉ
có ở Việt Nam. Do đó ta cũng có nhiều ca dao, tục ngữ, khẩu ngữ có
h́nh ảnh loài ngựa - không những thế ngựa đă đóng góp trong quá
tŕnh giữ nước qua truyện thánh Gióng3 hay Dóng, Đổng
董.
-
- Truyện Kiều có ít nhất 24 câu ‘dính dáng’ đến loài ngựa như
-
- Ngựa xe như nước áo
quần như nêm (câu 48)
- Đầu trâu mặt ngựa
ào ào như sôi (câu 378)
- Vó câu thẳng ruổi
nước non quê người (câu 1602)
- ...v.v...
-
- Một số ca dao thành ngữ Việt Nam cho thấy ảnh hưởng của TQ như
'bóng ngựa (câu) qua cửa sổ' hàm ư thời gian qua nhanh, từ câu nói
của Trang Tử (Nhân sinh thiên địa chi gian, nhược bạch câu chi quá
khích, hốt nhiên chi dĩ) và
-
- Bây giờ kẻ Bắc
người Nam
- Ngựa Hồ chim Việt
biết làm sao đây
-
- Và Ngựa ai buộc ngơ ông Cai
- Hoàn ai mà lại đeo
tai bà Nghè
- Ngựa ai buộc ngơ
ông Nghè
- Gà ai lại thả trước
hè ông Cai
- …v.v…
-
- So với các thành ngữ tục ngữ khác như ngựa non (con) háu (sáo)
đá, lên xe xuống ngựa, ngựa quen (theo) dấu (đường) cũ, chạy như
ngựa, được đầu voi đ̣i đầu ngựa, mồm chó vó ngựa, như ngựa bất kham,
một con ngựa đau cả tàu chê cỏ, thẳng (như) ruột ngựa, thiếu voi
phải dùng ngựa, thân (kiếp) trâu ngựa, ngựa long-cong ngựa cũng đến
bến - voi thủng-thỉnh voi cũng đến đ̣, ngựa dập (xéo) voi giày …v.v…
-
- Ảnh hưởng của loài ngựa rất sâu đậm trong văn hóa dân gian TQ và
Việt Nam như đă thấy bên trên; Thành ra để thấy rơ nguồn gốc chữ Ngọ
từ nền văn hóa cổ điển nào th́ ta phải đi vào chi tiết của cách
thành lập chữ và âm Ngọ.
-
- Nếu mă馬được dùng cho chi thứ 7 thay v́
Ngọ th́ không ai đặt vấn đề nguồn gốc phi-Hán của tên 12 con giáp
làm ǵ, nhưng khi xem kỹ lại nguồn gốc thành lập chữ mă từ thời giáp
cốt văn, kim văn, chữ triện ... ta thấy rơ ràng là chữ mă馬tượng
h́nh con ngựa – xem thêm trang mạng của Richard Sears (cập nhật
2008)
http://www.chineseetymology.org/CharacterASP/CharacterEtymology.aspx?characterInput=%E9%A9%AC&submitButton1=Etymology
-
-
-
-
-
Seal Characters (chữ triện) mă
馬
-
-
-
- Bronze Characters (kim văn)
-
- Oracle Characters (giáp cốt văn)
-
-
-
- C̣n chữ Ngọ午có nguồn gốc rất khác chữ
mă; Xem h́nh th́ ta có thể đoán là một cái chày giă gạo, liên hệ đến
chữ (xử) 杵. V́ cách dùng đặc biệt của Ngọ
là chi thứ 7 nên sau này chữ 杵 mới được
tạo ra để chỉ cái chày - xem thêm trang mạng của Richard Sears (cập
nhật 2008)
http://www.chineseetymology.org/CharacterASP/CharacterEtymology.aspx?characterInput=%E9%A9%AC&submitButton1=Etymology
-
-
-
-
Seal Characters (chữ triện) Ngọ
午
-
-
- Bronze Characters (kim văn)
-
- Oracle Characters (giáp cốt văn)
-
- …v.v…
-
- Nguồn gốc h́nh thành chữ Ngọ qua các thời kỳ giáp văn, kim văn,
chữ triện ... như trên cho ta thấy ngay là Ngọ không có liên hệ ǵ
đến con ngựa như mă HV. Thêm vào đó là sự vắng bóng của loài vật này
trong đời sống tâm linh và tín ngưỡng của TQ cổ đại : như không có
mặt trong nhóm tứ linh (bốn con vật linh thiêng là long, ly, quy,
phượng) hay tam sinh (bốn con vật thường được dâng cúng là trâu, dê,
lợn). Văn hóa du mục của phương Bắc tận dụng loài ngựa nên ta không
ngạc nhiên khi thấy chúng xuất hiện nhiều trong các thành ngữ tục
ngữ liên hệ đến chiến tranh, ngay cả Thuyết Văn Giải Tự (Hứa Thận
soạn thời Đông Hán) cũng gói ghém tư tưởng này trong cách ghi 'Mă,
nộ dă, vơ dă'!
