Home T́m Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
 

Bài 12                  Sử thuyết họ HÙNG

                               

           3 -Hùng triều thứ 3 – Hùng Nghị.- Tổ phụ phương Tây.

                 Vua khai sáng : Bảo lang.

                 Dang hiệu khác trong Việt sử : Thái Khang

                 Danh hiệu khác trong Hoa sử : Thiếu Hạo-Kim thiên thị

                 Là thủ lãnh tộc Khương tây.   (khoảng Năm 8.000 trước CN) .

     Thành tựu khoa học kỹ thuật nấc 1 và 2 đã giải quyết cái mặc và cái ăn , nấc thang kế tiếp là nơi ở hay chỗ cư ngụ, định cư cũng là 1 bước tiến vì chỉ khi đã định cư ta mới có xóm giềng rồi bản làng sau nữa đến quốc gia, muốn định cư tức phải có nơi ăn chốn ở ổn định nghĩa là phải có nhà ở ,rời bỏ hang hốc xuống làm nhà quần cư nơi đất trống là cả 1 bước tiến dài Hùng sử tượng trưng giai đoạn này bằng thời Hùng Nghị hay Ngụ , việc quần cư ổn định chỉ có thể diễn ra khi đã biết trồng trọt và chăn nuôi, với việc biết làm nhà để cư ngụ cuộc sống con người đã là cuộc sống văn minh bỏ lại sau lưng thời ăn hang ở lỗ.

            Phương Tây là phương mặt trời lặn, mặt trời lặn là lúc nghỉ ngơi nên còn có tên là bên siêu hay siu nghĩa là nghỉ ngơi. Trong Tiên Thiên Bát Quái: Quẻ Ly trấn phương Tây ngụ ý là: Ly là ‘ly’́ là chủ đạo chi phối mối tương quan giữa con người và tự nhiên, ‘lý’ là Vĩnh Hằng, không thay đổi, vì là phương của Lý nên từ Việt có từ kép ‘nghỉ ngợi’.

            Ly = Lý nghĩ ngợi.

            Ly = Lìa nghỉ ngơi.

            Từ ‘nghị’ cũng là nghĩa của ‘Lý’ chính vì vậy tổ phụ phía Tây mới có danh hiệu là Hùng Nghị Vương. Và bắt đầu từ tổ phụ thứ ba này có thêm danh hiệu thứ 2 dùng chữ ‘Lang’ ;Vậy chữ  ‘lang’ nghĩa là gì? Hiện nay từ ‘Lang’ còn dùng ở các dân tộc Thái – Mường chỉ người đứng đầu cộng đồng như Lang phìa, Lang tạo, V.v, Chữ ‘lang’ là biến âm của chữ ‘Long’ nghĩa là con rồng và cũng có thể gọi thay cho chữ ‘hoàng đế, như Tần Thủy Hoàng còn được gọi là: ‘Tổ Long’ trong sử ký của Tư Mã Thiên. Trong thể chế quân chủ của Trung Hoa và Việt Nam từ ‘long’ độc quyền trong việc chỉ về nhà vua và những gì thuộc về vua như ‘long thể’, ‘long ngai’, ‘long sàng’, ‘long bào’, ‘long xa’, V.v… Vậy ta hiểu ‘long’ cũng đồng nghĩa với ‘vương, ‘chúa’ được dùng ở sắc dân thuộc cộng đồng Trung Hoa. Trong Hùng phả Phần danh hiệu dùng chữ lang này là vương hiệu vua khai sáng triều đại. Bảo  Lang có nghĩa là chúa phía Tây ,chữ ‘Bảo’ dịch sang Việt ngữ là ‘quí’ như trong quí báu. Với Thập Can thì quí là số 9, số 9 trong Hà Thư chỉ phương Tây ( 4 – 9”. Sách Lã Thị Xuân Thu đặt Thiếu Hạo trong Mạnh Thu Kỷ; số tương ứng là số 9 (quí), lấy đức Kim (cang, cương) mà cai trị, thần tương ứng là Kim Thần Nhục Thu, như thế các mã tin Dịch Lý của kỷ này đều tương ứng với phương Tây, phương của mã nền là “không đổi”, và trong Cửu Thiên,  trời Tây được gọi là ‘Hạo Thiên’ trùng với tên Thiếu Hạo của tổ phụ phía Tây cũng như Thần Nông Thái Viêm trùng với Viêm Thiên chỉ trời phương Bắc của Dịch Lý. Thời Thiếu Hạo được cổ sử Trung Hoa gọi là Kim Thiên Thị, chữ Kim là ký âm sai của chữ Cang, cương hay cứng, còn chữ thiên nghĩa là trời; Kim Thiên nghĩa là trời tây.Ngày nay ai đó cố tình gán nghĩa là kim loai cho hành Kim của ngũ hành.... xin thưa ở thời thái cổ khi lập ngũ hành thì làm gì đã biết đến kim loại ....?

