Phát
hiện chữ Việt Cổ ở Quảng Tây
[14/05/2013]
Theo tin của Lí Nhĩ Chân đăng
trên website news.xinhuanet.com January 03, 2012
được dịch và công bố trên mạng Việt học và được
trang lyhocdongphuong đưa lại như sau (http://diendan.lyhocdongphuong.org.vn/bai-viet/23954-chu-viet-co-o-nam-duong-tu)
:
Một phiến đá khắc chữ Lạc Việt
“Hôm trước, Hội nghiên cứu văn
hóa Lạc Việt – tỉnh Quảng Tây truyền phát tin tức là
người Lạc Việt ở Trung Quốc đă sáng tạo chữ viết vào
bốn ngh́n năm trước, phá bỏ quan niệm tổ tiên của
dân tộc Tráng là người Lạc Việt không có chữ viết.
Phát hiện chữ viết của người Lạc Việt lần này sẽ
viết lại lịch sử chữ viết ở Trung Quốc, chứng minh
văn hóa Lạc Việt là một trong những nguồn gốc trọng
yếu của văn hóa Trung Hoa.
Trước thời điểm này, giới sử
học Trung Quốc đều cho rằng tổ tiên của dân tộc
Tráng không có chữ viết. Hội trưởng Hội nghiên cứu
văn hóa Lạc Việt là Tạ Thọ Cầu giới thiệu: chuyên
gia của Hội nghiên cứu đă thu tập một số lượng lớn
chứng cứ chứng thực người Lạc Việt cổ sáng tạo chữ
viết biểu ư vào bốn ngh́n năm trước. Chữ viết Lạc
Việt này có mầm mống vào thời đầu của thời đại đồ đá
mới, h́nh thành vào thời kí đỉnh cao của ‘văn hóa
xẻng đá lớn’ (4000-6000 năm trước), và chắc chắn có
nguồn gốc sâu xa với chữ giáp cốt cổ cùng ‘chữ Thủy’
của dân tộc Thủy. Tháng 10 -2012, tại di chỉ cúng tế
xẻng đá lớn Cảm Tang – thị trấn Mă Đầu – huyện B́nh
Quả – thành phố Bách Sắc, chuyên gia của Hội nghiên
cứu văn hóa Lạc Việt – tỉnh Quảng Tây phát hiện mấy
chục khối mảnh vỡ xẻng đá lớn và tấm đá có khắc đầy
chữ viết cổ. Ngày 19 tháng 12, chuyên gia lại đi đến
hiện trường tiến hành khảo sát. Nghiên cứu phát hiện,
khối đá có chữ viết lớn nhất là dài 103 cm, rộng 55
cm, trên bề mặt khắc đầy mấy trăm tự phù, phần lớn
là chữ cúng tế và lời chiêm bốc. Theo thống kê sơ
qua, trên những phiến đá này có hơn 1000 tự phù.
Một phiến đá khắc chữ Lạc Việt
Các chuyên gia dựa vào sự phân
bố xẻng đá lớn hoàn chỉnh ở bên cạnh phiến đá có
khắc chữ mà suy đoán, thời ḱ xuất hiện của phiến đá
có khắc chữ giống nhau với thời ḱ xẻng đá lớn. Nó
cho thấy trước mắt chữ của người Lạc Việt cổ ở di
chỉ cúng tế xẻng đá lớn Cảm Tang là một trong những
văn tự h́nh thành thời xưa được phát hiện ở Trung
Quốc.
Tháng 11 -2011, chuyên gia của
Hội nghiên cứu phát hiện đàn cúng tế loại lớn của
người Lạc Việt cổ ở trên núi Đại Minh – tỉnh Quảng
Tây, trên đàn cúng tế c̣n phát hiện được phù hiệu và
bàn vẽ. Quán trưởng Bác vật quán Quảng Tây, Chủ
nhiệm Ủy viên Hội giám định văn vật Quảng Tây là
Tưởng Đ́nh Du cho rằng phù hiệu và bàn vẽ này là phù
hiệu khắc vẽ cúng tế của người Lạc Việt cổ thời đại
đồ đá mới. Sau đó, chuyên gia của Hội nghiên cứu
cũng phát hiện một số lượng lớn phù hiệu chữ viết cổ
khắc trên mảnh xương, đồ ngọc, đồ đá tại vùng đất có
phân bố di chỉ cúng tế của người Lạc Việt là huyện
Vũ Minh, huyện Long An của thành phố Nam Ninh, huyện
Điền Đông – thành phố Bách Sắc thuộc tỉnh Quảng Tây,
những phù hiệu (câu bùa) này rơ ràng là một câu đơn
hoặc đơn biệt, được chuyên gia cho là chữ viết của
thời ḱ đầu.”
Thật là tin vui lớn nhưng với
tôi không quá bất ngờ v́ rằng, khi t́m hiểu chữ Việt
cổ, tôi đă biết những sự kiện sau: 1. Văn bản chữ
tượng h́nh của người Việt cổ trên b́nh gốm tại di
chỉ Bán Pha 2, gần thủ phủ Tây An tỉnh Sơn Tây Trung
Quốc, có tuổi 12000 năm. 2. Chữ tượng h́nh khắc trên
yếm rùa tại di chỉ Giả Hồ t́nh Hà Nam Trung Quốc có
tuổi 9000 năm. 3. Một số chữ tượng h́nh cổ phát hiện
ở Sơn Đông, nơi cư trú trước đây của người Việt cổ
4. Chữ tượng h́nh được gọi là chữ Thủy của người
Thủy tộc, một bộ lạc Việt với 250000 người hiện sống
ở Quư Châu. Theo lịch sử h́nh thành dân cư Trung
Quốc mới được phát hiện, th́ thời gian này, trên địa
bàn Trung Hoa chỉ có người Việt sinh sống, người Hoa
Hạ chưa ra đời. chứng tỏ rằng đó là chữ của người
Lạc Việt
Bản đồ phân bố xẻng đá lớn
www.luoyue.net
Điều đáng chú ư là, chữ Bán Pha
và Giả Hồ gợi nhớ tới Giáp cốt và Kim văn. Nhờ vậy,
khi đối chiếu với Giáp cốt văn, các nhà chuyên môn
đă đọc được văn bản trên b́nh gốm Bán Pha 2.