- Như vậy nếu Ngọ có nghĩa là ngựa th́ chữ Ngọ đă được người Hán
dùng để kư âm một 'tiếng ngoại quốc' nào đó (so với chữ mă đă có
sẵn) - các tương quan ngữ âm phần sau sẽ cho ta thấy 'tiếng ngoại
quốc' này chính là tiếng Việt (Cổ).
-
- 2. Phụ âm đầu ng- của Ngọ/Ngũ
-
- Thật ra âm Ngọ hay Ngũ 午 đă là âm
Trung Cổ của âm wǔ BK bây giờ, dạng Ngọ rất gần với các dạng của
phương ngôn miền Nam TQ như Quảng Đông, Hẹ, Phúc Kiến ... Hiện nay
giọng BK không c̣n phụ âm đầu ng- nữa. Trích từ các tài liệu âm vận
Trung Cổ của chữ Hán ta thấy cách đọc của Ngọ là [唐韻】【集韻】【韻會】【正韻】疑古切,音五
[ Đường Vận ] [ Tập Vận ] [ Vận Hội ] [Chánh Vận ] nghi cổ thiết ,
âm Ngũ - đều cho thấy phụ âm đầu là ng- (phụ âm vang gốc lưỡi). Các
tác giả như Axel Schuessler4 (2007) và William Baxter5 (1992) đều
phục hồi âm Ngọ Thượng Cổ với dạng *nga?, nhưng theo người viết và
dựa vào dạng *mangơơ của tiền Việt-Mường-Pakatan theo Michel Ferlus4
th́ âm Ngọ Thượng Cổ có thể là *ngwa hay *ngua. Dạng *ngwa đă cho ra
âm ngựa tiếng Việt và Mường (Bi) bây giờ. Tiếng Việt không có các
dạng ngua, ngụa, ngúa, ngủa ...
-
- 3. Nguyên âm o và u của Ngọ/Ngũ
-
- Ít người biết rằng Ngọ c̣n có thể đọc là Ngũ (xem phần 2 bên
trên). Chính v́ vậy mà ta thường nghe nói đến Ngọ Nhật (ngày Ngọ) là
ngày mồng năm tháng năm âm lịch hay c̣n là tết Đoan Ngọ (Đoan Ngũ).
Tương quan giữa hai nguyên âm sau (back vowels) o, u khá rơ nét
qua các cặp vơ vũ, trong trung, ṭng tùng, tông tung, dong dung,
thong (dong) thung (dung), dơng dũng, khom khum, mồng mùng, xông
xung …v.v…
-
- Một cách khác để xem những âm đọc của Ngọ khi xưa ra sao là phân
tích các chữ Hán dùng chữ Ngọ làm âm phù. Cũng như các chữ Hán kư âm
tên 12 con giáp, Ngọ cũng được dùng làm thành phần hài thanh/HT
trong quá tŕnh cấu tạo chữ Hán suốt chiều dài lịch sử - ta hăy xem
vài chữ Hán có thành phần HT là Ngọ và các dạng biến âm trong tiếng
HV, Việt :
-
- 3.1 Ngự viết là 馭 hay
御 (chữ này dựa vào bộ sách, làm mất đi các
liên hệ ngữ âm của ngự - ngựa). Nghĩa nguyên thủy của ngự là người
cầm roi hay cương ngựa để điều khiển (xem giáp văn, kim văn), sau mở
rộng nghĩa là pḥng ngự (pḥng ngừa). Ngừa chính là một dạng cổ của
ngự. Có tác giả6 dựa vào chữ ngự (dây cương) này để liên kết Ngọ với
ngựa trong hệ thống ngữ âm thuần Hán, nhưng lư luận từ cụm từ dây
cương dẫn đến danh từ ngựa không hợp lư v́ ngựa hiện diện trước dây
cương (dụng cụ kiểm soát ngựa, chế ngự) nên quá tŕnh thành lập chữ
phải là ngựa > dây cương. Tương tự như vậy, tên 12 loài vật cụ thể
phải có trước khi chúng được dùng để chỉ khái niệm thời gian như năm
sinh hay các khái niệm bói toán trừu tượng hơn! Đây cũng là lư luận
gà-hay-trứng-gà (chicken or the egg) giai đoạn nào có trước và rất
dễ đi vào ṿng lẩn quẩn ...