            Phương tây trước đây không được nói tới trong truyền thuyết lập quốc của người Việt  nhưng nay đã được bổ sung là THÁI  KHANG hay tổ phụ phương tây, từ khang  thực ra là khăng , trong tiếng Việt  khăng khăng nghĩa là không thay đổi, khăng =cang=cương=cứng là tính chất của phương tây theo dịch học: số 4 là cứng, số 9 là đinh hay tịnh, Lã thị xuân thu viết động vật tiêu biểu là loài lông mao ý nói loài sư tử , đây là cái sai rất điển hình của những người cố ý cạo sửa cổ thư vì sư tử là loài thú xa lạ với cả Đông nam á và Trung hoa, bạn có nghe nói đến sư tử đông á châu bao giờ chưa ?..Động vật tiêu biểu của phương tây phải là con voi vì can số 9 chỉ phương tây theo Hà thư là can: định, tịnh..;.bản thân chữ tịnh đã là con voi rồi vậy mà Có người cố ý nhập nhèm sửa đổi vì lý do phía bắc sông Hòang hà  từ cổ chí kim làm gì có voi nên họ thay bằng con sư tử , cả sư và tử đều xuất phát từ âm tsi số 4 mà thôi,

Rất có thể sư tử là thần thú của dòng Hung nô ở trung á. Số 4 việt ngữ là bốn, biến âm thành bóng ,sáng bóng hay bóng láng dịch sang Hoa ngữ là HẠO hay CHIÊU nên phương tây còn gọi là bên Chiêu hay Châu, tổ phụ phương này là THIẾU HẠO; cổ thư trung hoa cũng nói đến sông KHANG  hay KHƯƠNG  như cái nôi của người cổ, từ Khương ký âm thành Cương cho phép ta liên kết với sông MỄ CƯƠNG tức chính là sông MÊCÔNG ngày nay.

 Lưu ý cũng là từ KHƯƠNG nhưng dân Khương thời thái cổ hoàn toàn khác với dân khương cuả sử Trung hoa thời trung cổ. Thời này từ Khương hay chi hay thổ phiên là từ chỉ người  tây Tạng hiện nay.

 

              4- Hùng triều thứ 4-Hùng Diệp. - Tổ phụ phương nam.

                    Vua khai sáng :  - Quan lang (Quang)

                    Danh hiệu khác trong Việt sử :Thái Tiết-Vũ Tiên .

                    Danh hiệu khác trong Hoa sử : - Xuyên Húc –Cao dương thị

                    Là thủ lãnh tộc Khương nam.(Phương nam của dịch lý ngược với hiện nay- khoảng 7000 năm trước công nguyên).

      Diệp là biến âm của từ dịch nghĩa là di chuyển, thời Hùng Nghị hay Ngụ con người đã tụ cư thành từng địa phận nay  nối chúng lại  thành  thể thống nhất cho con người và sản vật được lưu chuyển khắp nơi , chế tạo được phương tiện giao thông là 1 bước tiến lớn về khoa học kỹ thuật nhờ đó quy mô cộng đồng ngày càng lớn rộng và đến một lúc nào đó đủ tầm vóc để  hình thành quốc gia.Trên đồ biểu Hà thư, triều Hùng Diệp nằm ở phương nam, phương của sông nước , kênh lạch khiến ta liên tưởng đến khả năng thủy vận, suy nghĩ một cách hợp lý thì bè- mảng có thể là  phương tiện giao thông vận tải đầu tiên của người họ Hùng và rất có thể là của cả nhân loại, bản thân cây tre đã là 1 cái phao, lấy chính những sợi lạt cũng bằng tre để liên kết nhiều cây lại là đã có cái bè đi lại trên sông nước, thực gỉan đơn nhưng lại là cả 1 bước nhảy vọt về khoa học kỹ thuật.

   Việt ngữ gọi tháng 1 là tháng giêng, hoa ngữ ký âm thành giang đồng nghĩa với con sông thường được dịch thành xuyên, số 1 cũng là đơn biến âm của đen trùng khớp với huyền thiên trong cửu thiên cũng là mun, màu đen trong tiếng Việt để tạo thành nam mun hay man, vị vua của phương này truyền thuyết dân gian Việt gọi là THÁI TIẾT, thực ra là TIẾP mới đúng, tiếp là tiếp giáp; chỗ giao nhau của cũ và mới trước và sau còn là sự bắt đ̣ầu hay trước tiên theo nghĩa chữ giáp là đứng đầu là thứ nhất nên Thái tiết còn có tên là Tiên đế, lĩnh nam trích quái gọi là bà VŨ TIÊN,ta thếy tất cả đều xoay quanh con số 1,Vũ tiên thực ra chỉ có nghĩa là vua vùng số 1 tức phương nam, vì vua của phương (1-6) này cổ sử Trung hoa gọi là XUYÊN HÚC, xuyên là con sông như ta đã biết ở trên còn Húc chỉ là ký âm sai của từ hắc nghĩa cũng là màu ̣đen,sông đen chuyển ngữ ký âm sai thành Xuyên húc .