So sánh tự dạng th́ thấy chữ
Cảm Tang phức tạp hơn chữ tượng h́nh ở di chỉ Bán
Pha 2 và Giả Hồ nhưng lại đơn giản hơn chữ trên Giáp
cốt và Kim văn. Điều này cho phép giả định, hệ thống
chữ Lạc Việt có thể bắt đầu từ Băi đá Sapa đi lên.
Do ở thời kỳ sớm nên chữ ở Bán Pha 2 và Giả Hồ c̣n
đơn giản. Do có tuổi muộn hơn nên chữ Cảm Tang đă
phức tạp hơn. Phải chăng chữ trên giáp cốt và đồ
đồng Ân Khư là sự phát triển sau cùng của chữ tượng
h́nh Lạc Việt. Sau thời gian này, trên cơ sở Giáp
cốt và Kim văn, cộng đồng người Việt và người Hoa
trong vương triều Chu cùng các nhà nước kế nhiệm
chung tay xây dựng chữ tượng h́nh Trung Hoa. Điều
này cho thấy Giáp cốt và Kim văn là của người Lạc
Việt. Có thể giải thích việc Giáp cốt và Kim văn tập
trung nhiều ở Ân Khư như sau: Nhà Thương là một ḍng
Việt sống ở Nam Hoàng Hà nên cũng sở hữu chữ viết
tượng h́nh này. Khi xâm lăng đất của người Lạc Việt
ở vùng Sơn Đông ngày nay, đă cướp những văn tự của
người Việt ở đây mang về kinh đô của ḿnh, làm phong
phú sưu tập chữ Lạc Việt.“
Phát hiện chữ Lạc Việt ở Cảm
Tang có ư nghĩa rất quan trọng v́ đó là chứng cứ rơ
ràng nhất cho thấy người Lạc Việt sáng tạo chữ viết
trên đất Trung Hoa khoảng 4000 đến 6000 năm trước.
Mặt khác, chữ cổ Cảm Tang chứng minh sự liên tục của
chữ tượng h́nh Lạc Việt từ Sa Pa Việt Nam tới nhiều
vùng khác nhau trên lục địa Trung Hoa.
Hà Văn Thùy
Đây là phiến đá có khắc tự phù
biểu ư của người Lạc Việt cổ được chụp tại huyện
B́nh Quả – Quảng Tây vào ngày 23 tháng 12
Đây là phiến đá có khắc tự phù
biểu ư của người Lạc Việt cổ được chụp tại huyện
B́nh Quả – Quảng Tây vào ngày 23 tháng 12
Nhóm khảo cổ khảo sát di chỉ
cúng tế xẻng đá lớn Cảm Tang – thị trấn Mă Đầu –
huyện B́nh Quả – Quảng Tây vào ngày 22 tháng 12
Ông Tưởng Đ́nh Du giám định chữ
khắc trên đá phát hiện ở di chỉ Cảm Tang – huyện
B́nh Quả
Một phiến đá có khắc chữ phát
hiện ở di chỉ Cảm Tang – huyện B́nh Quả
Một phiến đá có khắc chữ phát
hiện ở di chỉ Cảm Tang – huyện B́nh Quả
Một phiến đá có khắc chữ phát
hiện ở di chỉ Cảm Tang – huyện B́nh Quả
Một phiến đá có khắc chữ phát
hiện ở di chỉ Cảm Tang – huyện B́nh Quả
Ông Tưởng Đ́nh Du giải thích
t́nh huống cho dân thôn
Phát hiện đàn tế của người Lạc
Việt có h́nh khắc của người Lạc Việt
H́nh vẽ chim và rắn trên đàn tế
của người Lạc Việt cổ ở núi Đại Minh
Chữ khắc trên xương thú phát
hiện ở di chỉ mộ táng vách động của người Lạc Việt ở
huyện Vũ Minh
Chữ khắc trên xương thú của
người Lạc Việt phát hiện ở sông Ung
Chiếc qua đá cổ của người Lạc
Việt phát hiển ở sông Tả
Phát hiện di chỉ Cảm Tang có
chữ khắc trên đá của người Lạc Việt
Chữ khắc trên đá của người Lạc
Việt trên phiến đá lớn nhất
Một phiến đá khắc chữ Lạc Việt
Một phiến đá khắc chữ Lạc Việt
Xẻng đá lớn phát hiện tại đầm
Đại Long – huyện Long An – Quảng Tây
Các loại xẻng đá được phát hiện
Chữ
Viết Người Lạc Việt ở Quảng Tây .
Việt Tử
Trong ước ao tìm đến nguồn cội và xác định
chỗ đứng của văn minh dòng giống Việt trong
tiến trình văn minh nhân loại , xin tác gỉa và
Blog Địa khởi cho phép đăng lại bài viết làm
tư liệu tham khảo cho bạn đọc .
Chữ Viết Người Lạc Việt ở Quảng Tây .
Việt tử .Nguồn
:http://diakhoi.blogspot.com/2012/04/chu-nguoi-lac-viet-o-quang-tay.html
I-Dẫn Nhập :
Cổ sử Tàu chép nước Việt Thường dâng cho vua Đế
Nghiêu (2358 TCN) con rùa 1.000 năm trên mai có khắc
chữ khoa đẩu (chữ con ṇng nọc) kể sự việc từ khi
khai thiên lập địa trở về sau. Người Tàu không bao
giờ cho biết h́nh dáng của chữ viết đó ra sao cả(?).