-
- 3.2 Hứa viết là 許 c̣n đọc là hổ, hử
theo Tập Vận, Vận Hội ... Biến âm từ Ngũ Ngọ thành hứa có thể giải
thích dựa vào vị trí phát âm cuối họng (yết hầu) của ng- và h- cũng
như u/o thành -ưa
-
- 3.3 Ngỗ viết là 仵,
忤, 迕 ... đều cho thấy âm Hán Cổ của
thành phần hài thanh Ngọ Ngũ 午 … Ngỗ 忤
nghịch 逆 (không nghe lời) thường gặp trong
tiếng Việt, cho thấy phần nào nghĩa mở rộng từ các hoạt dộng điều
khiển, kiềm chế (chế ngự) loài ngựa. Quá tŕnh mở rộng nghĩa từ cụ
thể đến trừu tượng c̣n thấy trong cách nói 'thua ngựa một cái đuôi'
(hàm ư dâm dật, Đại Nam Quốc Âm Tự Vị - 1895); Bây giờ tiếng Việt
vẫn c̣n dùng tiếng lóng (chửi tục) như 'ngựa bà' cùng một ư.
-
- Từ phân tích ngữ âm trên : *Ngọ - ngự - ngừa, *Ngọ - hứa , Ngọ -
ngựa ... Ta có thể xác nhận tương quan giữa âm Ngọ Ngũ và ngựa tiếng
Việt7. Ngoài ra, tương quan u - ư - ưa c̣n thấy rất rơ nét khi nh́n
rộng ra cho hệ thống âm thanh HV qua các cặp từ HV và Việt sau đây :
-
- Phù 符 bùa, phụ 婦
bụa (quả phụ - góa bụa), phô phố 鋪- búa
(chợ búa), phủ 斧 búa - bừa, vụ
務 mùa, vũ 舞 múa,
vô mô 無 mựa (không), thâu thú
輸 thua, lư 驢 lừa (con lừa), lữ
侶 lứa (đôi lứa), trừ 除
chừa, trữ 貯 chứa, cự 距
cựa, cứ 鋸 cưa, sơ 疏
thưa, dũ (dữu, 庾) vựa, trú
晝 trưa ban ngày), tự 寺
chùa, chủ 主 chúa, chú 註
chua (chú sách),
du 諛 dua (a dua, nịnh hót), tu
鬚 râu, tua tủa ...v.v...
-
- Chính v́ sự vắng mặt của nguyên âm đôi -ua trong tiếng Hán mà
tác giả Paul Benedict c̣n đề nghị kỵ (kị) 騎
(qí BK) cũng có nguồn gốc phương Nam - để ư tiếng Việt c̣n duy tŕ
âm cổ là cưỡi hay cỡi, tiếng Thái cưỡi ngựa là
ขี่ม้า kèe máa (qí mǎ 騎馬 giọng
BK - nhưng Axel Schuessler4 lại cho rằng kỵ đă nhập vào các ngôn
ngữ ở Đông Nam Á).
-
- Tóm lại, ta có cơ sở rất vững chắc để thành lập liên hệ Ngọ Ngũ
午 và ngựa - tên gọi loài vật này trong
tiếng Việt. Liên hệ này không hiện diện trong tiếng Hán qua các thời
đại hay các ngôn ngữ khác trong vùng8, giải thích được khả năng
nguồn gốc tên con giáp Ngọ hay Ngũ này là
từ tiếng Việt (Cổ).
