Người Hán nhận mình là “Quan Tộc”...;.quan
tộc ngài là ai...?
Ở Trung Hoa ngày nay tiếng Bắc
Kinh còn gọi là Quan Thoại được coi là tiếng phổ thông, chữ Quan này
được hiểu là Quan Quyền, Quan là ông Quan người cai trị dân, là
tiếng nói giới cầm đầu cầm cổ người dân, trong một giai đoạn lịch sử
nào đó mà Quan và dân không cùng chung một ngôn ngữ, có tiếng nói
của người cai trị “Quan Thoại” thì cũng có “Chúng thoại” của giới bị
trị, sự kiện này nói lên điều gì? Rõ ràng đây là tình cảnh của một
dân tộc đang bị ngoại nhân xâm chiếm, Quan Tộc là tộc người cai trị
thì kẻ bị trị là ai? Trong bối cảnh lịch sử ta đang xem xét thì chỉ
có thể là người Trung Hoa mà thôi.
Quan Thoại là tiếng nói của vùng
Sơn Tây Hà Bắc, Bắc Kinh xưa là đất khởi phát đế nghiệp của vua
Quang Vũ nhà Đông hay Hậu Hán. Vậy là ta rõ tại sao người Hán nhận
mình là Quan Tộc, chữ Quang trong Quang Vũ là sai, không biết vô
tình hay hữu ý, chữ Quang phải đối thành “Quan” mới đúng. Quan Vũ là
Vua nước Quan, Vũ chỉ là từ ký âm của chữ Vua. Trong Việt ngữ. (Tại
sao vậy? Chúng ta sẽ có dịp bàn kỹ hơn tong một bài khác); Ta có sự
liện hết hòan chỉnh: Quan Tộc, Quan Thoại và Quan Vũ, và cũng đã rõ
sự liên hệ giữa Quan Tộc và người Hán.
Tiếp tục với câu hỏi: Quan tộc
ngài là ai?. Ngược dòng lịch sử tới thời Ân Thương thời cưc thịnh
của triều đại Ân Thương Trung Hoa đã có 4 thuộc Quốc:
Phương Nam là nước Quan
Phương Đông là nước Từ
Phương Tây là nước Châu (Chu)
Phương Bắc là nước Thao
Ta khoan tìm hiểu về nước Thao
vì để xác định được phải mất cả một chương dài mới có thể thấu đáo,
xin hẹn trong một bài khác.
- Phương Tây là nứơc Châu dễ xác
định nhất đó chính là vương triều kế sau nhà Ân Thương. Đứng về mặt
ngữ nghĩa ta thấy đoạn văn trên hơi kỳ lạ: Thuộc Quốc Phía Tây cuả
Trung Hoa là nước… Phương tây ….; Châu, Chu chỉ là biến âm của chữ
“CHiêu” là phương Tây, ngược với bên Mục Tức Phương Đông mặt trời
mọc.
- Tương tự: Thuộc quốc Phương
Đông là nước Từ. Theo dịch lý thì Phương Đông màu xanh, là phương
của tình cảm ngược với Phương Tây là Phương của Lý lẽ dịch Tượng là
Quê Ly(Tiên Thiên Bát Quái). Màu xanh từ Hán Việt là: Thanh,
Thương, nhưng Thương trong Việt ngữ cũng là Thương yêu; Phương
“Thương yêu” dịch sang Hoa ngữ là “Từ Ái”, như thế nước Từ cũng chỉ
nghĩa là nước.. Phương Đông…, Ta có thể xác định nước “Từ” là nước ở
vùng Từ Châu, Tỉnh Sơn Đông ngày nay, Thời Chiến Quốc là nước Tề (Tề
là biến âm của Từ).
- Thuộc Quốc Phương Nam là nước
Quan, cùng một mạch suy luận ta nhận ra ngay: Quan là từ dịch sang
Hoa ngữ của chữ Nom, nhìn của Tiếng việt: Trời đất có phương Mục,
Phương Chiêu, tức Phương mặt trời mọc và lặn, con người có Tay Mục
(Mặt), Tay Chiêu (trái); nếu để tay chiêu ở Phương Chiêu; Tay Mục ở
phương Mục thì hướng mắt ta nhìn là hướng Nom; Biến âm Thành Nam.