Trái lại, họ quả quyết là tổ tiên của dân tộc thiểu
số Tráng ở Trung Quốc là người Lạc Việt không có chữ
viết! Một số trí thức Việt Nam tin chắc rằng người
Việt có chữ viết riêng trước khi người Tàu xâm lăng
nước ta. Nhưng họ không có bằng chứng thuyết phục
Ngày 26 tháng 12 năm 2011, Lí Nhĩ Chân cho biết Hội
Nghiên cứu văn hóa Lạc Việt-tỉnh Quảng Tây phát hiện
hơn một ngh́n tự ph́ biểu ư của người Lạc Việt cổ ở
Quảng Tây và cho rằng người Lạc Việt cổ đă sáng tạo
chữ viết bốn ngh́n năm trước (4.000-6.000 trước Công
Nguyên). Sự phát hiện chữ Lạc Việt kỳ này sẽ viết
lại lịch sử chữ viết ở Trung Quốc v́ văn hóa Lạc
Việt là một trong những yếu tố trọng đại ở Trung
Quốc.
II- Chữ Viết Người Lạc Việt ở Quảng
Tây :
Lư Nhĩ Chân thuộc Hội Nghiên cứu Văn hóa Lạc Việt
tại Quảng Tây Trung Quốc thông báo chữ cổ Lạc Việt
được phát hiện ở huyện B́nh Quả tỉnh Quảng Tây ngày
22 tháng 12 năm 2011. Chữ cổ này tại di chỉ cúng tế
xẻng đá lớn Cảm Tang, thị trấn Mă Đầu huyện B́nh Quả
tỉnh Quảng Tây, được khắc trên mấy chục khối mảnh vở
xẻng đá lớn. Ngoài ra, Hội Nghiên Cứu cũng phát hiện
phù hiệu và bản vẻ của người Lạc Việt cổ ở núi Đại
Minh tỉnh Quảng Tây. Quán trưởng Bác vật quán Quảng
Tây, Chủ nhiệm Ủy viên Giám định Văn vật quán Quảng
Tây, Tưởng Đ́nh Du cho rằng phù hiệu và bản vẻ là
phù hiệu khắc vẻ cúng tế của người Lạc Việt cổ thời
đại đồ đá mới. Bộ môn khảo cổ uy tín của nhà nước
giám định niên đại chữ viết này vào thời đại văn hóa
xẻng đá lớn (4.000-6.000 trước Công Nguyên). Chữ
viết của người Lạc Việt sớm hơn chữ giáp cốt nhà
Thương ở Trung Nguyên hơn 1.000 năm, cũng có niên
đại sớm hơn so với tiền thân cuả chữ giáp cốt là chữ
viết trên xương thú của người Đông Di ở tỉnh Sơn
Đông và có nguồn gốc sâu xa với chữ viết của người
Thủy, di duệ Việt tộc với 250.000 người ở Quư Châu.
Hội Nghiên Cứu Văn Hóa Lạc Việt Quảng Tây viết :
“Người Lạc Việt ở Trung Quốc đă sáng tạo chữ viết
vào bốn ngh́n năm trước, phá bỏ quan niệm là tổ tiên
của dân tộc Tráng là Lạc Việt không có chữ viết.
Phát hiện chữ viết của người Lạc Việt lần này sẻ
viết lại lịch sử chữ viết ở Trung Quốc, văn hóa Lạc
Việt là một trong những nguồn gốc trọng yếu cuả
Trung Hoa.
Trước thời điểm này, giới sử học Trung Quốc đều cho
rằng tổ tiên của dân tộc Tráng không có chữ viết.
Hội trưởng Hội nghiên cứu văn hóa Lạc Việt Tạ Thọ
Cầu giới thiệu chuyên gia của Hội nghiên cúu đă thu
thập một số lượng lớn chứng cớ chứng thực người Lạc
Việt cổ sáng tạo chữ viết biểu ư vào bốn ngh́n năm
trước. Chữ viết Lạc Việt này có mầm móng vào thời
đầu của thời đại đồ đá mới, h́nh thành vào thời kỳ
đỉnh cao của “văn hóa xẻng đá lớn” (4.000-6.000 năm
trước) và chắc chắn có nguồn gốc sâu xa với chữ giáp
cốt cổ cùng chữ Thủy của dân tộc Thủy
H́nh 1a : Phiến đá có chữ người
Lạc Việt ở huyện B́nh Quả tỉnh Quảng Tây
H́nh 1b : Sơ đồ h́nh 1a phiến đá
có chữ người Lạc Việt
(a=chữ Mộc; b=chữ Sĩ; c=chữ Xuất;
d=chữ Chấp; e=chữ Công)
Phiá trên ngón tay cái cầm phiến đá có khắc các chữ
sau đây :
a =Chữ Mộc (cây) giống cặp chữ hàng thứ 4 trên cái
qua đồng Đông Sơn với niên đại 2000 trước Công
Nguyên mà Hà Văn Tấn cho là chữ viết của người Lạc
Việt (H́nh 3).
b = Chữ Sĩ giống chữ viết trên hai chiếc đĩa gốm nhỏ
Madelaine Colani t́m được ở vùng văn hóa Ḥa B́nh
Việt Nam năm 1923 (H́nh 2) với niên đại 8.000 trước
Công Nguyên..
c = Xuất (đi ra).
d = Chấp (hai mươi, 20).
e = Công (công nhân, người thợ)
Chữ viết trên xẻng đá Cảm Tang của người Lạc Việt
giống chữ viết trên đồ đồng Đông Sơn (Việt Nam), chữ
viết trên hai chiếc đĩa gốm ở vùng văn hóa Ḥa B́nh
Việt Nam và chữ giáp cốt t́m lại ở vùng văn hóa
Ngưỡng Thiều (Trung Quốc) chứng minh hùng hồn rằng
chữ viết người Lạc Việt là chữ khoa đẩu (chữ con
ṇng nọc) của dân Bách Việt.
