Home T́m Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
 
Tiếng xưng hô trong gia đ́nh Việt Nam (31/10/2013 08:15:41 )
 

Không biết trên thế giới có dân tộc nào như người Việt Nam, dùng tiếng “nhà tôi” khi vợ hoặc chồng nói về bạn đời của ḿnh với người thứ ba. “Nhà” gợi h́nh ảnh lớn lao, vững chăi, dầu là nhà tranh vách đất.

“Nhà” cũng là nơi đùm bọc, chở che, lưu trữ bao nhiêu giá trị về mặt tinh thần cũng như cất giữ bao nhiêu vốn liếng về mặt vật chất. Đó là khởi điểm để mỗi sáng mai con người cất bước ra đi, vừa là tụ điểm để khi chiều xuống con người quay gót trở về.

Đối với người Việt, nhà có ư nghĩa quan trọng chừng nào! “Sống cái nhà, già cái mồ”, nhà là điểm tựa, là dinh lũy trong cuộc sống, nhà bảo vệ con người trước những đe dọa thiên nhiên từ cái thời tiết bốn mùa mưa nắng đến thú dữ các loài.

Giá trị của nhà có thể biến đổi, nhưng không suy giảm theo với thời gian: nhà mới thường được thiên hạ ăn mừng với những quà tặng và những mâm cơm hoan hỉ, nhưng nhà xưa luôn được sự tŕu mến, kính yêu. Được quay trở về với mái nhà xưa là niềm hy vọng và nguồn an ủi vô cùng sâu đậm.

“Nhà tôi” là một danh xưng b́nh đẳng cho vợ và chồng. Tính b́nh đẳng ấy vốn là đặc điểm ở trong gia đ́nh Việt Nam ta xưa, trước khi tập nhiễm quan niệm chồng chúa, vợ tôi vay mượn từ ngoài. “Nhà tôi” c̣n là tiếng nói của ḷng âu yếm, của sự kính nể. “Nhà tôi” ám chỉ mỗi một cá nhân nhưng lại bao hàm cả một cộng đồng.

Tiếng “nhà tôi” ấy như muốn khẳng định một niềm chung thủy. Ai cũng quyến luyến ngôi nhà đă ấp ủ ḿnh, và dầu có việc đi xa vẫn mong quay về chốn cũ, t́m lại hơi hướng quen thân. Không ai có thể phản bội lại ngôi nhà ḿnh. Trái lại, con người luôn có ư hướng vun bồi, tô điểm cho ngôi nhà ấy thêm vẻ tươi đẹp, khang trang - tô lại nền gạch, xây thêm bờ tường, treo những bức tranh, sắp xếp, trưng bày sao cho vừa bụng của ḿnh mà cũng đẹp mắt cho thiên hạ.

Có lần trong cuộc trao đổi với kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, nhà thơ Cù Huy Cận đă nói về tiếng “nhà tôi” mà ông cho rằng có một ư nghĩa nhân bản sâu xa. Hẳn rằng đa số chúng ta đều đồng ư với nhà thơ lớn. Và tiếng “nhà tôi” c̣n đó, trong ngôn ngữ Việt, như một chứng tích của một quan niệm vợ chồng, của một liên hệ lứa đôi, cần được trân trọng bảo tồn.

Ngoài tiếng “nhà tôi” ở ngôi vị thứ ba, ngày xưa người Việt quen dùng tiếng “ḿnh” ở ngôi vị thứ hai, giữa vợ và chồng. Tiếng “ḿnh” cũng mang tính cách b́nh đẳng, ra ngoài đẳng cấp và ngoài giới tính. Dĩ nhiên, vợ chồng không thể gọi nhau bằng “đầu” - chẳng hạn: “Đầu ơi! anh yêu đầu lắm” - v́ tuy quan trọng nhưng đầu ở trên thượng đỉnh cao vời, có tính năng động của sự xét nét, khó mà gần gũi. 

Cũng không thể gọi nhau bằng “tay chân”, v́ nó lèo khoèo, ḷng tḥng, có vẻ bất ổn và không đủ sức bảo đảm cho một tin yêu. Chỉ có tiếng “ḿnh”, với cái khối lượng lớn lao trong một con người, mang nhiều cơ năng trọng yếu cho sự tuần hoàn, hô hấp, dinh dưỡng và cả truyền lưu ḍng giống, tiếng “ḿnh” thân mật và êm đềm ấy, gần gũi và ổn định ấy, là tiếng xưng hô riêng biệt của người Việt Nam vốn muốn thấy trong hôn nhân một sự ḥa đồng, ḥa nhập, một sự kết hợp đầy tính thống nhất giữa hai con người, có thể ở những hoàn cảnh, ở hai tŕnh độ, ở hai chân trời rất cách biệt nhau, nhưng đă chấp nhận phối hợp để thành một người duy nhất đầy đủ giá trị cũng như quyền năng.

