Văn hóa Luy Lâu được 
		cho là đă có từ thời Triệu Đà 207 BC. Nghiên cứu văn hóa Luy Lâu có thể  thấy 
		được đây là một lọai h́nh văn hóa đa dạng, trong đó điểm gây chú ư nhất 
		là điệu múa  mặt nạ
		
		
		
		 
		
		 Qua 
		những h́nh ảnh khắc trên trống đồng  có 
		thể thấy được bản sắc Việt ở các điệu múa của những người trang phục 
		cánh chim, .nhưng ở Luy Lâu lại có một điệu múa dân gian là điệu múa 
		mang mặt nạ chưa hề thấy khắc trên trống đồng 
		khiến người ta nghĩ rằng đó có thể là điệu múa của một tộc người thiểu 
		số khác nằm trong cộng đồng người Việt, có 
		thể đó là điệu múa của người Chăm hoặc có thể đó là điệu múa từ nơi nào 
		mang đến . Ở Luy Lâu , điệu múa “Bà Bụng chửa” và điệu múa “Con đĩ đánh 
		bồng” được các nhà nghiên cứu cho rằng có liên quan đến nghi lễ nông 
		nghiệp trong thời văn hóa Luy Lâu. Ngừơi ta so sánh bài múa “ Con đĩ 
		đánh bồng” với bài múa “ Bà bụng chửa”và chỉ ra điểm giống nhau ở chỗ 
		cùng là nghi lễ phồn thực, là những đám múa sinh thực khí nói lên ước 
		muốn  sinh sôi nảy nở của con 
		người.
		
		       Bà 
		bụng chửa được miêu tả là một người đàn bà to lớn với bụng chửa cao vượt 
		mặt, hai tay cầm hai quạt to để múa, h́nh ảnh ấy làm ta liên tưởng đến 
		h́nh ảnh ông địa cũng có bụng to như bụng chửa và tay cũng cầm quạt, chỉ 
		khác là ông địa có thêm chiếc mặt nạ rất giống h́nh mặt hề khắc trên 
		ngói lợp đền miếu t́m thấy ở Luy Lâu.  Sự 
		giống nhau giữa ông Địa với Bà Bụng chửa làm  ta 
		thắc mắc  liệu ông Địa thuở 
		xưa ở chế độ mẫu hệ có phải là  bà 
		bụng chửa. Như đă biết chế độ mẫu hệ gắn liền với nông nghiệp thể hiện ớ 
		câu : “ Bà Nữ oa bằng ba mẫu ruộng, ông Tứ tượng bằng bốn con sào”, ở 
		chế độ mẫu hệ người ta đề cao phụ nữ . Về tín ngưỡng người ta thờ Bà , 
		vị thánh nữ mang nhiều tên khác nhau như : Bà chúa Xứ, Bà chúa Ngọc ,Thiên 
		Y Ana thánh Mẫu , Po Ino Nagar..v..v , những vị thánh nữ kể trên c̣n 
		được gọi là  Bà Trời.  C̣n 
		mặt trăng cũng được người Chăm theo chế độ mẫu hệ gọi là  Bà 
		Trăng                     
		
		    Nhưng 
		có nơi người ta cũng thờ Ông bởi  trên 
		đất nước ta có hai cộng đồng dân cư, một quen sống ở vùng sông nước, 
		vùng biển và một cộng đồng quen sống ở vùng đất đồng bằng, vùng cao. Hai 
		cộng đồng này  đă ḥa nhập 
		với nhau tạo nên một nền văn minh đặc sắc thể hiện bằng những h́nh ảnh 
		được khắc trên trống đồng. Ở những vùng dân cư sống bằng nghề biển, tôi 
		cho rằng đa số theo chế độ phụ hệ, ở đó người ta thờ Ông , người ta đă 
		nhân cách hóa con cá thành một vị thần thường cứu nạn cho người đi biển 
		, đó là cá Ông .    
		