Những chứng cứ khaỏ cổ học và cổ sử khác đều cho một
kết qủa như trên :
1-Văn bản trên b́nh gốm ở di chỉ Bán Pha 2 ỏ tỉnh
Sơn Tây có niên đại 12.000 trước Công Nguyên.
2-Những kư tự khắc trên yếm rùa ở di chỉ Giả Hồ tỉnh
Hà Nam có niên đại 9.000 trước Công Nguyên.
3-Một số chữ phát hiện raĩ rác ở vùng Sơn Đông.
4-Chữ Thủy của bộ lạc Thủy, di duệ của Việt tộc với
250.000 người sống ở Quư Châu.
Theo các nhà khảo cổ có uy tín th́ tất cả các chữ đó
có các đặc điểm sau đây :
a-Kư tự Bán Pha 2 và Giả Hồ có niện đại trước cuộc
xâm lăng của Hiên Viên (2600 trước Công Nguyên) tức
là trước khi Hoa Hạ ra đời. Điều này chứng tỏ săn
phẩm đó là của người Việt, một tôc người sống trên
Hoa Lục 40.000 năm trước.
b-Cả kư tự Bán Pha 2, kư tự Giả Hồ và chữ viết Thủy
cũng có sự gần gủi vơí giáp cốt và Kim văn. Dựa trên
luật đọc chữ giáp cốt, các nhà khảo cổ người Mỹ đă
đọc được bản văn trên b́nh cổ Bán Pha 2.
c-Chữ xưa nhất và đơn giản nhất cũng có gần gủi và
“gợi nhớ” tới chữ muộn hơn và có tự dạng phức tạp
hơn là giáp cốt văn. Điều này cho thấy chữ tượng
h́nh trên đất Trung Hoa có sự phát triển liên tục từ
ít nhất 10.000 năm đến 15.000 năm trước Công Nguyên.
Phân tích tự dạng ŕu Cảm Tang, ta thấy chữ Cảm Tang
phức tạp hơn chữ Bán Pha 2 và Giả Hồ, nhưng đơn giản
hơn chữ giáp cốt và Kim văn. Điều này cho phép giả
thuyết hệ thống chữ viết Lạc Việt từ tự dạng Bán Pha
2 và Giả Hồ tiến đến Cảm Tang. Câu hỏi đặt ra là từ
đâu dẫn tới kư tự Bán Pha 2 ? Ta cần nhiều hơn phát
hiện khảo cổ hoc để thấy tiến tŕnh của chữ Việt cổ.
Nhưng dựa vào những dử kiện hiện có, ta có thể đoán
rằng chữ Việt cổ được bắt đầu bằng những kư hiệu
hiêm hoi trên bải đá Sapa. Có thể từ bải đá Sapa,
một nhóm Việt đi theo hướng tây bắc mang chữ lên Sơn
Tây, Thiểm Tây và lưu lại chữ viết trên b́nh cổ Bán
Pha 2.
Những nhóm Việt khác mang kư tự Sapa lên Quảng Tây,
Quảng Đông rồi vượt Dương tử lên vùng Sơn Đông lập
trung tâm lớn người Việt. Do ở giai đoạn sớm nên chữ
viết Bán Pha 2 và Giả Hồ c̣n đơn giản. Ở thời kỳ
muộn hơn nên chữ Cảm Tang phức tạp hơn. Từ đó chúng
tôi cho rằng chữ giáp cốt và đồ đồng Ân Khư là sự
phát triển sau cùng của chữ Lạc Việt. Đó là tiến
tŕnh của chữ Việt theo chứng cứ khảo cổ học. Chúng
tôi có nhiều bằng chứng trực tiếp là chữ Lạc Việt
thuộc về gia đ́nh khoa đẩu gồm chữ viết của người
Ḥa B́nh và người Đông Son v́ chữ Lạc Việt giống chữ
Sĩ của người Ḥa B́nh và chữ Mộc trên các đồ đồng
Đông Sơn hay nói một cách khác là chữ người Ḥa B́nh
(Bách Việt) và chữ trên đồ đồng Đông Sơn là do sự
phát triển liên tục về sau của chữ Lạc Việt.
III- Chữ Viết Dân Ḥa B́nh :
Bà Madelaine Colani, một nhà khảo cổ danh tiếng Pháp
quốc đă đào quật nhiều hang động ở tỉnh Ḥa Binh bắc
Việt Nam. Bà thâu lượm nhiều chứng tích khác với các
nền văn hóa trên thế giới. Bà liền đề nghị một Nền
Văn Hóa Ḥa B́nh. Cả thế giới đều công nhận. Năm
1923, trong khi bà đào quật trong vùng văn hóa Ḥa
B́nh, bà t́m được hai chiếc đĩa gốm nhỏ khăc hai chữ
có dạng chữ Sĩ và chữ Thượng, nhưng niên đại của hai
chiếc đĩa gốm đó là 8.000 trước Công Nguyên. Ở thời
đó (8000 trước Công Nguyên) là 5350 năm trước Ḥang
Đế và 6400 năm trước nhà Thương ra đời. Chữ Tàu
chính thức nh́n nhận có vào 1300-1200 trước Công
Nguyên. Khi mới đào quật lên, hai chữ Sĩ và chữ
Thượng này không được chú ư lắm v́ bị tưởng lầm là
hoa văn trang trí. Nhưng khi xét kỷ lại th́ chúng có
dạng chữ Sĩ và chữ Thương trên bản Hán Tự Thượng Hải
(Shanghai Chinese Scripts). Vây chữ viết này phải là
chữ viết của dân Ḥa B́nh (Bách Việt). Hai di chỉ
khảo cổ này chứng minh một cách tuyệt đối là người
Tàu đă chiếm thu chữ viết của Việt tôc đổi thành chữ
Hán, Đây là h́nh chụp thực (photo) của hai
chiếc đĩa gốm nhỏ ấy :
H́nh 2 : H́nh hai chiếc đĩa gốm
nhỏ Madelaine Colani đào quật ở
vùng Văn Hóa Ḥa Binh bắc Việt Nam năm 1923 với niên
đại 8.000 TCN.
