|
Tặng phẩm của ngôn ngữ: Thói “ăn” nếp “ở” của người Việt qua cách
nóiNgô
Nguyên Dũng
Không biết có phải do
hoàn cảnh thiếu ăn thiếu mặc từ xa xưa, mà người Á Đông nói chung,
người Việt nói riêng, đặc biệt quan tâm tới miếng ăn. Ăn không phải
chỉ để sinh tồn, mà còn để hưởng thụ: Ăn đứng đầu tứ khoái. Ăn cho
sướng miệng cái đã, mấy chuyện khác tính sau.
Ở đâu lúc nào, một mình
hay nhiều mình, cũng thấy ăn. Thui thủi, trơ trọi ở nhà, lục lọi coi
có cái gì ăn cho đỡ buồn. Ra đường, đi chơi hay lo việc, trước hay
sau gì cũng phải kiếm cái gì dằn bụng. Ăn sáng, ăn trưa, ăn chiều,
ăn tối, ăn khuya. Vì vậy, trong tiếng Việt có vô số động từ đôi đi
chung với “ăn”. Điểm này không thấy có trong ngôn ngữ của các dân
tộc khác.
Nhưng “ăn” nhiều khi lại
không có nghĩa là “ăn”, mới lạ!
Tụ họp đình đám, lễ lạt
giỗ tết, người mình nói “ăn cưới”, “ăn tết”, “ăn giỗ”, “ăn cúng”,
“ăn đám ma”, … Từ “ăn” trong những nhóm chữ này rõ ràng là hành động
đưa thực phẩm vào miệng, nhai rồi nuốt, không thoát đi đâu được.
Giống như “ăn” trong “ăn khín”, “ăn chực”, cũng là “ăn”, nhưng hàm ý
không mấy tốt, tới ăn không ai mời, hoặc có mời nhưng sau đó lại
nhiếc móc sau lưng: “Cái thằng đó ưa tới nhà mình nhằm giờ cơm để ăn
khín mà không biết mắc cỡ!” Nhưng “ăn chực” trong thành ngữ “ăn chực
nằm chờ” lại ngụ ý: kiên nhẫn chờ được giải quyết một vấn đề gì đó.
Có lẽ bắt nguồn từ xưa: mỗi khi dân chúng từ những nơi xa xôi có
việc tới nhà quan ở chợ, ở tỉnh, ở kinh thành, thường đem theo đồ ăn
thức uống để lót bụng, vì biết chắc thế nào cũng phải chờ đợi lâu
lắc, lắm khi dăm ba ngày liên tiếp; ăn để chực chờ tới lượt được vô
hầu quan lớn.
Phong cách ăn uống, nói
năng giữ một vị trí vô cùng quan trọng trong truyền thống phong tục,
lễ giáo của người Việt. Con cái, đặc biệt là con gái (vì thời xưa
không được tới trường), được cha mẹ dạy cho “học ăn, học nói, học
gói, học mở”, coi như những chuẩn mực để xử thế và giao tiếp trong
gia đình, họ hàng và ngoài xã hội. Nghĩ rộng, thấy bốn món “công,
dung, ngôn, hạnh” được gói ghém gần như trọn vẹn trong đó. (Tới đây,
người viết xin được mở dấu ngoặc, đặt dấu hỏi lớn về nghĩa đen và
nghĩa bóng của cụm từ “học gói, học mở” trong thành ngữ này. Tự điển
Việt ngữ có vài cách giải thích khác nhau, không biết thực hư ra
sao?). Vậy, “ăn” khi đi chung với “nói” được hiểu là đối đãi, cư xử.
Nhưng khi cặp kè với “nhậu”, tuỳ theo cách nói, lại có nghĩa hoàn
toàn khác: “Chuyện vợ chồng người ta không ăn nhậu gì tới mình, mình
xía vô đâm ra mất lòng.” Ở đây, không biết vì nỗi niềm trắc trở gì
mà “ăn nhậu” cương quyết chia tay, không còn luyến tiếc chút dư vị
nào của “ăn uống, nhậu nhẹt” nữa, để cải trang, đổi lớp thành “dính
líu, dính dáng”. Lạ, nhưng không lớn!