-
- Các tương quan ngữ âm Tư-chút-chuột, Măo-Mẹo-mèo, Hợi-gỏi-cúi,
Sửu-tlu/klu-trâu, Ngọ-Ngũ-ngựa ... Tiếng Việt cho ta thấy ngay tương
quan mật thiết giữa các tên 12 con giáp và tên gọi các loài vật liên
hệ. Điều này không hiện diện rơ ràng như vậy khi phân tích tên 12
con giáp trong tiếng Hán hay các ngôn ngữ khác ở Đông Nam Á - người
Hán có lúc phải dùng hai từ đi chung để hiểu nghĩa của chúng như丑牛Sửu
ngưu, 卯兔 Măo thố, 亥豕Hợi
thỉ, 午馬Ngọ mă ... Nhờ vào các mối dây âm
thanh mà dấu ấn vẫn c̣n rất đậm trong tiếng Việt (khẩu ngữ) và sự
chuyên cần ghi nhận của người TQ (qua các tài liệu cổ bằng chữ Hán)
mà ta có thể cảm nhận được phần nào chủ đề của loạt bài viết này
-
- Trăm năm bia đá th́
ṃn
- Ngàn năm bia miệng
vẫn c̣n trơ trơ
-
-
- 4. Phụ chú và phê b́nh thêm
-
- Phần này không hoàn toàn theo cách ghi tài liệu (Bibliography)
tham khảo APA hay MLA v́ bao gồm các phê b́nh thêm về đề tài, tài
liệu và tác giả để người đọc có thể tra cứu thêm chi tiết và chính
xác. Loạt bài "Nguồn gốc Việt (Nam) của tên gọi 12 con giáp" (cùng
tác giả) đă có một số đăng trong Kỉ Yếu Hội Thảo Ngôn Ngữ Học, Việt
Nam Học và các trang mạng văn hoá như vanchuongviet.org,
khoahocnet.com, e-cadao.com ....v.v...
- Xem lại cách phân loại khoa học của loài ngựa :
-
- Giới (regnum): Animalia
-
- Ngành (phylum): Chordata
-
- Lớp (class): Mammalia
-
- Bộ (ordo): Perissodactyla
-
- Họ (familia): Equidae
-
- Chi (genus): Equus - Chi này cho ra các loài lừa
(ass/donkey) ngựa vằn (zebra), ngựa ...v.v... Để ư : lư
驢 bộ mă + chữ lư hài thanh là con lừa
-
- Loài (species): E. caballus
-
- Các nghiên cứu về mitochondrial DNA
(mtDNA) cho thấy ngựa thuần hoá (domestic horse) có thể phát sinh từ
nhiều nơi cùng lúc và dần dần thích ứng với từng địa phương - c̣n
gọi là thuyết Bốn Nguồn Gốc (Bắc, Nam Âu Châu và Bắc, Tây Á Châu)
của loài ngựa (Four Foundations Theory) - xem thêm
http://en.wikipedia.org/wiki/Horse . Các khảo cứu ở TQ dựa vào
kết quả phân tích mtDNA của các xương ngựa hóa thạch cách đây hơn
2000 năm cho thấy nguồn gốc của chúng rất phức tạp - xem bài báo cáo
năm 2008 'Ancient DNA provides new insights into the origin of the
Chinese domestic horse' trên mạng
http://www.sciencedirect.com/science?_ob=ArticleURL&_udi=B6WH8-4TYYTCW-2&_user=10&_rdoc=1&_fmt=&_orig=search&_sort=d&view=c&_acct=C000050221&_version=1&_urlVersion=0&_userid=10&md5=367e08db895c39647aacde3261a9053d
. Trước đây, lịch sử thuần hoá loài vật thường là đề tài nghiên cứu
của các ngành Khảo Cổ hay Nhân Chủng Tiến Hoá Học (Evolutionary
Archaology, Anthropology) ... Nhưng gần đây hơn, các tiến bộ về Di
Truyền Học Phân Tử (Molecular Genetics) đă đóng góp rất nhiều vào
quá tŕnh xác định nguồn và thời gian thuần hoá. Tuy nhiên các kết
quả cần phải kiểm nghiệm chính xác cũng như phù hợp với các kết quả
từ ngôn ngữ, lịch sử, khảo cổ cũng như văn hoá dân gian – xem thêm
bài viết tổng hợp Molecular
Approaches to Understanding Animal Domestication: …v.v… Một vài
bài báo cáo như trên không đủ dữ kiện về nguồn gốc chính xác cũng
như tính phân bố thời không gian của loài ngựa. Tuy nhiên ta cũng
nên tham khảo thêm các kết quả cập nhật về Di Truyền Học để hỗ trợ
cho các kết quả dùng dữ kiện ngôn ngữ, khảo cổ, lịch sử ... và để
cho thấy vấn đề tổng quát và thích hợp hơn.