IV- Chữ Viết Trên Đồ Đồng Đông Sơn
:
Năm 1979, khi khảo sát những di vật thuộc văn hóa
Đông Sơn do nhà khảo cổ Thụy Điển O. Janse khai quật
ở Thanh Hóa, hiện để ở bảo tàng Guimet, Paris. Giáo
sư Hà Văn Tấn thấy một công cụ bằng đồng mà các nhà
khảo cổ quen gọi là lưởi cày cánh bướm, đặt trưng
cho vùng sông Mă, có hai kư hiệu ở hai bên họng tra
cán (H́nh 3, hàng trên). Kư hiệu thứ nhất ở hàng
trên là chữ Tài (tài giỏi) và chữ thứ hai là chữ Dĩ
(công dụng). Cặp chữ thứ 4 ở hàng dưới là chữ Mộc
(cây). Hai chữ Mộc làm thành chữ Lâm.
H́nh 3 : Hàng trên : Chữ viết trên
lưởi cày cánh bướm Thanh Hóa.
Hàng dưới: chữ viết trên cái qua sông Mă, Thanh Hóa.
Chữ khoa đẩu Chữ Hán
H́nh 4 : Chữ khoa đẩu
Mộc sửa thành chữ Hán Mộc.
(Trich từ sách "Nghiên cứu chữ Hán và
tiếng Hán Việt 1989" của Giáo sư Vũ Thế Ngọc,
tr.280, cột 15)
Chữ khoa đẩu Mộc được người Tàu
sửa đổi thành chữ Đại triện (chữ Hán)
Mộc (H́nh 4)
Trong đồ đồng của Bảo tàng Lịch sử ở Việt Nam (Hà
Nội), Giáo sư Hà Văn Tấn gặp một chiếc qua, một thứ
vũ khí cổ, t́m được ở vùng sông Mă Thanh Hóa, trên
thân có khắc năm kư hiệu. Giáo sư Hà Văn Tấn xác
định “Chữ viết trên lưởi cày văn hóa Đông Sơn hẳn là
chữ viết của người Việt cổ.” Cái qua đồng vừa t́m
thấy ở vùng sông Mă Việt Nam, lại vừa t́m thấy ở
phía nam sông Dương tử. Ông nghĩ rằng chữ viết trên
cái qua là chữ viết của người Lạc Việt. Ở Trường Sa
(Hồ Nam), người ta t́m thấy trong một ngôi mộ Sở một
con dao găm có cán h́nh người. Đó là săn phẩm của
văn hóa Đông Sơn. Giáo sư Hà Văn Tấn kết luận :
“Ảnh hưởng của văn hóa Đông Sơn theo
sông Nguyên, sông Tương lên đất Sở là rơ ràng”. Giờ
đây có thể nói rằng Có một hệ thống chữ viết Việt cổ
vào thời văn minh Đông Sơn phát triển rực rỡ ở thế
kỷ IV trước Công Nguyên, trước khi người Hán vào xâm
lược, đô hộ đất nước của người Việt cổ hơn một ngh́n
năm, và đến năm 989 đă bị đánh đuổi về phương Bắc.”.
IV- Đào Quật Chữ Giáp Cốt Năm 1899
:
Năm 1899, ông Wang Yrong một viên chức ở Bắc Kinh
ngă bệnh được cho toa mua thuốc có xương rồng
(dragon bone). Ông nhận thấy có chữ Hán cổ khăc trên
các xương rồng đó. Vậy ông Wang Yrong là người Tàu
đầu tiên thấy chữ Giáp Cốt. Sự t́nh cờ khám phá ra
chữ viết trên xương rồng làm thuốc đă đưa đến sự đào
quật lên chữ Gíap Cốt vào năm 1899 ở vùng văn hóa
Ngưỡng Thiều. Chữ giáp cốt có niên đại 1300 trước
Công Nguyên. Vậy từ năm 1300 trước Công Nguyên đến
1899 (sau Công Nguyên, tức là từ cuối đời nhà
Thương, Chu (1050-256 trước Công Nguyên), Xuân Thu
Chiến Quốc, Tần (221-207 trước Công Nguyên) và Hán,
không một người Tàu nào biết có
chữ giáp cốt cả (hơn 3.000 năm) v́ nó c̣n nằm sâu
dưới đất. Ngay cả Chu Tuyên Vương (827-782 trước
Công Nguyên) cũng không biết có
chữ giáp cốt chôn dưới đất sâu khi nhà vua này sai
Thái sử Trửu thêm bớt lối chữ khoa đẩu đặt ra chữ
Đại triện. Tuy vậy, trên Bách Khoa Toàn Thư
Wikipedia (16-09-2009), người Tàu vẫn viết : “Triện
thư là chữ cổ cuả thư pháp Trung Quốc. Nó có nguồn
gốc từ chữ giáp cốt thời Chu (1050-256 trước Công
Nguyên) và phát triển tai đất Tần (221-207 trước
Công Nguyên) trong thời Chiến Quốc…” Rơ đây là
một sự xác định thiếu cơ sở lịch sử và khoahọc. Chữ
giáp cốt chưa được đào quật lên vào năm 1050 trước
Công Nguyên cho đến 1899 (sau Công Nguyên) th́ làm
sao Triện thư có nguồn gốc từ chữ giáp cốt thời nhà
Chu được?? Người Tàu lờ đi chính Chu Tuyên Vương
(827-782 trước Công Nguyên) đă ra lệnh cho Thái sử
Trửu thêm bớt lối chữ khoa đẩu đặt ra lối chữ Đại
triện để dùng vào việc viết sử Tàu! Tự
Điển Việt-Hán-Nôm giới thiệu sơ lược văn tự
Hán-Nôm viết : “Chữ Triện ra đời vào khoảng 826-827
trước Công Nguyên là săn phẩm của quan Thái sử đời
Chu Tuyên Vương sáng tạo ra”. Năm 213 trước Công
Nguyên, Thừa Tướng Lư Tư cho phát hành 3.300 chữ
dưới tựa đề là Tam Thương. Hệ thống này gọi là Tiểu
tiện mà không sáng tạo ra chữ mới nào khác cả. Vậy
Triện thư chẳng có liên hệ ǵ với chữ giáp cốt cả và
được dùng để viết sử Tàu trước chữ giáp cốt đến
2.827 năm.