Chuyện lớn chỉ thực sự
xảy ra, khi “ăn”… lỡ chung chạ với “nằm”. Mẹ quát con gái: “Hả, cái
gì? Bộ đui hay sao mà mày ăn nằm với cái thằng trời đánh thánh đâm,
lưu manh láu cá đó? Trời ơi là trời, con ơi là con!” Nhất định là
phải có “ăn” vô đây thì “nằm” mới trọn nghĩa “tằng tịu” của nó, và
được dùng để ám chỉ những trường hợp chung đụng xác thịt không chính
thức. Vợ chồng với nhau, không ai (hoặc không nên) nói “ăn nằm”, mà
nói “ăn ở”. Khi người vợ rưng rưng nước mắt trách cứ: “Vợ chồng mình
ăn ở với nhau bảy mặt con, không còn tình cũng còn nghĩa, mình nỡ
lòng nào ăn nằm với con ở. Bây giờ, nó chang bang một bụng, em biết
ăn nói sao đây với con cái?” Nghe thương xót biết mấy! Và, “ăn nói”
trong tình huống này, có thêm nghĩa “giải thích, làm sáng tỏ”, ở đây
là lý do tại sao cái bụng chị ở không dưng càng ngày càng phình 1ớn
một cách vô cùng khó hiểu.
Chuyển qua “ăn vụng”.
Nghĩa đen ý nói “giải quyết cái đói một cách lén lút”: “Nhà tôi có
tật ăn vụng ban đêm, khuya nào cũng thức dậy, xuống bếp lục cơm
nguội.” Chuyện không sao cả. Nhưng tới lúc nàng nghiến răng trèo
trẹo cảnh cáo: “Tôi nói cho anh biết, anh mà lén tôi đi ăn vụng, tôi
biết được, đừng có trách tôi ác!” Và, tới khi bạn gái trề môi nhún
mỏ rỉ tai nhau: “Ai kêu, ăn vụng không biết chùi mép, bị vợ đuổi ra
khỏi nhà, đáng đời!”, thì chuyện đã… mọc trăng sao, đang tối thành
sáng trưng; hành động “ăn vụng” trở mặt, chỉ còn độc nhất một nghĩa
bóng: “Đã có gia đình, còn đi ngoại tình.”
Trực tiếp hay gián tiếp
cùng nghĩa với “ăn”, trong tiếng Việt có “ăn xin”, “ăn mày”: “Xin”
người khác để có miếng ăn, để sinh sống (chữ “mày” trong “ăn mày”
ngụ ý gì, có dính dáng gì tới “mày ốc”, “mày ghẻ” hay không, người
viết không rõ.) Không riêng gì ở Việt nam, mà khắp nơi trên thế
giới, đều có người ăn mày. Thậm chí, như ở Việt nam, có cả làng sống
bằng nghề ăn mày, từ đời cha tới đời con. “Ăn mày”, vì vậy, nghiễm
nhiên trở thành cái nghề. Để rồi, từ “nghề” chuyển ra “nghiệp”, đâu
mấy hồi. Sinh ra, vướng nghiệp “ăn mày”, cuộc đời hẳn nhiên rách,
rách lắm. Đâu mấy ai nhờ đó mà “ăn nên làm ra”?
Ở Pháp, tin mạng có
trang “Ăn mày văn chương”, nghe rất “ấn tượng”. Nhưng cá nhân tôi
không thấu đáo hai chữ “ăn mày” ở đây hàm ý gì. Văn chương chữ nghĩa
là tặng phẩm của ngôn ngữ dành cho tất cả chúng ta, nào phải sở hữu
riêng ai để mình xin xỏ hay đem bố thí cho người khác!
Qua tới các động từ “ăn
cắp”, “ăn trộm”, “ăn cướp” thì đột nhiên “ăn” không còn ý nghĩa là
hành động giải quyết cái đói nữa (hay có, nhưng rất gián tiếp), mà:
lấy của người khác làm của riêng.
Ca dao có câu:
Con ơi học
lấy nghề cha,
Một đêm ăn trộm bằng ba năm làm.