-
- 1. Dạng sa-nga song tiết của tiếng Lào dùng cho chi thứ 7 Ngọ.
Vấn đề song tiết của tiếng Việt Cổ đă được nhiều học giả trong và
ngoài nước đề cập đến : như GS Nguyễn Quang Hồng trong bài 'Những
chứng tích chữ Nôm xưa nhất hiện c̣n' (Hội Nghị Nôm học,
11-12/4/2008 - ĐH Temple, Hoa Kỳ), GS Lê Văn Quán trong bài viết cho
Hội Nghị Quốc Tế về chữ Nôm (Hà Nội 12-13/11/2004), Trần Uyên Thi và
Nguyễn Hữu Vinh trong bài 'Ai vẽ được, ai xóa được - dấu vết âm Việt
cổ : từ song tiết và phụ âm kép' (Hội Nghị Quốc Tế về tiếng Việt,
Viện Việt Học - California - 2007)... cũng như các bài viết của
Michel Ferlus ....... Thí dụ như các từ song tiết bà ngựa (ngựa),
la đá (đá), phá tán (rắn) ...v.v... Một cách tóm tắt ta có thể thấy
các nhóm ngôn ngữ dùng dạng (a) Ngọ/ng-/wǔ (b) mă/mami/uma
(c) s(i/a)nga (song tiết). Chính v́ các dạng song tiết (c) này
mà có tác giả như Li Fang-Kuei phục nguyên âm cổ của Ngọ là *zngagx
để cho ra các dạng sa-nga (Lào), Shi-nga (Ahom) ... và William G.
Boltz cũng ghi nhận điều này trong bài viết 'The Old Chinese
Terrestrial Rames in Saek' (đăng trong cuốn 'Studies in the
Historical Phonology of Asian Languages' Chủ biên William G. Boltz
và Michael C. Shapiro, 1991). Jerry Norman c̣n đề nghị tiền tố sa-
của Thái có lẽ chỉ là dạng sáng tạo địa phương trong bài viết "A
note on the origin of the Chinese Duodenary Cycle'. Tiền tố s- vẫn
c̣n gặp trong các ngôn ngữ như slaq (tiếng Mường, Kha… chỉ lá), snam
(tiếng Palaung chỉ năm), sro (tiếng Mường chỉ lúa)... Paul Benedict
c̣n đi xa hơn và đề nghị chính mă có nguồn gốc từ Ngọ hay ngựa của
ngữ hệ Nam Thái (Austro-Thai) : ông đưa ra dạng ngà/ka (ngựa) của
tiếng Lê (thổ dân đảo Hải Nam, thuộc Bách Việt) trong cuốn
'Austro-Thai, Language and Culture. With a Glossary of Roots' New
Havens 1975. Tác giả Paul Benedict là một trong số học giả hiếm hoi
trên thế giới từ trước tới nay lên tiếng khẳng định ảnh hưởng của
văn hóa ngôn ngữ phương Nam vào TQ thời Thượng Cổ, thí dụ như thập
nhị chi, các từ trà, dừa, chuối, nỏ hay ná ... và các số đếm trên
100 ...v.v... Nếu nh́n rộng ra xem các tiếng chỉ ngựa trong những
ngôn ngữ láng giềng, ta thấy dạng aseh (tiếng Kơho), aseh/seh
(GiaRai), asaih/atheh (Chàm - tiếng Chàm Cổ là *?aseh),*ơseh
(proto-Katuic), seh (Stiêng), ses (Khme)...Tác giả Paul J. Sidwell
phục nguyên dạng ngựa của tiếng South Bahnaric Cổ (proto-South
Bahnaric) là *?ơsơh (trong cuốn 'Proto South Bahnaric' Pacific
Linguistics 2000 Đại Học Quốc Gia Úc/ANU). Tiếng Phạn (Sanskrit) c̣n
có dạng आश्््व [ âsva ] chỉ con ngựa, và tác
giả Robert K. Headley đă từng đề nghị tiếng Chàm asaih đă vay mượn
từ tiếng Phạn (bài viết 'Some sources of Chamic vocabulary'
1976)...v.v... Đây là một chủ đề cần được nghiên cứu sâu xa hơn để
soi sáng mảng giao lưu ngôn ngữ rất phức tạp thời Bách Việt ở khu
vực Đông Nam Á
-
- 2. Có nhiều thành ngữ tục ngữ TQ liên hệ đến ngựa và rất xa lạ
với văn hóa Việt Nam - xem thêm các cuốn 'Văn Hoá về 12 con giáp'
tác giả Thường Tuấn - bản dịch tiếng Việt - NXB Tổng Hợp TP HCM
(2005), hay tác giả Trọng Hậu trong cuốn "12 con giáp và đời người"
(NXB Hải Pḥng - 2008), hay các cuốn chuyên khảo về thành ngữ TQ như
Tân Hoa Thành Ngữ Tự Điển (Bắc Kinh - 2004) ...v.v...