		 
		
		       Trở 
		lại với Ông Địa. …Tại Nghệ An người ta thấy ông Địa đi trong các đám 
		rước Thành Ḥang. Tại Bắc Bộ người ta thấy ông Địa đi trong các đ̣an múa 
		lân, múa sư tử vào các dịp lễ lớn. Ông Địa luôn đeo mặt nạ trông rất 
		giống với gương mặt khắc trên đầu  ngói 
		“ Mặt hề” được phát hiện trong thành Luy Lâu có niên đại thứ 2-3 sau 
		công nguyên 
		
		       Những 
		đầu ngói “Mặt hề” c̣n được t́m thấy ở các di tích thành cổ của Chămpa mà 
		các nhà khảo cổ cho là có nguồn gốc từ văn hóa Hán.
		
		    Thực 
		ra măt nạ  có nguồn gốc từ 
		Tây Vực. Từ đó  mặt nạ được 
		mang đến Trung Quốc cũng như đến Việt Nam..  N.Kon 
		rat trong Phương Đông và 
		Phương Tây cho rằng : 
		“mặt nạ  có thể được mang tới 
		Trung quốc bằng hai con đường, hoặc theo hướng Tây vực hoặc theo hướng 
		Đông Dương”.
		
		    
		
		      Vào 
		thời Hán Vũ Đế  người Trung 
		Hoa đă lấn chiếm được vùng Hoa nam . Khỏang 122 BC,  sứ 
		thần của Hán là Trương 
		Thiên đă nh́n thấy ở Bactria vùng 
		bắc Ấ 
		n có  sản phẩm 
		vải vóc và hàng mây tre của Tứ xuyên nên  nghi 
		ngờ có con đường mua bán giữa  Ấn 
		độ và nam Trung quốc . Qua 
		báo cáo của Trương Thiên, Hán Vũ đế đă cử  4 
		đội điều tra để t́m kiếm và t́m ra nơi ở của người  Nhục 
		Chi.
		
		        Nhục 
		Chi (Nguyệt chi) là một tộc người đă từng sinh sống ở Tây vực , ḷng 
		chảo Tarim (bồn 
		địa Tháp Lư Mộc). Sau đó, khỏang 175-125BC  một 
		trong số năm 
		bộ lạc của người Nguyệt Chi là 
		bộ lạc Quư 
		Sương (貴霜), 
		đă nắm quyền kiểm soát liên minh Nguyệt Chi , 
		họ đến Bắc Ấn và Vuơng triều Quư Sương (Kushan) ở BắcẤn được thiết lập vào 
		cuối thế kỷ thứ IBC
		
		
		 http://www.grifterrec.com/coins/kushan/kushan.html
		    Trước 
		khi  người Nguyệt Chi  đến Bactria, 
		đă  có một nhóm bộ lạc Scythia định 
		cư ở nơi này được gọi là người Ấn-Scythia. Người ta cho 
		rằng  sau 
		khi bị người Nguyệt Chi xua đuổi, một số người Scythia có 
		thể đă di cư xuống khu vực ngày nay là tỉnh Vân Nam ở miền nam Trung 
		Quốc. Khu 
		vực Điền Tŕ ở 
		VânNam đă khai 
		quật  được nh́ều đồ đồng H́nh 
		ảnh mô 
		tả trên trống đồng là các 
		cảnh săn bắn của những người cưỡi ngựa thuộc Đại chủng Âu(Caucasoid). 
		Các cảnh động vật như hổ, báo tấn công ḅ mang 
		nét nghệ 
		thuật Scythia
		
		 
		
		
		
		http://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%87t_Chi
		
		
		
		http://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%B2ng_ch%E1%BA%A3o_Tarim
		
		 
		   Nhiều 
		nhà nghiên cứu cho rằng có 2 con đường vào phía Tây nam Trung Hoa :một 
		con đường từ Bactria qua 
		Ấn Độ, Miến Điện đến Tứ xuyên và một con đường  đến 
		khu tự  trị  Sở  Hùng 
		( Chuxiong) , con đường “Bonan Dao” thuộc tỉnhVân Nam. 
		Hai con đường này đă từng là con đường mua bán và cũng là con đường di 
		cư của tổ tiên.
		