Thì ra, không phải chỉ
có nghề “ăn mày”, có cả nghề “ăn trộm” nữa kia. Và, cái nghề này hứa
hẹn một tương lai sáng sủa hơn nhiều. “Ăn trộm” trúng mẻ, trời ạ,
“thu nhập” ngang ngửa tới ba năm làm. Nghe bắt ham!
Dĩ nhiên, đã là nghề thì
phải có trường ốc đào tạo, để học viên rành rẽ bài bản sáu câu mùi
mẫn sau khi tốt nghiệp học đường “ăn xin”, và có chiến thuật tiến
thoái gọn gàng, êm thắm, không để lại dấu vết khi thành tài “ăn
trộm”. Theo học trường ốc ở đây, học viên không cần ghi danh, đóng
lệ phí, cũng không nên hy vọng sẽ có ngày được… bảng vàng ghi tên.
Tất cả mánh mung được “sư phụ” chỉ giáo cho “đệ tử”, và hẳn là… lén
lút theo truyền thống dân gian truyền khẩu, cha truyền con nối. Vì
vậy, không thấy lưu lại sách vở, tài liệu gì, để hậu bối đưa lên tin
mạng cho người viết… tiện việc tra cứu.
Trong văn chương, nữ sĩ
Trúc Giang tự thú trong hồi ký “Tình yêu nuôi tôi lớn”, đã “ăn cắp
thì giờ của con, của chồng để viết truyện, để làm thơ”. Động từ “ăn
cắp” được chị biểu tượng hoá, sử dụng ẩn dụ rất khéo, đọc nghe ái
ngại, không biết rồi chị có… bị sao không, có bị chồng con thưa ra
toà phạt vạ hay tù tội gì không?
Trong khi “ăn cắp” và
“ăn trộm” mang nghĩa lén lút, lặng lẽ, lấm lét lấy “cắp” và lấy
“trộm” của người khác làm của riêng, thì “ăn cướp” là dùng võ lực
lấy công khai, nhiều khi sử dụng cả dao găm, súng đạn để tước đoạt
cho bằng được.
Con ơi nhớ
lấy câu này,
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan.
Khổ cho dân mình quá!
Nhưng không phải chỉ có khổ không đâu, cũng có trường hợp dân chúng
nhờ cướp mà sướng. Thời xưa, ở Tây có anh hùng Robin Hood, ở Tàu có
“108 anh hùng Lương Sơn Bạc”. Rủi thay, chỉ sướng… ảo, vì các vị anh
hùng thảo khấu nêu trên toàn là những nhân vật huyền thoại. Thời
nay, tin mạng loan tin, ở Mỹ có anh quản lý ngân hàng “vừa bị tuyên
án 41 tháng tù giam vì tội đã lấy tiền ở một số tài khoản của ‘người
giàu’ bù vào tài khoản của ‘người nghèo’ tại ngân hàng nơi anh ta
làm việc.” Khi bị phát giác, anh được các nhà tâm lý học chẩn bệnh,
rằng anh mắc phải “hội chứng Robin Hood”. Dù vậy luật sư vẫn không
cứu vãn cho anh được trắng án. Ấy, ngoài “hội chứng ăn cắp”, còn có
thêm “hội chứng ăn cướp” nữa kia! Biết đâu chừng, dám có cả “hội
chứng ăn chực, ăn khín” nữa, mà khoa tâm lý học chưa tìm ra!
Đàn bà, con gái khi
không có gì ăn, tối tối ra đường ăn… sương, riết thành chuyên
nghiệp: mang danh “gái ăn sương”, không được ai thương hại, mà còn
bêu rếu. Thời đại bây giờ, đàn bà, con gái không còn độc quyền hành
nghề này nữa, cả nam giới và, buồn thay, ngay cả thiếu niên nam nữ
cũng nhảy vô cạnh tranh. Còn động từ “ăn đêm”, tôi nghĩ, không hẳn
đồng nghĩa với “ăn sương”, mà gần với “ăn khuya” hơn. Ngoài ra, còn
được dùng để chỉ “hành động đi kiếm mồi trong đêm tối” của muông
thú, như trong bài đồng dao ru con:
Con cò mày
đi ăn đêm,
Đậu phải cành mềm, lộn cổ xuống ao…
Ỷ mạnh hoặc vai vế lớn,
người miền Bắc nói “bắt nạt”, người miền Nam dùng động từ “ăn hiếp”,
thường nghe trẻ con hài tội lẫn nhau: “Thưa cô, trò A ăn hiếp con,
mượn con cục gôm, con đòi không chịu trả, còn kí đầu con nữa!”