Giáo sư Vũ Thế Ngọc nhận thấy chữ giáp cố đă phát
triển tới giai đoạn “hội ư” mà không qua một giai
đoạn căn bản thuần túy tượng h́nh và chỉ sự nào cả.
Ông viết tiếp : “Tuy nhiên, từ thời
Ngưỡng Thiều đến đó là gần 3.000 năm mà trong suốt
3.000 năm ta không thấy bất cứ một chứng liệu nào
chứng tỏ sự sáng tạo liên tục từ các h́nh vẻ hay dấu
hiệu thời Ngưỡng Thiễu tiến đến lối văn tự xuất hiện
gần cuối đời Thương (1300 trước Công Nguyên). Khoảng
cách 3.000 năm đủ để đánh đổ giả thuyết có sự liên
hệ giữa chữ giáp cốt và nền văn hóa Ngưỡng Thiều”.
Các nhà khảo cổ quốc tế và một số nhà khảo cổ Trung
Quốc như Qiu Xigui cũng không nhận có sự liên hệ
giữa chữ giáp cốt và nền văn hóa Ngưỡng Thiều. Qiu
Xigui (2000 tr,31) viết : “Chúng ta
không có căn bản nào để nhận những h́nh vẻ trên đồ
gốm, xương thú hay mai rùa là chữ viết và lư do nào
để kết luận chúng là nguồn gốc của chữ viết đời nhà
Thương”.
Không một chữ viết của dân tộc nào gồm cả chữ viết
theo vần mà không đi qua giai đoạn tượng h́nh. Chữ
giáp cốt cuối đời Thương hoàn toàn thiếu chữ tượng
h́nh. Không có chữ tượng th́ chữ hội ư không thể
thành lập được! Vậy kết luận là người Tàu không phát
minh ra Lục Thư (sáu cách thành lập chữ Hán) và chữ
giáp cốt.
Theo các nhà khảo cổ, chữ giáp cốt là sự phát triển
cuối cùng của chữ Lạc Việt. Triện thư chỉ là sự sửa
đổi chữ khoa đẩu tạo thành chữ Đại triện (chữ Hán).
V- Chữ Việt Tộc T́m Lại ở Tỉnh Vân Nam
Trung Quốc năm 2010 :
Trong công cuộc chiếm thu chữ viết của Việt tộc, Chu
Tuyên Vương (827 – 782 trước Công Nguyên) sai Thái
sử Trửu thêm bớt lối chữ khoa đẩu (14VN) đặt ra lối
chữ Đại triện (chữ Hán) để viết sử Tàu. Chúng tôi
t́m lại được bằng chứng của sự tráo đổi này ở các
chùa nhỏ ở tỉnh Vân Nam Trung Quốc năm 2010 (H́nh 5)
:.
5a 5b 5c
H́nh 5 : 5a=chữ khoa đẩu "Phật"
5b=chữ khoa đẩu "Phật" sửa thành chữ Hán "Phật"
5c=chữ Hán "Phật" hiện đại.
Người Bắc Kinh đọc chữ 5a và 5b là “Phỏ”. Người
Quảng Đông đọc chữ 5a và 5b là “Phât” như ngựi Việt
Nam đọc vậy. Người Bắc Kinh, Quảng Đông và Vân Nam
nh́n nhận 5a và 5b là chữ Hán cổ. Chữ 5b và 5c giống
nhau hoàn toàn trừ 5b là chữ viết tay và 5c là chữ
in.
Du Miên tác giả sách “Việt Nam Suối
Nguồn Văn Minh Phương Đông” viết “Vân Nam là xứ
mà truyền thuyết nói rằng Mẹ Âu Cơ dẫn năm mươi con
lên núi”. Cổ sử Tàu chép dân Điền Việt (một nhóm
Bách Việt) sinh sống ở Vân Nam. Chữ khoa đẩu “Phật”
bắt đầu bằng hai sổ thẳng đứng nối nhau ở đầu trên.
Một trong hai nét thẳng đứng đó bị thay thế bằng một
phảy từ trái sang phải nằm trên nét thẳng đứng c̣n
lại. Cách sửa đổi này cũng t́m thấy trong 28 chữ
khác trong 1.000 chữ khoa đẩu mẩu của sách Nghiên
cứu chữ Hán và tiêng Hán Việt 1989 của Giáo sư Vũ
Thế Ngọc. Lệnh của Chu Tuyên Vương sai Thái sử Trủu
thêm bớt lối chữ khoa đẩu đặt ra lối chữ Đại triện
(14VN) hoàn toàn ăn khớp với cách sửa đôi chữ khoa
đẩu “Phật” thành chữ Hán “Phật” tŕnh bày ở đây.