Thực a cả hai phương Bắc và Nam đều là ký âm của Việt Ngữ: Bức
(nóng) = Bắc; Nom (nhìn) = Nam. Như vậy thuộc Quốc “Quan” cũng nghĩa
là nước ở phía Nam mà thôi.
Ở đây ta có được thông tin rõ
ràng dứt khoát: nước Quan chỉ là thuộc quốc phía Nam Trung Hoa. Quan
là thuộc Quốc của Trung Hoa thì Hán không thể nào là Trung Hoa được
vì Hán = Quan
Khi dùng phương hướng bắc Nam như
hiện nay sẽ xảy ra điều không thể có:
Nếu nước Quan đã xác định là vùng Sơn
Tây – Hà Bắc – Bắc Kinh thì đất của nhà Ân Thương phải là đất Mông
Cổ…, không lẻ Mông Cổ là Trung Hoa? Vì nước Quan là nước Phía Nam
Trung Hoa, kiểu này người eskimo… đất Tây Bá Lợi Á là nước THAO và
nước Từ không thể ở Tứ Châu, Sơn Đông được mà là nước của người Kim,
người Mãn… ở bán đảo Liêu Đông.
Những điều trên là không thể thì
ta chỉ có thể hiểu được nếu khẳng định là: Trong quá khứ đã có lần
đảo ngược hướng Bắc Nam, chỉ khi đất của nhà Ân Thương ở Hà Nam; Hồ
Bắc, An Huy thì đất của Quan Tộc mới là Sơn Tây – Hà Bắc và nước
“Từ” mới ở Từ Châu, Sơn Đông.
- Qua thời nhà Châu, xin trích một đoạn
trong Sách Lộ Sử của La Bí đời Tống.
“Ngô Việt Sở Thục đều là đất man,
các đất Tần Lũng Tấn ngụy đều đã thành đất của người địch, Hà Nam
là đất man, Hà Tây là đất địch, Hoài thì có các rợ thư, Ngụy thì có
các rợ nguy, chỗ nào cũng đầy dãy (Man địch), chỉ một Vương Thành ở
Lạc Dương mà những người Nhung, Dương Cự, Tuyền Cao, Lục Hồn, Y Lực
cũng ơ xen lẫn, trong ấy người “Quan Tộc”không có bao nhiêu ”
Thông tin trong đoạn trích
trên xác định “Quan Tộc” vẫn ở Bờ bắc Hoàng Hà, vùng Sơn Tây Hà Bắc
và nếu liên kết thông tin với địa lý- lịch sử thời “Ân Thương” thì
ta buộc phải hiểu những dân mà Lộ sử gọi là Man là địch mới đích thị
là người Trung Hoa, là hậu duệ của người Thời Ân Thương.
Xét kỹ hơn trong lịch sử
Trung Hoa, ít ra từ thời Ân Thương ; chưa bao giờ Trung hoa làm chủ
được phần đất bắc Hoàng Hà một cách ổn định và lâu dài.
- Thời: ân thương và chu ta đã
biết ở phần trên.
-- Thời Tần: Sau khi thống nhất Lục
Quốc thì Rợ đã lấn tới đất Hà Nam.
- Thời Tây hán: sau cuộc Hán Sở
Tranh Hùng, Lưu bang lên ngôi Hoàng Đế thì Rợ lại cũng lấn tới đất
Hà Nam, lưu bang đem quân lên đánh xuýt mất mạng ở Sơn Tây… đành
phải rút lui..., tới thời Hán Vũ Đế. khi mới lên ngôi thì Rợ cũng
đã lấn xuống phía Nam Hoàng Hà…
- Từ thời nổi dậy của “Lục Lâm Thảo
Khấu” người Hán tức Quan Tộc xuất phát từ Sơn Tây, hà Bắc nuốt dần
Trung Hoa từ Bắc xuống Nam đặt đất Trung Hoa vào vòng nô lệ hơn 500
năm.
Mãi tới thơì Nhà Đường Trung Hoa
mới làm chủ vùng Bắc Hoàng Hà được một thời gian nhưng cũng không
lâu dài và ổn định vì biến loạn an lộc sơn mấy mươi năm, An Lộc Sơn
cũng là Rợ … Phương Bắc mà thôi .