		      Theo 
		tôi, mặt nạ có lẽ đă vào Luy Lâu  không 
		phải qua mua bán mà đó là  nét 
		văn hóa đă theo dân tộc nào đó di cư đến Luy Lâu như dân tộc Chăm chẳng 
		hạn v́ như đă nói phần trên, 
		những đầu ngói “Mặt hề” không chỉ được t́m 
		thấy  ở  Luy 
		Lâu nơi có người Chăm sinh sống  mà 
		c̣n được t́m thấy ở các di tích thành cổ của Chăm. Trong hệ 
		thống múa cổ truyền đặc trưng c̣n mang nhiều bí ẩn, được lưu truyền qua 
		nhiều thế hệ là các điệu múa Chiêm Thành, Ai Lao, Ngô Quốc, Hoa Lang và 
		Tú Huần (c̣n gọi là Lục hồn Nhung)  , 
		th́ chỉ có ba điệu Chiêm Thành, Hoa Lang và Tú Huần là mang  mặt 
		nạ. Tiếng 
		nói của người Chăm thuộc nhóm ngôn ngữ Malay-Polynesia , mà theo B́nh 
		nguyên Lộc dân tộc này có gắn bó với dân Nhục Chi
		
		            B́nh 
		nguyên Lộc trong Nguồn gốc 
		Mă Lai của dân tộcViệt Nam đă 
		dựa vào  từ EA  trước 
		từ Blăng có nghĩa là Bà Trăng mà cho rằng đất Chăm là do người Lưỡng Hà 
		khai phá chứ không  phải do 
		người Ấn độ như các nhà nghiên cứu phương Tây đă giả định.  B́nh 
		Nguyên Lộc có lẽ cũng thấy dấu vết Bactria , mà người Trung Hoa gọi là Đại 
		Hạ, trong văn hóa Chăm nên ông cho rằng  người 
		Chăm là người gốc Nhục Chi và có lẽ v́ người Ba Tư thờ mặt trăng , cùng 
		với  Ea là từ ngữ xuất hiện 
		nhiều trong các văn bản t́m được ở vùng Lưỡng Hà nên ông nói thêm rằng 
		bọn Ba Tư-Nhục Chi này lại có thể là gốc Lưỡng Hà. Ông c̣n thấy rằng đạo 
		thờ linga, yoni không phải của Ấn Độ mà là của chủng Malayalam ở Ấn và  cho 
		rằng đó là dấu vết Mă lai của xă hội Mă Lai Lạc Việt thời cổ . Như 
		vậy, theo ư ông mà suy ra th́ Việt nam và Chàm cũng có  mối 
		quan hệ gắn bó v́ cùng chung nguồn gốc Mă Lai, tuy nhiên không thấy ông 
		nói đến việc ta có liên quan ǵ đến Ba Tư-Nhục Chi hoăc Malayalam ở Ấn.
		
		
		Thuyết của B́nh Nguyên Lộc  cũng 
		có điểm đáng chú ư. Tuy nhiên, cho dù yếu tố Mă lai trong con người Việt 
		là có thật, ta  cũng 
		cần có niềm tin vào truyền thuyết con rồng cháu tiên, cần nhớ đến chuyện 
		lên núi xuống biển của tổ tiên ta  để 
		rộng đường suy luận.
		
		
		B́nh Nguyên Lộc không quan tâm nhiều đến truyền thuyết, ông rất thích 
		nghiên cứu sọ, ông viết: “…..chỉ có sọ chủng Mă Lai là giống hệt sọ 
		của người Việt Nam, c̣n sọ Mê-la-nê, sọ Négrito, sọ Miêu, sọ Trung Hoa 
		đều khác…….”
		