Khi có kẻ thừa cơ “chôm”
của, hoặc đợi anh hùng hảo hán ra tay trước, rồi hùa theo lấy, người
Việt mình nói “ăn hôi”. “Ăn tàn” trong thành ngữ “theo đóm, ăn tàn”
cũng có nghĩa tương tự như vậy: “Cái thằng đó là hạng người ‘theo
đóm ăn tàn’, không hiểu sao mầy ăn ở với nó tới sáu mặt con!” Nghe
hèn lắm. Còn “ăn mót” nghe lại thấy tội: “Vợ chồng nó chuyên môn ăn
mót lúa của người ta mà sống”, và chẳng có gì đáng hãnh diện, vậy mà
tục ngữ có câu:
Muốn
ăn cơm ngon, lấy con nhà đi mót.
Muốn ăn canh ngọt, lấy con nhà bắt cua.
Câu đầu, tôi không biết
phải hiểu sao cho đúng. Có lẽ ở đây không hẳn chỉ nói chuyện đi mót
lúa đem về nấu cơm? Và cả hai câu hàm ý bóng gió, khuyên người đời
nên biết chọn ý trung nhân cho đúng… tâm nguyện “ăn uống” chăng?
Còn “ăn” trong “ăn quịt”
nguyên thuỷ hẳn có nguồn gốc “ăn xong, lỉnh mất, không trả tiền”. Về
sau được dùng chung cho mọi trường hợp, khi tiền bạc không được
thanh toán sòng phẳng. Hai bà chủ nợ khuyên nhủ nhau: “Chị coi chừng
cái thằng cha X, bản mặt nó bảnh bao vậy chớ chuyên môn mượn tiền
rồi ăn quịt.” Nhưng khi “ăn” cặp kè với “vạ”, ngộ nghĩnh thay, “ăn”
bay mất nghĩa gốc. “Ăn vạ” là tiểu xảo thường thấy ở tâm lý lì lợm
của trẻ con và… cầu thủ đá banh. Nhiều bà mẹ thường than phiền:
“Thằng út nhà tôi, mỗi lần đòi gì không được là lăn ra ăn vạ, khóc
lóc thảm thiết, thấy ghê lắm!” Hoặc: “Cầu thủ Y cố tình ăn vạ, thay
vì được quả phạt đền, lại bị trọng tài phạt vạ thẻ vàng.” “Ăn” trong
trường hợp này, có lẽ gián tiếp ngụ ý “cầu thắng, để đạt được mục
đích” chăng?
Tương tự như trong
chuyện bài bạc. Vợ chồng Năm Chuột sống bằng nghề “bài ba lá”. Ngày
nào đi làm về, anh Năm cũng bị vợ vặn hỏi: “Bữa nay ăn thua sao
rồi?” Không chạy đi đâu, “ăn” ở đây đồng nghĩa với “thắng”. Giống
như trong thành ngữ “ăn thua đủ”, có nghĩa “so tài đọ sức cho tới
lúc thắng thua minh bạch mới thôi”: “Tư Lùn là tay anh chị thuộc
hạng dế ốc tiêu, vậy mà gan cùng mình, dám ăn thua đủ với dế cơm Hai
Búa, không sợ sứt càng gãy gọng sao ta!” Hoặc trong “ăn gian”: Gian
lận để thắng. Nhưng nhiều khi còn được sử dụng thay cho “gian dối”:
“Cô hoa hậu ăn gian chiều cao, cao có 1 thước 55 thôi mà dám nói cao
tới 1 thước 72. Thiệt, xạo hết ý!” Chuyện nhỏ. Còn có người “ăn
gian” trí thức nữa kia! Hãy nghe chị em bạn gái tâm sự với nhau:
“Chị lấy nó về làm chồng, mới biết nó là đứa ăn gian bằng cấp, đi du
học Liên-xô chỉ được bằng phó tiến sĩ thôi, mà dám khoe mình là tiến
sĩ, nghe có tức không?”