Càng về sau Trung Hoa càng khốn
khổ hơn; hết Tây Hạ tới Liêu, hết Liêu tới Kim, hết Kim tới Mông Cổ…
và sau cùng là Mãn Thanh, Trung Hoa bị khai tử mấy trăm năm và chỉ
phục sinh từ cuộc cách mạng Tân Hợi 1911, nhưng cũng từ đó mang một
vóc hình khác: Hợp chủng Quốc Trung Hoa. Đó là thực trạng Trung Hoa
ngày nay không thể nói khác được, từ góc nhìn hợp chủng Quốc Trung
Hoa thì quá khứ xa xôi không còn nguyên trạng của lịch sử dân tộc
Trung Hoa nữa, chính vì vậy mới có chuyện những người xâm chiếm
Trung Hoa đặt Trung Hoa dưới móng ngựa của họ cũng trở thành một
triều đại chính thống của lịch sử Trung Hoa, nào Hán, nào Mông rồi
Mãn.. hết thảy đều là một triều đại, một thời kỳ lịch sử của Trung
Hoa, bất chấp thời ấy dân Trung Hoa phải cạo nữa đầu và kết tóc đuôi
sam, 10 nhà mới được giữ 1 con dao, thời mà văn hóa Trung Hoa bị
chôn dưới bùn… nhà nho chỉ được xếp đứng trên ăn mày trong 10 bậc
dân của đế quốc Mông Cổ.
Quan đi với liêu Thành từ kép:
“Quan – Liêu” người việt ghép thêm chữ thành ra “Quan Liêu Hống
hách” để chỉ thái độ của các bậc Quan đế quốc coi dân như cỏ rác,
câu trên cũng giúp ta xác định Quan và Liêu chỉ là một; chính xác
phải nói là: Nước Quan Người Liêu. “Liêu ” là từ Hán ký âm chữ “Lu”
Tiếng Việt, Lu là mờ tối dịch tượng chỉ phương Nam, nhỏ, đen, mờ,
lạnh, thấp, là những tính chất của Phương Nam theo dịch lý.
“Quan” ban đầu chỉ có nghĩa là
Phương Nam nhưng do thực tế lịch sử thời Trung Hoa bị chiếm đóng…
tất cả người cầm đâu cổ dân từ thấp lên cao đều thuộc “Quan Tộc” nên
chữ Quan phải gánh thêm nghĩa mới: “Kẻ cai trị” tức Quan Quyền như
ta hiểu ngày nay.
Hán Tộc, Quan Tộc, Liêu Tộc có
phải là Trung Hoa hay không? Thêm một bằng chứng lịch sử nữa:
Liêu chiếm đất Bắc Hoàng Hà của
Trung Hoa, Kim diệt Liêu và chiếm hết đất của Liêu, sau đó tiến thêm
chiếm hết miền hoa bắc, Mông Cổ chiếm hết đất của người Kim rồi
xua quân chiếm luôn Nam Tống ở bờ Nam Trường Giang.
Mông Cổ chia: dân trên đất kim cũ
gọi là Người Hán, trên đất Nam Tống gọi là Người Nam. Như vậy với
vua Mông Cổ thì Kim hay Liêu gì cũng là Hán, Trung Hoa mới là giống
khác.
Nếu ta đặt câu hỏi người Hán là
Trung Hoa hay người Nam là Trung Hoa thì em bé mới cắp sách đến
trường cũng trả lời ngay được.: Người Nam của nước Tống mới là người
Trung Hoa, và còn hơn thế nữa ở Trung Hoa từ “Hán nhân” có thời được
dùng như một câu chửi người (Sách cội nguồn văn hóa Trung Hoa do
Đường Đắc Dương chủ Biên, biên dịch Việt ngữ năm 2003).
Vậy tại sao mãi tới nay người ta
vẫn còn lầm hẫn: Hán là Hoa hay Hoa và Hán chỉ là một? Hoa và Hán
không những là hai dân tộc khác mà họ còn khác biệt cả về chủng tộc,
người Hán tức Quan Tộc thụôc dòng Mongoliot còn người Hoa thụôc dòng
Monglóit phương nam với 2 chi là : Nam Á và Nam Đảo (Lộ sử gọi là
man và Địch)
Sự lầm lẫn này không phải do vô ý,
trái lại đã có một sự sắp xếp rất bài bản và tinh vi, Chúng ta xem
lại lịch sử Trung Hoa thời trước và thời sau năm số “không” của
Tây Lịch, thời kỳ Hán biến thành Hoa nhờ 1 cây cầu nối … lịch sử.