		
		Tuy rằng B́nh Nguyên Lộc thích nghiên cứu sọ mà ông cho đó là phương 
		pháp rất khoa học, kết quả nghiên cứu của ông thật là khó tả.. Ông viết : 
		“Các 
		nhà đào bới đă tiết lộ những điều kỳ dị hết sức là các thứ sọ Hoa Bắc 
		chỉ thuộc 
		ba chủng c̣n để hậu duệ lại cho đến ngày nay:
		
		
		
		1.     Sọ Trung Hoa
		
		
		
		2.      Sọ Miêu
		
		
		
		3.      Sọ Khuyển Nhung ở Tây Thiểm Tây, mà sọ Khuyển Nhung chỉ là sọ 
		Miến Điện, mà sọ Miến Điện chỉ là sọ Mă Lai.
		
		
		
		Kỳ dị là không hề có sọ Cửu Lê, sọ Lạc, sọ Việt hay sọ nào khác để đặt 
		tên là Viêm chẳng hạn.
		
		
		
		Theo sử Tàu th́ Thần Nông làm vua được 8 đời mới bị Hiên Viên diệt. Tám 
		đời vua th́ phải lâu, và phải có để dấu vết lại. Trong khi đó th́ Cửu Lê 
		không hề có để lại một tí dấu vết tại đất Hoa Bắc. Như thế th́ làm thế 
		nào mà Thần Nông, là vua của dân Lê và Lạc được?
		
		
		
		Không hề thấy dấu vết của sọ và vũ khí của Lê và Lạc ở địa bàn của Lê và 
		Lạc. Thật là phiền cho giáo sư Kim Định v́ nó không ăn khớp với cái vụ 
		ăn cướp văn minh Việt mà Tàu là thủ phạm.
		
		
		
		Đă bảo một nền văn minh không bắt chước được khi thoáng thấy, mà phải 
		học. Nhưng chủ nhân của nền văn minh đó lại biến mất, không để dấu vết 
		lại th́ phải làm thế nào?
		
		
		
		Thế nên chúng tôi mới bác bỏ cái đám cướp tưởng tượng đó và chủ trương 
		một lối thấy khác nữa là cái ông Cổ Thiên Tử Xy Vưu đó, đến làm chủ Hoa 
		Bắc không tới 10 năm là đă gặp rủi ro, là sự xâm nhập của Tàu, chớ nếu 
		ông ta đă làm vua ở đó lâu đời rồi th́ thế nào sọ và vũ khí của dân Cửu 
		Lê cũng c̣n sót lại, ít lắm là một cái.
		
		
		
		Làm vua mới có 10 năm, hoặc 5 năm, chưa có ai kịp chết hầu để sọ lại, 
		rồi th́ bị đánh đuổi và chạy đi mất hết, nên mới không để dấu vết ở Hoa 
		Bắc.
		
		
		
		Và như vậy th́ không có vấn đề Tàu ăn cướp văn minh nông nghiệp tại Hoa 
		Bắc.”
		
		    Lập 
		luận của ông như thế khá là lẩn thẩn. Theo cổ thư Trung Hoa th́ họ  Thần 
		Nông đă từng làm chủ Hoa Bắc ,  530 
		năm sau đến đời Du Vơng th́ suy  bị 
		chư hầu là Xuy Vưu cướp ngôi. Như vậy dù Xuy vưu làm vua 5 năm hay 10 
		năm th́ dân  của ông ta đời 
		này sang đời khác cũng  đă 
		từng sống trên 530 năm ở đó chứ không phải 5-10 năm, vă lại cho dù chỉ 
		sống 5-10 năm cũng có thể để lại sọ  v́ 
		con người không phải chỉ già mới chết , chưa kể đến trận chiến ác liệt 
		xảy ra ở Trác Lộc , ta không thể nói là Cửu Lê đă chạy thóat cả nên 
		không ai bị chết , chỉ có thủ lĩnh Xuy Vưu là bỏ mạng tại hang Hung Lê.
		
		      Có 
		thể thấy rằng  B́nh Nguyên 
		Lộc do  măi tính chuyện bác bỏ thuyết của giáo sư Kim Định nên bị rơi 
		vào suy luận chủ quan , thay v́  t́m 
		hiểu xem liệu   Khuyển Nhung 
		có chỉ số sọ mà ông hàm ư là sọ Mă Lai có bao gồm Mă Lai Việt và Mă Lai 
		Chàm như ông từng nói không . Nếu phải th́ Khuyển 
		Nhung, Mă 
		Lai Chàm ,Mă Lai. Tất cả những  sọ 
		giống Mă lai ấy có phải là thuộc những bộ tộc  trong 
		Cửu Lê hay không. Ông 
		đă không làm vậy mà  mượn 
		ngay sự kiện theo ông là kỳ dị v́ không hề có sọ Cửu Lê, sọ Lạc và sọ 
		Việt ở Hoa bắc để bác bỏ thuyết của giáo sư Kim Định.
		