Có ai muốn dằn mặt, cảnh
cáo kẻ khác, chỉ cần đeo vũ khí, đạn dược cho “ăn” là đủ: “Nói cho
mầy biết, chớ có đụng vô con nhỏ đó, chồng nó cho mầy ăn dao tức
thì!” Hoặc khi đi chung với những hành động không mấy nhẹ nhàng như
“tát”, “đấm”, “đá”, v.v… thì “ăn” có nghĩa “nhận lãnh, lãnh lấy hậu
quả” không mấy êm đẹp. “Con bé coi vậy mà dữ, tao chỉ mới khều mông
một cái nhẹ hều, đã bị nó cho ăn tát.” Đối với trẻ con, ăn gì cũng
thích, chỉ không hảo mấy món “ăn đòn”, “ăn roi”, “ăn chổi lông gà”,
v.v… mà thôi.
Gặp trường hợp bà mai
đưa ảnh cho anh chàng kiếm vợ coi mặt, thòng theo câu nói: “Tại con
nhỏ chụp hình không ăn ảnh, chớ ngoài đời cổ ngó coi đẹp gái lắm,
chú à!”; hoặc có ai đó chặc lưỡi xuýt xoa: “Cô đào X lúc nhỏ té
thùng đinh, mặt rỗ như tổ ong, vậy mà phấn son lên sân khấu, ăn đèn
dễ sợ!”; từ “ăn” mất bén nghĩa gốc, mà có nghĩa “thích hợp, hoà hợp”
với kỹ thuật chụp ảnh, trong “ăn ảnh”, cũng như với ánh đèn sân
khấu, trong “ăn đèn”.
Nghĩa cũng gần như vậy,
người Việt nói “ăn nhịp”, thường được sử dụng khi đàn ca hát xướng,
và “ăn khớp” để chỉ trường hợp nói năng, hành động sao cho hợp lý,
không mâu thuẫn nhau. Anh dẫn em đi quán bia ôm, trước khi về nhà,
dặn dò thằng em: “Má hỏi, mày nhớ nói là mình đi ăn sinh nhật cho ăn
khớp, không thôi bả đánh cho nát đít!”… Cùng nghĩa như vậy, nhưng đi
đôi với tiếng… nước ngoài, Việt ngữ có động từ “ăn rơ”, với “rơ”
được phiên âm từ jeu (trò chơi, cuộc chơi) của tiếng Pháp mà ra.
“Trời ơi, chị em nhà Williams chơi quần vợt đôi ăn rơ với nhau hết
sức.” Lẽ đương nhiên, cách nói này chỉ bắt đầu thông dụng từ khi có
mặt người Pháp, ở thành thị, cũng như trong giới có… ăn học.
Phần trên có nhắc tới
động từ kép “ăn ở”, ngoài ý nghĩa “đời sống vợ chồng” còn hàm ý chỉ
“cách xử thế, đối đãi” với nhau, như trong trường hợp vợ Năm Chuột
than thở cùng chồng: “Lúc nào vợ chồng mình cũng ăn ở hiền lành,
phước đức, mà sao nghèo hoài hổng biết!”, nhưng khi người mẹ xẳng
giọng với anh con trai đã ngoài năm mươi mà vẫn còn độc thân: “Mầy
cứ ăn ở keo kiết như vậy, có chó nó lấy mầy làm chồng.” Hoặc khi cô
con gái lắc đầu nguây nguẩy: “Con không ưng anh ấy đâu, người gì mà
ăn ở dơ dáy như heo!”, nghĩ kỹ, thấy ra “ăn ở” đổi nghĩa hoá thành
“thói ăn nếp ở” hoàn toàn có tính cách cá nhân, không đụng chạm gì
tới người khác.