Vương Mãng với quyết sách cải tổ
toàn diện và triệt để đã làm rối loạn toàn xã hội Trung Hoa, sự đảo
lộn ấy cộng hưởng với ngoại xâm và thiên tai trong một thời gian
ngắn đã đẩy Trung Hoa đến bên bờ vực thẳm, Quốc lực hầu như bằng
không … tất nhiên loạn lạc nổi lên khắp nơi. Đòn quyết định vận mệnh
Trung Hoa là việc vương Mãng Giáng vua các thụôc quốc từ tứơc
‘vương’ xuống tước ‘hầu’, cấm họ Lưu không đựơc làm quan, chính sử
nói như thế nhưng ở đây ta có thể hiểu là: vương mãn áp dụng đừơng
lối phân biệt chủng tộc, cấm ngừơi họ Lưu tức là cấm người LiÊU
không đựơc tham dự vào bộ máy lãnh đạo Trung Hoa, phân biệt rõ Trung
Hoa và ngoại nhân , chính quốc và thụôc quốc
Việc tự xưng là “Châu Hoàng Đế”
chỉ rõ ý muốn tiếp nối quốc thống nhà “Châu” của vương mãng.
Chính sử không nói nhưng nhiều
nhà nghiên cứu đã chỉ ra Trong Quân của lưu bang thời Hán sở tranh
hùng có rất nhiều người Hungnô tức rợ phương bắc nói chung, vì ơn
nghĩa ấy sau khi lên ngôi … Thực chất quốc gia của Lưu Bang là một
cộng đồng đa tộc, Hoàng tộc Trung Hoa còn củng cố mối liên hệ với
các tộc phương bắc bằng nhiều cụôc hôn nhân vì vậy nhiều người gốc
Hungnô đã trở thành quý tộc trong triều đại Lưu Bang.
Hai anh em Lưu Dần và Lưu Tú
ở trong số quý tộc dị chủng ấy, khi bị vương mãng tước Vương tộc lập
tức phản ứng, tụ tập đồng bọn, những kẻ đồng hội đồng thuyền chiếm
núi Lục Lâm ở Hồ Bắc, ban đầu chỉ là một bọn cướp núi dân Trung Hoa
khinh thường gọi là “Lục lâm thảo khấu”... nhưng khi vận nước đã đến
hồi tối tăm thì lũ “giặc cỏ” cũng làm nên cơ nghiệp, Trung Hoa rả
rời và mong manh chỉ một cơn gió nhẹ cũng đủ sụp đổ tan tành, ban
đầu bọn “giặc cỏ” lập Lưu Huyền lên làm vua, niên hiệu là Cánh Thủy
có điều lạ: không thấy lịch sử nói đến tên triều đại mà chỉ lấy niên
hiệu để gọi vua là Cánh Thủy Đế, nhưng Quân của ông ta thì lại gọi
đích danh là “Hán Quân”
Cánh Thủy Đế chì làm vua được
3 năm thì bị quân Xích My của những người Trung Hoa theo Lão Giáo
nổi lên nhằm khôi phục triều đại Lưu bang diệt quốc. Lưu Tú là
tay Đại Hùng lược, anh hùng khai quốc của người hán, chính đám quân
của ông đã chặt đầu “Châu hoàng đế” khi đang ngồi cầu kinh trên
ngai vàng vì còn tin là số mình chưa tận.
Nhưng dưới triều Cánh Thủy Dế thì Lưu
Tú lại bị vua lưu Huyền Nghi kỵ nên đày đi tuốt vùng sâu vùng xa… Ở
Hà Bắc (Trước đó do Tranh dành Lưu Huỳền đã giết Lưu Dần anh của
Lưu Tú)
Lưu Tú đã tỏ rõ bản lĩnh của
mình, sau mấy năm trời âm thầm gây dựng lực lượng đến năm 25 sau
Công nguyên thì chính thức lập quốc và xưng đế hiệu là Quang Vũ tên
nước và triều đại là Đông Hán hay Hậu hán.