		
		  Riêng vấn đề yếu tố Mă Lai 
		trong người Viêt có lẽ  B́nh 
		nguyên Lộc nói không sai  v́  tại 
		Uruk  vùng Hạ-Lưỡng Hà 
		(3700BC-3100BC) có một di chỉ kép chịu sự chi phối của hai nền văn hóa, 
		ở trung tâm là di chỉ Eanna xưa kia dâng cho nữ thần Inanna của sao Kim 
		và vùng phía Tây là di chỉ Kullab  dâng 
		cho thần Trời Anu..
		
		
		    Thần trời Anu c̣n gọi là 
		AN , người Sumer gọi 
		Trời là An, kư tự cuneiform là  4 
		chiếc que  gác chéo nhau 
		thành h́nh sao 8 cánh. C̣n Nữ 
		thần Inanna  có nhiều tên gọi 
		theo từng quốc gia . Ở 
		Greco-Roman,  Inanna được gọi 
		là Aphrodite/Venus; ở Ai cập là Hathor ; 
		c̣n người Akkadian gọi Innana là Ishtar  
		         Nữ 
		thần Inanna đôi khi được viết là Inana  có 
		nghĩa là “Nữ thần của trời”( Great Lady of AN) c̣n ư nghĩa của Ishtar và 
		các tên gọi khác th́ chưa được biết. Người ta t́m được những con dấu 
		h́nh trụ Inana / Ishtar xuất hiện thường xuyên với cung tên, Inana  mặc 
		váy dài  với vương miện trên 
		đầu, với biểu tượng ngôi sao 8 cánh hoặc 16 cánh giống hệt như ngôi sao 
		trên mặt trống đồng. Nhiều tượng nhỏ được t́m thấy Inana khỏa thân, một 
		vài h́nh ảnh hoặc tượng Inana có bàn tay người nhưng bàn chân là bàn 
		chân chim  và  mang 
		trên người đôi cánh chim .
		      Rơ 
		ràng  là có nhiều nét văn hóa 
		vùng Lưỡng Hà trong văn hóa Chăm và văn hóa Việt. Những chiếc thuyền 
		h́nh lưỡi liềm , những ngôi sao trên trống đồng , đàn chim sếu bay , 
		những h́nh người có cánh chim. Đặc biệt là không như những tên gọi khác 
		rất xa lạ, tên gọi của nữ thần Inana gần với tên gọi  thánh 
		mẫu Thiên Y ana  của 
		Việt và Po Ino 
		Naga của Chăm. Tượng 
		nữ thần Inana  cũng tṛn trịa 
		, mũm mĩm như tượng Chăm. Tượng Bà Po Ino Naga của Chăm ở Nha Trang ngày 
		xưa cũng trần truồng, sau này người Việt thờ Bà nhưng  không 
		để trần truồng mà mặc quần áo cho Bà và gọi là thánh mẫu Thiên Y Ana , 
		ở  B́nh Thuận người ta c̣n gọi Bà là Mẹ “Xứ Sở”.  Liệu 
		tên gọi “Xứ Sở”  có liên quan 
		ǵ đến “Suse” ?
		