Thành ngữ Việt nam có vô
số câu liên quan tới “ăn”. “Ăn không”, tiếng miền Nam, cùng nghĩa
với “ăn vã”, tiếng miền Bắc, ý nói, chỉ ăn món chính, không kèm theo
cơm, cháo, v.v… Khi đi chung với “ngồi rồi”, thành “ăn không ngồi
rồi”, có nghĩa “rỗi việc”, nhưng không mấy tốt, gần như “vô tích
sự”: “Từ khi anh ấy bị muỗi voi chích tới giờ, suốt ngày ảnh ăn
không ngồi rồi, bí rị một chỗ, thấy chán lắm!”
“Ăn xổi”, với trạng từ
“xổi” (”qua loa, tàm tạm”, thí dụ: cà pháo muối xổi), thuần tiếng
Bắc, đi chung với “ở thì” (”ở ngắn hạn, nhất thời, có giai đoạn”),
thành “ăn xổi ở thì”: nghĩa đen ý nói kẻ nào ăn ở với ai đó một thời
gian ngắn để trục lợi, nghĩa bóng ám chỉ hạng người chỉ biết lợi
dụng, bạc tình bạc nghĩa. Truyện Kiều có đoạn, khi chàng Kim lơi lả
buông lời ong bướm (ngôn ngữ hiện đại nói là “thả dê”) đòi… ăn nằm,
nàng Kiều bèn thỏ thẻ xổ… Nho và thành ngữ cảnh giác:
Phải điều
ăn xổi ở thì,
Tiết trăm năm, nỡ bỏ đi một ngày!
Rõ là nàng Kiều được
Vương ông Vương bà dạy cho “học ăn, học nói, học gói, học mở” khéo
thì thôi!
Khi đứng trơ trọi một
mình, “ở” có nhiều nghĩa, và không phải chỉ giữ vai trò động từ:
“Anh ở lại đây với em tối nay nghe! Ở một mình, em sợ ma quá hà!”,
mà cũng có thể là giới từ chỉ định xuất xứ, vị trí: “Cô ấy ở quê mới
lên, nên ưa đi chân không ở trong nhà.”
Khi “ở” kết bạn với “đậu”,
có nghĩa “sống nhờ, sống cậy” vào người khác. Với “đợ”, hoặc với
“người” thành “người ở”: “tới sống chung để giúp việc nhà có lãnh
lương”. “Con nhỏ đó ở dưới quê lên Sài gòn ở đậu nhà bà con, chờ
kiếm ra chỗ ở đợ.” Với “vậy”, theo tôi, có hai nghĩa: “ở vá”: độc
thân, không lập gia đình” (có tự điển ghi thêm, “vá” cũng còn có
nghĩa như “goá”). Hoặc, “ở goá: sau khi vợ hoặc chồng chết, không
lấy người nào khác.” V.v… và v.v… Tựu trung, trong tất cả những
trường hợp nêu trên, “ở” có nghĩa “hoàn cảnh gia đình”.
Ở trên có nhắc tới “ăn
không”, với “ở” ta có “ở không”: rảnh rỗi, không làm gì cả. “Nhân
lúc vợ ở cữ, thi sĩ ở không, bèn lấy giấy viết tí toáy làm thơ tình
gởi đăng nhật trình.” Tới đây, ta có thêm “ở cữ”: hoàn cảnh, thời
gian sau khi sinh nở, cần kiêng cữ.
Thời trước, thi sĩ trào
phúng Tú Mỡ có làm bài thơ tựa đề: “Sư cô ở cữ”.
… Nhưng rồi một
sáng mùa thu,
Người ta thấy vị ni cô sượng sùng.
Bụng đeo cái trống cà rùng,
Đến nhà thương để tìm phòng khai hoa …
“Ăn” với “ở”, tóm lại,
thường đi đôi với nhau như hình với bóng, như đũa có đôi, như môi
răng, miệng lưỡi đặc thù hương vị ngôn ngữ của người Việt. Người
viết xin được kết thúc bài tiểu luận ở đây với câu ca dao “hậu hiện
đại” tự biên tự chế:
Ăn có đũa,
ở có đôi.
Bậu ơi, khéo giữ trọn đời có nhau.
(tháng 10.2009)
|