VI- Chữ Việt Tượng H́nh Đời Thương
:
Năm 1600 trước Công Nguyên, nhà Thương một bộ lạc du
mục với văn hóa truyền khẩu (không có chữ viết), có
gốc Turk đến từ Tây Bắc sống đời sống du mục ở Tân
Cương và Thanh Hải. Măi về sau họ mới xâm chiếm đất
của Bách Việt. Vậy họ có toàn quyền thu đoạt tất cả
gồm đất đai, tài săn, văn hóa và chữ viết của Việt
tộc. Chúng tôi có thêm tài liệu chữ viết Việt Tuyệt
Kư hay Việt Tuyệt thư (c̣n gọi là Việt Chép), một
tài liệu thời Xuân Thu Chiến Quốc, trước cả Sử Kư
của Tư Mă Thiên cho biết Chữ viết và
văn hóa của nhà Thương đều là kế tục cuả nhà Hạ
. Việt tộc đă có hai chữ Việt bộ Mễ và
Việt bộ Tẩu từ
trước khi nhà Thương xâm lăng đất Bách Việt (hai chữ
Việt này t́m thấy trong giáp cốt văn năm 1899).
Trước khi nhà Thương công khai chiếm đoạt chữ Việt,
họ tráo đổi chữ Việt bộ Mễ (lúa) có caí móc h́nh
lưởi hái gặt lúa ỏ phía dưới thành cái gọi là “Chữ
Việt tượng h́nh đời Thương (H́nh 6) dưới đây :
H́nh 6 : Chữ Việt tương h́nh đời
Thương do chỉ lấy cái móc ở dưới
chữ
Việt bộ Mễ của Việt tộc để tạo chữ Việt mới đời
Thương.
Việc làm này có mục đích gây ảo tưởng rằng :
1-Nhà Thương cũng phát minh chữ viết tượng h́nh. Sự
thực là người Tàu đời Thương chỉ lấy cái đuôi của
chữ Việt bộ Mễ để gây ảo tưởng là đời Thương cũng
phát minh ra chữ tượng h́nh như B́nh Nguyên Lộc mô
tả như sau (trang 154-157) : “Chữ Việt
nguyên thỉ viết rất kỳ lạ : một nét ngang dài và một
cái móc ở dưới. Đó là chữ Việt cuối đời nhà Thương,
đầu đời nhà Chu, chứ đời Hạ, không ai biết nó ra sao
cả, v́ không t́m được cổ tự đời Hạ bao giờ, nếu đời
Hạ đă có chữ. Chữ Việt giản dị đó, đích thị là cái
đuôi của chữ Việt thứ nh́ trong thư tịch Trung Hoa,
chữ Việt mà các nhà Nho ta gọi là Việt bộ Mễ, nhưng
người Trung Hoa gọi đó là chữ Việt bô Nguyệt và cái
bộ Nguyệt là chính khúc đuôi ấy, chớ không phải là
chữ Mễ bên trong khung vuông. Cho đến khi Khổng Tử
san định Kinh Thư th́ chữ Việt bộ Mễ mới thấy xuất
hiện, chớ trước đó th́ chỉ có chữ Việt nguyên thỉ là
cái đuôi của chữ Việt bộ Mễ. Tại sao họ lại viết như
vậy? Không thấy sách nào cắt nghĩa cả, chúng tôi
nghiên cứu riêng th́ thấy rằng chữ Việt nguyên thỉ
và đơn giản đó, có thể có nghĩa là cái ŕu… Một lưởi
ŕu như vậy đă đào được ở Quốc Oai, giữa Hà Đông và
Sơn Tây…”
2-Họ đặt tên Việt cho dân Việt.
3-Che giấu sự thật là Việt tộc đă có chữ Việt bộ Mễ
(lúa) mà cha ông đă ghi lại cái thành tích vĩ đại
phát minh ra lúa nước trước nhất thế giới và thành
lập nông nghiệp.
4-Đưa các học giả Việt Nam gồm cả B́nh Nguyên Lộc
vào giả thuyết sai lạc về chữ Việt có liên hệ với
cái Ŕu ở Quốc Oai hay Chiếc Giang.
Việt Tuyệt thư ghi chép “Khổng Tử dạy học bằng tiếng
Việt được gọi vào thời đó là Nhă Ngữ (Nhă là đẹp).
Không Tử nói và viết tiếng Việt thành thạo. Ngài
soạn thẳo sách Xuân Thu của ngài bằng chữ khoa đẩu
theo Tân thư Vệ Hằng truyện. Tần Thủy Hoàng “quy
định” lấy Nhă Ngữ để thống nhất hóa tiếng nói và chữ
viết của toàn thể Trung Quốc.
Qua “Lổ Hỏng Lịch Sử Trung Quốc”, chúng tôi nhận
thây có nhiều điều trong đời sống hằng ngày vào thời
đó cho phép đưa đến kết luận là chữ viết Việt, văn
hóa Việt và ngôn ngữ Việt đă được xữ dụng trên toàn
thể Trung Nguyên với vài thay đổi tùy theo mức độ
pha chủng và kết hợp văn hóa khác nhau. Chứng cứ là
:
a-Các học giả trước, đồng thời và sau
Khổng Tử đều thông thạo chữ khoa đẩu.
b-Nhiều sách giá trị viết bằng chữ khoa đẩu như Kinh
Thư, phần Ngu (Đế Thuấn), Hạ, Thương, Chu cùng Tả
Truyện, Luận Ngữ, Hiếu Kinh vân… vân…
c-Khổng Tử dẫn học tṛ đi chu du các nước Lỗ, Sở,
Ngô, Việt, Tần , Tề…để phổ biến tư tưởng của ngài và
xin phục vụ cho các vương quốc đó. Nếu họ không có
cùng một chữ viết và ngôn ngữ th́ Khổng Tử phổ biến
tư tưởng của ngài cho ai và phục vụ cho vương quốc
nào? Tất cả học giả ở các nước đó đều thấm nhuần tư
tưởng của ngài là chứng cứ không chối cải được của
cái chữ viết chung, tiếng nói chung và văn hóa
chung.