		         Mặc dù có sự gần gũi 
		, gắn bó giữa Chăm với Việt , Chăm-Việt đă từng sát cánh chống giặc 
		ngọai xâm phương Bắc nhưng tôi cho rằng cũng cần nghiên cứu thêm xem 
		Chăm có phải là Âu cơ của Việt , bởi theo cổ sử Trung hoa vào thời 
		Nghiêu Thuấn, tàn dư của Cửu Lê đă kết lại thành Tam Miêu chống đối lại người 
		cầm quyền nên đă bị đày ra Tam Nguy Sơn cạnh sa mạc Đôn Ḥang . Khi ấy 
		có lẽ Mă Lai Chăm đă kết thân với Nhục Chi ở Tây Vực và có giai đọan 
		chịu ảnh hưởng văn hóa vùng Bắc Ấn.C̣n  Mă 
		Lai Việt có lẽ chỉ quanh quẩn ở hành lang Cam Túc . Văn hóa Qijia tại  di 
		chỉ  Xishanping  ở 
		Cam túc có niên đại 2250BC người ta khai quật được nhiều xẻng đá và các 
		công cụ dùng trong nông nghiệp được làm bằng đá hoặc xương động vật 
		trong đó có kim may bằng xương có lỗ là công cụ lao động mà vùng Lưỡng 
		Hà đă có từ trước 3000  BC. 
		Tuy rằng xẻng đá ở nơi này không phải là lọai xẻng đá lớn như xẻng đá ở 
		di chỉ  phía nam Quảng Tây và 
		xẻng đá  ở 
		di chỉ  phía Bắc Việt Nam là 
		khu vực có người Tày Nùng sinh sống , nhưng tôi cho rằng ba vùng văn hóa 
		này  có chung nguồn gốc.
		       Theo 
		Pierre Amiet , trong “Phương đông thời cổ đại”, ở Susiane thời đó đă có 
		hai quần thể dân cư vùng Lưỡng Hà và vùng núi ḥa nhập khắng khít với 
		nhau, sau đó cư dân vùng Susiane đă cắt đứt quan hệ với vùng cao nguyên 
		Iran để ḥa nhập với nền văn hóa Lưỡng Hà , đọan tuyệt với kỉểu đồ gốm 
		sơn vẽ và vùng Susiane khi ấy bị bỏ trống. Từ cuối thiên niên kỷ V, vùng 
		Susiane giàu có hơn nhờ những thứ từ vùng Lưỡng Hà đưa tới và thành Suse 
		đă được xây dựng, dân thành Suse đă cắt đứt quan hệ với với vùng Lưỡng 
		Hà ḥa nhập một cách độc đáo với dân vùng cao nguyên lập nên văn minh 
		tiền Elam, đặc 
		biệt có hai thành phố : Suse ở vùng đồng bằng và Anshan ở vùng cao 
		Tall-i Malayan.             
		
		         Theo ư tứ trên mà 
		suy th́ khỏang cuối thiên niên kỷ V, đầu thiên niên kỷ IV có lẽ dân ở 
		vùng Susiane đă cắt đứt quan hệ với vùng cao nguyên Iran để đến Uruk và 
		sau đó sáp nhập di chỉ Kullab vào Eanna , nam thần trời Anu khi ấy được 
		thờ trong đền E’anna cùng với nữ thần trời Inana, c̣n dân cư ở di chỉ 
		Kullab mà tôi cho là con cháu của ḍng Cao Lang, là người Việt cổ,  có 
		lẽ đă di cư đến vùng đất Susiane bị bỏ trống ḥa nhập với cư dân Anshan 
		ở vùng cao Tall-i Malayan lập nên văn minh Tiền Elam
		
		
		         Dân vùng Lưỡng Hà 
		gọi trời là “An”, người Trung Hoa và Việt gọi trời là “Thiên”.
		