-
- 3. Đổng hay Phù Đổng (Thiên Vương) theo truyền thuyết có công
phá giặc Ân vào thời Hùng Vương thứ 6. Theo người viết, Gióng hay
Dóng là các dạng ngạc cứng hóa (palatalised) của Đổng董
- xem thêm chi tiết trên diễn đàn Viện Việt Học, phần Hán Việt chủ
đề “kẻ dỏng - thánh dóng / gióng - phù đổng ?” đăng từ ngày
11/4/2007. Nếu hiểu được tương quan ngữ âm Đổng - Gióng (Dóng) th́
đỡ tốn bao nhiêu giấy mực viết về đề tài này – như 'Tuyển tập tác
phẩm' Cao Huy Đỉnh, NXB Lao Động (Hà Nội - 2004), 'Lược khảo về thần
thoại VN và kho tàng truyện cổ tích VN' Nguyễn Đổng Chi ...
-
- 4. “ABC Etymological Dictionary of Old Chinese’ tác giả Axel
Schuessler - NXB University of Hawai'i Press - Honolulu (2007)
-
- 5. “A Handbook of Old Chinese Phonology” tác giả William H.
Baxter - NXB Mouton de Gruyter - Berlin, New York (1992)
-
-
-
-
- Tranh của Hàn Cán
韓幹 (khoảng 706 -780) đời Đường - bài thơ
- viết trong tranh là của vua Càn Long
vào năm 1746 đời Thanh -
- xem thêm chi tiết trên mạng
Han Gan - Wikipedia, the free encyclopedia
-
-
-
-
-
- 6. Bài viết 'Chữ Ngọ, từ sợi dây cương đến con ngựa' của tác giả
An Chi/AC, đăng trên tạp chí Kiến Thức Ngày Nay - số 413 xuân Nhâm
Ngọ 2003. AC lại dựa vào sự phân tích của Quách Mạt Nhược về nguồn
gốc chữ Ngọ 午 là tượng h́nh dây cương, và
từ đó mở rộng nghĩa để chỉ con ngựa. AC đưa ra một chữ ngự
御 bộ sách (người viết thêm vào bộ sách ở
đây để phân biệt với một dạng khác của ngự là 馭
bộ mă) và ông lư luận ngự (điều khiển ngựa, chế ngự) cho ra dạng
ngựa qua trung gian của một chữ hiếm 午卩
(dị thể) của ngự viết bằng chữ Ngọ và chữ (bộ) tiết. Trong loạt bài
chứng minh nguồn gốc của tên 12 con giáp là từ TQ, đặc biệt là bài
trên của AC, ta thấy có vài điểm đáng chú ư như sau:
-
- 6.1 Quách Mạt Nhược là một trong số những học giả TQ hiếm hoi
đặt vấn đề về nguồn gốc (phi-Hán) của 12 con giáp (cùng với Lương
Khải Siêu, và Triệu Dực đời Thanh). Đa số các học giả từ xưa đến nay
như Vương Sung thời Đông Hán (trong Luận Hành), và Chu Hy đời Tống
... đều ghi chép các tên 12 con giáp hàm ư là có nguồn gốc từ TQ. Sự
chuyên cần ghi nhận của các học giả TQ theo ḍng thời gian cho ta
nhiều văn bản và dữ kiện ngôn ngữ, tuy nhiên phải cẩn thận khi đưa
ra các kết luận từ các tài liệu này!