Cảm nghĩ của chúng tôi được Bách Khoa Toàn Thư
Wikipedia chứng nhận với bài viết “Nguồn gốc chữ Hán
và Kư tự (Origin of the Chinese Scripts and
Symbols)” : “…trước khi Tần Thủy Hoàng
thống nhất chữ viết năm 221 trước Công Nguyên, các
nước ở Trung Nguyên (China) có cùng một thứ chữ viết
mà họ có thể hiểu lẫn nhau (mutually comprehensible)
với một số chữ viết ngoại lệ cho riêng mổi nước
(deviations)”. Vậy Tần Thủy Hoàng không tiêu
diệt chữ viết nào cả mà chỉ sai Thừa Tướng Lư Tư
chỉnh đốn lại chữ viết cho thống nhất, giải thích
cách cấu tạo và định nghiă các chữ viết ngoại lệ của
các nước đó. Ông “quy định” dùng Nhă Ngữ để thống
nhất hóa tiếng nói và chữ viết cho toàn thể Trung
Quốc..Bài viết này chứng minh một
cách trong sáng là chữ viết Việt, ngôn ngữ Viêt và
văn hóa Việt được xữ dụng trên tất cả các nước ở
Trung Nguyên. Nói một cách khác, b́nh rượu là Tàu,
rượu bên trong b́nh là Việt tức là chữ viết, ngôn
ngữ và văn hóa là Việt.
Phát hiện chữ Lạc Việt năm 2011 một lần nữa chứng
minh sự thật này. Hội Nghiên cứu văn hóa Lạc Việt
phát biểu ư kiến “Phát hiện chữ Lạc Việt lần này sẽ
viết lại lịch sử chữ viết ở Trung Quốc, văn hóa Lạc
Việt là trong những nguồn gốc trọng yếu của văn hóa
Trung Hoa”.
Khi xuống phương Nam để dẹp khởi nghĩa Hai Bà Trưng,
Mă Viện viết và nói tiếng Việt. Sau khi dẹp xong
khởi nghĩa Hai Bà Trưng, Mă Viện tịch thu ở đây Bộ
Việt Luật bằng chữ vuông tượng h́nh. Mă Viện đưa 300
gia đ́nh quư tộc Việt đi an trí ở nam Dương tử. Chữ
Việt bị tiêu diệt. Những người Việt này phải học lại
chữ vuông tượng h́nh từ đầu. Và chữ vuông lúc này
được gọi là chữ Hán (?). Chữ viết
không thay đổi, nhưng cái tên thay đổi từ chữ
vuông tượng h́nh Việt tộc thành ra chữ Hán.
Trong chiến dịch lấy chữ Việt tộc biến thành chữ
Hán, người Tàu tráo đổi chữ Việt bộ Mễ thành chữ
Việt mới tượng h́nh đời Thương; Chu Tuyên Vương
(827-782 trước Công Nguyên) sai Thái sử Trửu thêm
bớt lối chữ khoa đẩu đặt ra lối chữ Đại triện để
viết sử Tàu; Khổng Tử từng tự nhận ngài không sáng
tạo ra điều ǵ mới cả mà chỉ lập lạ lời của tiền
hiền đă truyền ra, viết lại (san định) các sách quan
trọng của Việt tộc như Kinh Thư, Tả Truyên, Luận
Ngữ, Hiếu Kinh vân…vân… ; nhà Chu đổi Kinh Dịch
thành Chu Dịch, Tần Thủy Hoàng đốt sách và chôn sống
Nho sĩ nào cố cất giữ sách viết bằng chữ khoa đẩu;
giới sử học Trung Quốc đều cho rằng tổ tiên của dân
Tráng là người Lạc Việt không có chữ viết và cuối
cùng Mă Viện tiêu diệt chữ Việt tộc cùng đổi tên chữ
vuông tượng h́nh trong Bộ Việt Luật thành chữ Hán.
VII- Kết Luận :
Sự phát hiện chữ viết người Lạc Việt ở Quảng Tây có
thể ví với sự động đất rất mạnh trên lảnh thổ văn
hóa Trung Quốc thay đổi hoàn toàn quan niệm sai lạc
mà người Tàu đă cố tạo dựng lên trên 3.000 năm lịch
sử. Đó là một ngọn sóng thần quét sạch ra bể Đông
những lớp bụi mờ bao phủ lịch sử thật của Việt tôc.
Chữ viết Lạc Việt chứng minh Việt Tuyệt thư là đúng
như ông Đổ Thành người Triều Châu đă viết trong
“Bách Việt Sử : Những Lớp Bụi Mờ của Lịch Sử”. Ông
kết luận : “Quá nhiều bằng chứng và quá rơ ràng là
trước đây từ Hán, Tần, Xuân Thu Chiến Quốc, Chu,
Thương, Hạ, Ngũ Đế, Tam Hoàng, vân…vân… xa xưa, văn
hóa và ngôn ngữ là Việt.
Chữ viết Việt tộc là chữ cổ nhất thế giới có thể
có niên đại từ 10.000 năm đế 15.000 năm trước
Công Nguyên. Chữ viết cổ thứ hai là chữ viết
Sumérien (Lưởng Hà hay Iraque hiện tại) với niên đại
3100 năm trước Công Nguyên. Chữ viết Ai Cập xuất
hiện ít lâu sau chữ Sumerien.
Chữ Hán (827 trước Công Nguyên) có nguồn gốc từ chữ
Lạc Việt (15.000 năm trước Công Nguyên).
Bây giờ đă đến lúc Hàn Lâm Viện Bắc Kinh phải vô tư
trong vấn đề giải quyết sự thật lịch sử “Chữ Hán hay
Chữ Lạc Việt”.
Chúng tôi luôn luôn tôn trọng sự thật. Chúng tôi
cũng khiêm tốn và nhẫn nại chờ đợi câu trả lời dứt
khoát của Hàn Lâm Viện Bắc Kinh.
- Post ngày:
19/10/17