		         Người 
		Việt không gọi trời là An   nên 
		địa danh An Sơn ở vùng người Việt sinh sống  nh ư  : 
		Tuyên quang, Bắc giang, Thái nguyên, Cao Bằng , Ninh B́nh được gọi là 
		Yên Sơn c̣n những vùng có người Chăm sinh sống như :Ninh Thuận,  Quảng 
		Nam, Hải Dương  đều được gọi 
		là An Sơn.
		       Ờ 
		Trung hoa có một Anshan ở 
		Liêu ninh thuộc miền bắc và một Anshun  ở 
		Quí châu  thuộc miền Hoa nam. 
		Người Trung hoa  gọi người  Việt 
		là dân An nam .Vị vua thay thế đời vua Hùng Vương cuối cùng của Việt là  An 
		Dương Vương cho thấy mối liên hệ giữaViệt với  cư 
		dân vùng  Anshun . Tôi cho 
		rằng Quí Châu và Quảng Tây  thời 
		Chiến quốc là nơi cư ngụ của nàng Âu cơ mà người Trung Hoa sau này gọi 
		là Tây Âu Lạc , là địa bàn của người Tày, là người ở vùng cao Tall-i 
		Malayan có quan hệ huyết thống với Việt . Người Tày tự gọi họ là Tày mà 
		theo tôi tên tự gọi này có nguồn gốc từ  nơi 
		tổ tiên họ đă từng sinh sống là (Tall-i)  Malayan. Đó không chỉ là tộc 
		người  có quan hệ gắn bó với 
		Việt như Chăm mà c̣n là một nửa của Việt.
		  C̣n 
		dân tộc Chăm  theo  các 
		nhà nghiên cứu cũng như những ghi chép thời xưa cho là dân của nước Lâm 
		ấp , dân tộc này cũng có hai ḍng là ḍng cau và ḍng dừa . Theo tôi , 
		người dân nước Lâm Ấp thời Tần cũng sống quanh quẩn ở vùng Anshun, cho 
		đến năm 248 , xảy ra cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu nhà Đông Ngô cử Lục 
		Dận làm An Nam hiệu úy, tức thứ sử, sang Giao Châu dẹp loạn. Sau khi dẹp 
		xong cuộc khởi nghĩa này, Lục Dận đem quân xuống chiếm Khu Lật, bắt theo 
		hàng ngàn thợ khéo tay dâng cho nhà Đông Ngô. Những vùng đất bị quân Lâm 
		Ấp chiếm đóng đều bị lấy lại.Có lẽ thời điểm này dân Lâm Ấp đă di cư 
		xuống Luy Lâu. Hiện nay có một huyện ở  Sơn 
		Đông –Trung quốc cũng  mang 
		tên là Lâm Ấp và một đơn vị cấp thị có tên là Nhật Chiếu . Tôi ngờ rằng  trước 
		kia một trong hai ḍng cau-dừa là người Hạ ở đất Tề thuộc tỉnh Sơn Đông, 
		là người Elam hỗn chủng với Khương tộc thành Khuyển Nhung và Thân Nhung, 
		là người Bộc đă từng giữ vai tṛ  chủ 
		đạo trong nhóm Lạc thuộc Đông Di ở phía đông vùng Hoa Bắc . Đất Tề khi 
		xưa  được nhàChu phong 
		cho Khương tử Nha  là nước 
		Khương Tề . Khỏang 672BC ,  Trần 
		Ḥan  từ nước Trần sang phụng 
		sự Tề Ḥan công. Con cháu của Trần Ḥan về sau giết vua Tề để nắm quyền 
		bính. Do âm 
		Trần và Điền cổ gần giống nhau nên 
		được chép 
		thành Điền. Năm 386 BC Điền Ḥa 
		được nhà Chu phong 
		làm Tề Hầu. Năm 379 BC , họ  Trần 
		chính thức thay thế Khương Tề, được chép là Điền Tề.  Năm 
		221BC, Điền Tề  bị 
		Tần diệt,  vùng 
		đất của Tề  được 
		Tần lập thành các 
		quận Tề và Lang Dạ.
		