-
- 6.2 Như đă tŕnh bày ở trên, nguồn gốc chữ Ngọ qua giáp văn, kim
văn, chữ triện cho thấy chữ này không dính líu ǵ đến ngựa - chính
các tài liệu TQ cũng cùng một nhận xét như cuốn 'The Composition of
Common Chinese Characters - An Illustrated Account' (Peking
University Press - 1996), 'T́m về cội nguồn chữ Hán' của Lư Lạc Nghị
và Jim Waters (NXB Thế Giới - Hà Nội - 1998) ...v.v... Xem nguồn gốc
của chữ ngự御bộ sách ta thấy chữ này có mặt
rất nhiều trong giáp văn, kim văn và chữ triện – xem nhiều chi tiết
trên
http://www.chineseetymology.org/CharacterASP/CharacterEtymology.aspx?characterInput=%E5%BE%A1
-
-
Seal Characters (chữ triện) Ngự
御
-
-
LST Seal Characters (chữ triện)
-
Bronze Characters (kim văn)
-
-
-
- Oracle Characters (giáp văn)
…v.v…
-
- So với nguồn gốc của chữ ngự馭bộ mă -
chỉ có một dạng chữ triện
-
- Seal Characters (chữ triện) Ngự
馭
-
- Tại sao lại có rất nhiều vết tích của ngự bộ sách so với chỉ có
một dạng chữ triện của ngự bộ mă? Đầu tiên là chữ ngự bộ sách phải
có từ lâu, trước khi chữ ngự bộ mă ra đời! Điều này phù hợp với
khuynh hướng trung ương tập quyền (định chế, chế ngự ...) của các
nhóm cầm quyền từ phương Bắc TQ cho tới thời Tần Thủy Hoàng c̣n cố
gắng thống nhất chữ viết - ông c̣n đốt sách, chôn học tṛ để đạt
được các mục tiêu mà triều đ́nh đặt ra. Tuy nhiên khi đối diện với
chữ ngự, có người hiểu là liên hệ trực tiếp đến ngựa nên mới có dạng
chữ triện bộ mă. Kiến thức này chỉ hiện diện ở phương Nam (nguồn gốc
Ngọ là ngựa) nên càng ngày càng bị đào thải và chữ này trở nên ít
dùng. Giả sử chữ ngự bộ mă có mặt rất nhiều trên giáp văn, kim văn,
chữ triện ... th́ tương quan ngữ âm của ngự và ngựa có cơ sở và khó
giải thích nguồn gốc phương Nam của Ngọ. Ngoài ra dây cương có nhiều
cách viết bằng chữ Hán như cương 韁 bộ cách
hay 繮 bộ mịch hợp với chữ cương (cường)
hài thanh, đích 靮 bộ cách, khống
鞚 bộ cách, bí 轡
bộ xa ... Có chữ nào mở rộng nghĩa để chỉ con ngựa đâu? Tiếng Anh
thuộc ngữ hệ Ấn Âu cũng có các danh từ harness (dây gh́m, dây cương,
áo giáp ...) và rein (dây cương) - khi dùng làm động từ th́ mang
nghĩa mở rộng là kiểm soát/ tận dụng chứ không mở rộng nghĩa để chỉ
con ngựa (horse, tiếng La Tinh là equus).
- Nếu nh́n các quá tŕnh mở rộng nghĩa của danh từ trong ngôn ngữ
con người, ta thường thấy là từ giai đoạn cụ thể tiến tới giai đoạn
trừu tượng, từ chi tiết đến tổng quát (tự nhiên) : thí dụ như hăi
駭 viết bằng bộ mă hợp với chữ Hợi hài
thanh chỉ dáng (h́nh ảnh cụ thể) con ngựa sợ (hăi) - nếu lư luận là
từ chữ hăi (sợ hăi, trạng thái tinh thần, trừu tượng - như kinh
驚 ) ta sản xuất ra chữ ‘hăi’ ‘kinh’ là con
ngựa (cụ thể, vật chất) th́ e rằng không hợp với tiến tŕnh tự nhiên
cho lắm! Đây là một cái bẫy thường gặp trong lư luận về nguồn gốc :
giai đoạn nào có trước - trứng hay trứng gà?