Từ năm26 Quan VŨ diệt quân XÍch
My và rồi Tuần tự chiếm trọn đất Trung Hoa
4 triều đại nối tiếp nhau của
thời kỳ này là:
Triều đại của Lưu Bang – Hiếu Cao
Tổ
Triều đại của Vương Mãng –Châu
Hoàng Đế
Tiều đại của Lưu Huyền - Cánh
Thủy Đế
Triều đại cua Lưư Tú – Quang Vũ
Đế
Trong số này có sự “bất
thường” của lịch sử với 2 triều: Lưu bang – Hiếu Cao và Lưu Huyền –
Cánh Thủy Đế. Ở triều đại do Lưu Bang dựng nên tất cả các vua đều có
đế hiệu là “Hiếu”…; như Hiếu Cao Tổ, Hiếu Huệ Đế, Hiếu Văn Đế, Hiếu
Cảnh Đế,v.v… theo quy tắc của sử học Trung Hoa thì triều này bắt
buộc phải gọi là triều “Hiếu”… nhưng trong sách sử Trung Hoa ta
không hề thấy tên triều này mà thay vào đấy là triều “Tây Hán”
Triều Cánh Thủy Đế còn đặc
biệt hơn, không có cả Đế hiệu và quốc hiệu…. Không lẽ là nước
“Cánh” .. , có thấy lịch sử viết gì đâu? Nhưng quân đội lại ghi rõ
là Hán Quân.
Tại sao vậy? Liên kết sự kiện
của 2 triều đạị ta tìm ra sự bí ẩn của lịch sử Trung Hoa.
Suy luận 1 cách hợp lý ta
thấy:
Cuộc nổi dậy của họ “Lưu” ở núi Lục Lâm
đưa đến việc thành lập 2 triều đại của “Hán Nhân” triều của Lưu
Huyền ở Thiểm Tây và Lưu Tú ở Hà Bắc – Bắc Kinh; nếu triều của Lưu
Tú là đông Hán thì triều của Lưu Huyền phải là Tây hán hay Tiền
Hán, lịch sử đã chỉ rõ quân của Lưu Huyền là “Hán QUân”. Tại sao lại
tước đi đế hiệu hay Quốc hiệu ấy rồi đem gắn vào triều đại của Lưu
Bang? Khi triều đại của Lưu bang được gắn tên mới là Tây Hán dĩ
nhiên Đế Hiệu “Chính Thống” là triều Hiếu phải bị chôn vùi đi để cho
dòng chảy lịch sử vẫn bình thường từ Tiền Hán sang Hậu hán… đúng là
cây cầu lịch sử nối đôi bờ Hoa-Hán, nhờ cây cầu này người Hán đương
nhiên tiếp thu toàn bộ lịch sử của Trung Hoa , di sản ấy là toàn bộ
nền văn hóa văn minh Trung Hoa và rất đặc biệt... ‘sang đoạt’ luôn
cả tổ tiên của người Trung Hoa , đây là trường hợp đặc biệt “Độc
nhất vô nhị” trong lịch sử nhân loại.
Việc “Hoán chuyển” này được sắp
đặt hết sức công phu và tinh vi.
Lưu Bang được gọi là Bái Công,
trong cuộc Hán Sở Tranh Hùng ông có thêm tên mới là Hán Vương. Từ
“Hán” chỉ là ký âm hoa ngữ của chữ Hơn hay Hưng mà thôi, Hán –Sở
chỉ là một cặp lưỡng nghi hình thành trên quy tắc của dịch lý.
Hán – Sở -: Hên – Sui
Hơn – Thua
Hưng – Suy
Vì Lưu Bang là người chiến thắng nên dĩ
nhiêm là Hưng đế, còn Hạng tịch là suy đế hay sở đế.... phép kỳ âm
phù thủy đã biến. :
Hưng = Hán = Hãn
“Hưng đế” của Trung Hoa qua
trung gian của từ “Hán” đã biến thành “ Đại Hãn” của Rợ Phương Bắc.