		
		        Liên hệ và phỏng đóan 
		như trên kể  cũng hơi mơ hồ 
		nhưng lại lư giải được bí ẩn của mảnh gốm màu gạch có chữ Trần được khắc 
		bằng chữ Hán  t́m thấy ở di 
		chỉ Chăm thuộc thánh địa Mỹ Sơn. Trong thực tế Chăm-Việt Tày –Nùng có 
		nhiều phong tục tập quán khá giống nhau. Trong khi các dân tộc khác hay 
		đặt tượng kỳ lân ở cổng th́  Việt 
		có thứ tượng không giống ai, đó là tượng con Nghê mà qua dáng ngồi cho 
		thấy tiền thân của nó là con chó, các nhà nghiên cứu cho biết chó là con 
		vật phổ biến ở vùng Địa Trung Hải. Trong 
		thần thoại vùng Địa Trung Hải và Cận Đông, h́nh tượng chó, kẻ canh giữ 
		gia súc đă sớm chuyển thành kẻ canh giữ thế giới âm phủ, 
		ở vùng Lưỡng Hà đôi khi người ta khai quật được ngôi mô người chôn chung 
		với chó. Ở 
		Lai châu ( Leizhou) thuộc Quảng Đông  là 
		nước Nam Việt của vua Triệu Đà , người ta cũng khai quật được hàng trăm 
		tượng chó đá đủ cở, đủ kiểu,  di 
		chỉ Chămpa cũng có tượng chó đá nhưng không nhiều bằng voi đá, ḅ đá có 
		lẽ do ảnh hưởng Hồi giáo . Về ẩm thực cổ sử chép tộc Lê ( Cửu Li) trồng 
		lúa nếp và hay ăn nếp th́ người cổ Việt- Tày –Nùng- Lê –Chăm cũng đều 
		hay ăn nếp, những lọai bánh cổ truyền như: bánh dầy, bánh chưng, chè 
		trôi nước , cơm lam, bánh ú, bánh khảo, các lọai  xôi 
		đều được làm bằng gạo nếp. Mặc dù dấu tích  của 
		hạt gạo được t́m thấy ở di chỉ Hemudu bờ nam sông Dương Tử rất sớm nhưng 
		có thể đó chỉ là lọai lúa hoang. Bắt đầu từ 3000 BC Thần Nông mới phát 
		minh ra cái cày và người Hạ  là 
		tộc người phổ biến phưong thức tát nước vào ruộng. Chữ Lê  trong 
		cửu Lê đựoc viết như họ Lê , trong chữ ấy có lúa Ḥa, có Nhơn, có Thủy 
		do vậy tôi ngờ rằng tộc Hạ  là 
		một tộc trong Cửu Li , là tộc người ở xứ Tiền Elam đă phổ biến cách 
		trồng lúa nước cũng như nghề nuôi tằm dệt lụa đến Trung Hoa .
		
		
		       Nghiên cứu về văn học 
		cũng thấy bóng dáng Elam trong 
		ca dao tục ngữ của Chăm và Việt 
		.Các 
		nhà nghiên cứu cho rằng những bộ lạc Ba Tư đầu tiên từ châu Á đến khu 
		vực lănh thổ Iranngày nay vào 
		khỏang 4000 BC. Một trong những quần cư đầu tiên là Suse, sau này trở 
		thành trung tâm nền văn hóa BaTư. Suse nằm trên cao nguyên Elam, 
		cư dân ở đây gọi là người Elam. 
		Con đường buôn  bán đi từ 
		Suse qua cao nguyên Elam đến Sumer. 
		Về thơ ca Ba Tư  X Carpusina 
		và V.Carpusin trong Lịch 
		sử Văn hóa thế giới đă 
		đánh giá : “Các thể lọai thơ ca chủ yếu hồi đó là thơ tứ tuyệt (rubai), 
		thơ hai câu, đỏan ca châm biếm (kaxưđa) và trường ca ( Maxiavi). Âm điệu 
		và phúng dụ có ư nghĩa quan trọng. Thơ ca cổ điển BaTư TK X-XV đă  để 
		lại cho ta những tên tuổi bất tử .”
		
		      
		
		
		Nghiên cứu về trống đồng cũng như những vùng khai quật được nhiều trống 
		đồng như Bắc Việt và Qủang Tây cũng thấy được ngay trống đồng là sản vật  của 
		người Tày Nùng nói riêng và người Malayan nói chung. V́ thế tưởng cũng 
		không nên tranh căi nhiều về nơi xuất phát của trống đồng bởi v́ không 
		phải bỗng dưng  vua Quang 
		Trung chỉ muốn đ̣i lại Quảng Đông, Quảng Tây mà  không 
		hề đ̣i lại Vân Nam và Quí Châu. Mọi thứ đều có căn nguyên của nó.