-
- 7. Thanh ngă của Ngũ và nặng của Ngọ đáng chú ư : theo Từ Nguyên
(trích Khang Hy) Ngọ đọc là nghi cổ thiết - thượng - mỗ (mụ
姥) vận - nghi (疑).
Các thanh ngă và nặng đều phù hợp với âm vực trầm (trọc) v́ có phụ
âm đầu là ng- (hữu âm, trọc âm). Đa số các từ HV có thanh thứ 3
(third tone, thượng thanh) đều có âm hỏi hay ngă tương ứng (tùy vào
phụ âm đầu). Thí dụ như chŭ (giọng BK bây giờ) là
楚 Sở (nước Sở), gŭ 古
cổ (xưa), kǒu 口
khẩu (miệng), shǒu 守
thủ (giữ), rŭ 汝 Nhữ (sông Nhữ), lĕi
耒 lỗi (cái cầy), nŭ 弩
nỗ (cái nỏ, ná), wŭ 舞 vũ (múa), tŭ
土 đỗ, thổ, đổ (đất), mŭ
母 mẫu (mẹ) ...v.v… Nhưng trong trường hợp Ngũ hay Ngọ, ta lại
thường dùng thanh nặng hơn cho thấy liên hệ Ngọ và wǔ
đă có từ xa xưa và có thể là tàn tích của thanh nặng từ âm ngựa so
với các âm ngừa và hứa. Các thí dụ khác là mộ 墓
(mù giọng BK bây giờ) c̣n có các dạng khác là mồ, mô và mả
trong tiếng Việt; Ná hay nỏ liên hệ đến nỗ 弩
(nŭ giọng BK bây giờ) ... Các từ này đều cho thấy thanh điệu thuộc
cả hai âm vực và do đó mộ và nỗ (sau khi so sánh với các ngôn ngữ
khác như Mường, Mnong, Khme...) có khả năng là ngôn ngữ phương Nam
nhập vào tiếng Hán vào thời Tiên Tần như tên 12 con giáp. Một điểm
đáng ghi nhận ở đây là Từ Nguyên (Thương Vụ Ấn Thư Quán, Bắc Kinh -
2004) trong phần giải thích từ Ngọ không ghi nhận một liên hệ ǵ đến
loài ngựa; Nhưng Khang Hy có ghi ‘… [Vận Hội] mă thuộc Ngọ…’. Trong
Thi Kinh - Tiểu Nhă 詩經 -小雅
có viết "...Cát nhật Canh Ngọ , tức soa ngă mă吉日庚午,即差我馬
....” (ngày tốt là Canh Ngọ, phải t́m ngựa cho ta) có hàm ư
rằng Ngọ liên hệ đến ngựa. Đó chỉ là một mối dây liên hệ của Ngọ và
ngựa từ thời Khổng Tử tuy không có các ghi nhận rơ ràng và có hệ
thống hơn như vậy! Đến thời Đông Hán, Vương Sung trong Thiên Sinh
Luận mới ghi nhận cả nhóm thập nhị chi và biểu tượng 12 con giáp như
TQ đang dùng hiện nay.
-
- 8. Tác giả Paul Schneider trong tầm nguyên tự điển 'Dictionnaire
Historique des Ideogrammes Vietnamiens' (Nice - 1992) cho rằng ngựa
có nguồn gốc (Hán) là Ngọ, cũng như tác giả An Chi ... Tuy nhiên tác
giả Lê Ngọc Trụ lại không có ‘ư kiến’ như thế trong cuốn 'Tầm Nguyên
Tự Điển Việt Nam’ (NXB Thành Phố HCM - 1993). Bài viết này cho thấy
Ngọ có nguồn gốc là ngựa chứ không phải ngược lại! Vấn đề oái ăm là
danh từ ngựa nhập vào tiếng Hán Cổ (thành Ngọ, từ Việt Hán) nhưng
khi văn hóa TQ khởi sắc (thời Tần, Hán ... thời Đường Tống) th́ Ngọ
lại nhập ngược vào tiếng Việt (và các nước chung quanh) cũng như đa
số các từ Hán Việt khác, mà ít người nhận ra được nguồn gốc Việt (Cổ)
của chúng. Đây là một động lực chính thúc đẩy người viết soạn ra
loạt bài "Nguồn gốc Việt (Nam) của tên gọi 12 con giáp" để đặt lại
vấn đề cho thêm phần chính xác.
Post ngày:
10/19/17 |
|