Họ Lưu của Lưu Bang là sự cố tình nhập nhèm, khi khởi nghĩa ở đất
Bái ông ta đã Tế Hoàng Đế và xi vưu Chứng Tỏ ông là Trung Hoa
thuần túy. Ông chọn phẩm phục, cờ xí đều là mầu đỏ, chứng tỏ ông là
gốc người miền nhiệt đới được tượng trưng bằng Quẻ Ly – hay lửa và
màu đỏ. Như vậy ông phải mang họ Lý không thể nào mang họ Lưu được,
Lưu là biến âm của “Lu, mờ” là tính chất của Phương Nam theo dịch lý
(ngược với Phương hiện này).
Lu → Liêu – Lưu.
Lửa → Lý – Lưu.
CHỉ với chút Tiểu xảo ngôn ngữ
một ông vua gốc Nhiệt đới biến ngay thành vị khả hãn của xứ lạnh
giá băng tuyết. Từ Hán cũng là ký âm của “Hãn” trong ngôn ngữ Bắc
Phương (Phương hiệu nay) tức phương Nam xưa (theo dịch lý) Hãn là
Vua, nước của Hãn là Hãn Quốc, Quân đội của Hãn là Hãn Quân; Tây
Phương Lý âm La Tinh: Hãn thành Khan, người Tàu ký âm là khả hãn
rồi Đại Hãn sau cùng thành Hán đế. Điều này được lịch sử Trung Hoa
minh chứng là có cả đống nước gọi là “Hán Quốc” Chứ không phải chỉ
có triều tiền và Hậu Hán.
Tóm Lại:
Trong Lịch sử Trung Hoa Từ
“Hán” hay “Hán Tộc” là tên chung của các tộc du mục phương Bắc
chính yếu chỉ 2 tộc Khiết Đan hay Liêu và Tiên Ty hay Kim –Mãn, Quan
Tộc chỉ là một thành phần của Tộc Liêu. Mà thôi
Người Hán không phải là người
Hoa, Hán Quốc không bao giờ là Trung Hoa (theo Quan điểm Trung Hoa
thuần khiết và chính thống)
Triều Hiếu do Lưu Bang lập nên
không có một chút liên hệ gì về huyết thống với Quan Vũ nước Đông
Hán; Đông Hán chính xác phải gọi là Đông Hãn Quốc, cùng với Tây Hãn
Quốc. Tương tự Khâm Sát – Hãn Quốc; A hoạt đài Hãn Quốc…. Của người
Mông Cổ.
Vương Mãng viết đúng là: Vương
Mãn, nghĩa là Vua cuối cùng, Mãn là đã đầy tràn hết chỗ chứa rồi
không thể thêm được nữa, tiếng việt dùng chữ Mãn với nghĩa đã xong
rồi như Mãn Nhiệm, Mãn khóa, mãn phần,v.v… do hoàn cảnh lịch sử nên
các sử gia chỉ có thể viết một cách bóng gió: triều Vương Mãn và
ta phải hiểu rõ ý nghĩa là: Vận số của Vương triều Trung Hoa tới
đây đã tận. So sánh với Hùng Triều thế phổ thì Vương Mãn là triều
Hùng Vương thứ 18…, Tên Vương Mãn nói lên một điều rất rõ ràng đây
là Vương Triều sau cùng của Trung Hoa, sau đấy là chuỗi ngày Vong
Quốc, con dân Trung Hoa làm thân nô lệ và kẻ xâm chiếm thống trị
Trung Hoa chính là Quan Tộc với 2 Hãn Quốc Tiền và Hậu.
Việc Lưu tú nhận là cháu
5 đời của Cảnh đế triều Hiếu là giả mạo và bị dân gian
diễu cợt bằng câu : “mập mờ đánh lận con đen..”.... cả
huyền và tú-tối đều là con đen... theo nghĩa này.
Việc có rất nhiều từ hán
gốc Việt trong sử Trung hoa là 1 hiện tượng ngôn ngữ chưa lý
giải được..., rất có thể là lịch sử trung hoa hiện nay đã
viết dựa trên những tư liệu gốc không phải bằng hán văn
nên với những từ hay cụm từ được cho là “danh từ riêng” thì
ký âm chứ không dịch, loại văn tự này chỉ có thể là Việt
văn cổ hoặc Nếu không thì cũng là văn tự của dân tộc
nào đó rất gần gũi với người Việt hiện nay.