      Truyền thuyết lịch sử còn cho ta một thông tin khác, Hùng Diệp cũng chính là bà Vũ Tiên hay Vụ Tiên, vũ hay vụ là biến âm của từ vua, tiên là thứ nhất, đầu tiên hay số 1,  ta đã biết số 1 chỉ phương Nam hay phương Thủy, Theo Hà Thư : Tiên đồng nghĩa với Thủy, nhưng Thủy còn mang nghĩa khác là nước, phương nước tức phương Nam.

        

        

 

                                           ******************

     Tóm lại : thời tiền lập quốc người họ Hùng đã dựa trên Hà thư để hư cấu thành 4 vị tổ phụ của 4 phương trời, mượn danh các vua nhưng thực ra để chỉ 4 thị tộc mà sau này  cấu thành  tộc họ HÙNG.

     Tổng kết về 4 tổ phụ của 4 phương, tức thời tiền lập quốc của họ Hùng diễn ra trong thời gian mà khảo cổ học gọi là thời Đá giữa, cách nay khoảng 20.000 đến 7.000, đó là lúc biển tiến Phadrian cực đại và rút dần, con người bắt đầu rời hang núi cao xuống các thung lũng, và đi xuống thấp dần theo nhịp nước rút, ở giai đoạn cuối đã đến trung châu chuẩn bị tiến xuống khai phá vùng đầm lầy mà sau này là đồng bằng.

            Đối chiếu với khảo cổ học, ta xác định:

        a. Dòng Hùng Dương Vương hay Thái Cao Thị chính là người Bắc Sơn / Soi Nhụ tiền thân của nền văn hóa khảo cổ Hạ Long, Động Đình Hồ là vịnh Bắc Bộ hiện nay, đây là đất khởi nguyên của dòng Nam Đảo Đông hay Indonesien Đông. Các cư  dân nhánh Nam Đảo Đông tiến dọc theo bời biển Trung Hoa tới tận Phúc Kiến, Chiết Giang và đảo Đài Loan, nơi họ để lại dấu vết nền văn minh Hà mẫu độ rất nổi tiếng.

            b. Dòng Hùng Hiển Vương hay Thần Nông Cao Tân Thị mà Dấu vết thời này chính là nền văn hóa mẫu Hòa Bình, gọi là mẫu vì văn hóa này đã được khoa học dùng để chỉ cả một đợt văn minh trên khắp cõi Á Đông. Người Hòa Bình tỏa xuống đồng bằng theo các sông Mã,sông Chu,sông Cả  tiến tới bờ biển tạo nên các nền văn hoá khảo cổ lớn ở Thanh – Nghệ và dọc theo miền Trung.

            c. Dòng Hùng Nghị Vương hay Thiếu Hạo Kim Thiên Thị: Hùng Nghị Vương là tổ tiên của cư dân hệ Môn Khmer mà đã lưu dấu trong các nền văn hóa khảo cổ ở Đông Bắc Thái lấy sông Mêkông làm xương sống , Nonotha và bản Chiềng là nền văn hoá cổ rất nổi tiếng được lấy làm tiêu biểu cho cả một vùng rộng lớn ở phía Tây Việt Nam, ta gọi họ là dòng tộc sông Công hay Cương thuộc hệ Nam Á ngành Môn-Khmer.

           d. Hùng Diệp Vương hay Xuyên Húc Cao Dương Thị : Hùng Diệp Vương là tổ tiên của dòng H’Mông  cổ sử gọi  là Hữu Miêu, chắc chắn có một nền văn hóa khảo cổ tiêu biểu cho cả một vùng núi rừng rộng lớn ở Bắc Việt Nam và trung tâm là hạ lưu sông Đà còn chưa được khám phá, hoặc bị chìm lấp, lẫn lộn với 1 nền văn hóa khảo cổ khác hiện nay chưa phân lập được, nhiều khả năng chính là phần văn hóa Hòa Bình ở núi rừng Tây Bắc Việt hiện nay

Nguyễn Quang Nhật

 

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui ḷng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những ǵ liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 10/19/17