Trên vài thập niên vừa qua, trong khi tiếng Việt xuống cấp, thể hiện qua nhiều hiện tượng như lầm lẫn tiếng Hán Việt với tiếng Việt (chẳng hạn điểm yếu lại viết yếu điểm); như sự lặp đi lặp lại những tiếng thừa thăi (chẳng hạn nói chung, nói riêng); hoặc sự đảo ngược ngôn ngữ một cách quái gở (chẳng hạn một thời dấu yêu); và xấu hổ nhất là trộn ngoại ngữ vào tiếng Việt, trong khi chúng ta có thừa những tiếng đẹp hơn để dùng (chẳng hạn sống hot, tuổi teen...) và cái tiếng ḿnh lại được lạm dụng vào ngôi thứ nhất một cách tồi tệ.

Ảnh mang tính minh họa. (Nguồn ảnh: honviet)
Ảnh mang tính minh họa. (Nguồn ảnh: honviet)

Ai cũng thừa biết trong sự giao tiếp thân t́nh, với những đối tác b́nh đẳng, người Việt mới dùng tiếng ḿnh để nói về ḿnh. Nhưng điều kỳ quặc hiện nay là thường nghe, thấy trên đài những người lại dùng tiếng ḿnh để nói về ḿnh trước một số đông, với những đối tác không phải thân quen, có những đối tượng cao niên hơn ḿnh. Có lần tôi hỏi anh Cao Xuân Hạo - v́ biết anh chuyên về ngôn ngữ học - tại sao lại có hiện tượng đó th́ anh suy nghĩ rồi mới trả lời: “Có lẽ họ bắt chước các dân tộc thiểu số”.

Chúng ta thông cảm đồng bào dân tộc thiểu số khi dùng tiếng ḿnh thay cho riêng tôi, v́ sự hiểu biết tiếng Việt của họ có hạn chế, nhưng với những người Việt Nam - dầu là thất học - cũng không được phép lầm lẫn như thế. Sự lầm lẫn này c̣n làm thương tổn đến một đặc tính của ngôn ngữ Việt, ở sự xưng hô trong các quan hệ gia đ́nh. 

Bởi người Việt Nam qua các vị trí và những tương quan gia đ́nh không có những tiếng gọi chung nhưng được phân biệt khá rơ, và ngoài hai bên nội, ngoại c̣n có chú, bác, cô, d́, cậu, mợ… đ̣i hỏi có sự chính xác trong khi giao tiếp, xưng hô. Với những con người ở xa, lâu ngày mới có dịp gặp gỡ lại bà con thân tộc dễ thấy lúng túng trong khi chào hỏi v́ không rơ được vị thế, danh xưng từng người.

Một đặc điểm nữa là người Việt Nam không chỉ trao đổi ư tưởng bằng những ngôn từ mà c̣n sử dụng cung bậc trong cách phát âm làm một yếu tố diễn đạt. Nếu nghe một người lớn gọi, người trẻ “dạ” tiếng gọn, nhẹ th́ có nghĩa là “đă nghe rồi, và xin chấp hành”, nhưng nếu tiếng “dạ” được cất cao lên th́ có nghĩa như chất vấn trở lại, rằng “tôi chẳng hiểu nói ǵ” và nếu tiếng “dạ” kéo dài nặng nề rồi trầm hẳn lại th́ có nghĩa là “biết rồi, khổ lắm, nói măi”.

Có lẽ v́ tiếng Việt đậm tính thanh nhạc, là một bản sắc của ngôn ngữ Việt nên trong giao tiếp không thể không biết đến đặc điểm ấy. Tuy rằng không nhiều, nhưng trong gia đ́nh, có đôi vị thứ giống nhau nhưng ở đẳng cấp khác nhau đ̣i hỏi phải phân biệt rơ cung bậc trong cách phát âm.

Xin được kể lại một kỷ niệm nhỏ minh họa cho điều vừa nói: Thời chống Pháp, sau một chuyến đi công tác vùng xa, tôi trở về lại quê nhà, đang lủi thủi băng qua một dăy rừng hoang vắng bỗng thấy trước mặt một người đi tới và tôi vui mừng nhận ra là người chú họ của tôi, cùng trạc tuổi tôi, đă có một thời cùng học chung trường. Tôi hớn hở bước nhanh đến, kêu lên: “A! Chú!” nhưng ông lặng lẽ đi qua như một con người xa lạ khiến tôi cảm thấy hụt hẫng, ngỡ ngàng.

Về sau, qua một người thân, tôi được nghe rằng ông chú đă trách móc tôi vô lễ, v́ khi gặp ông đă gọi “A! Chú!”, xem ông như một người em. Tôi rất khó chịu khi biết sự việc như thế, nên lần sau đó, trong ngày giỗ của tộc họ khi nh́n thấy ông, tôi liền chắp tay, bước tới cúi đầu nói rất nhỏ nhẹ “Thưa chú”, th́ ông kêu lớn tên tôi, rồi cười toe toét và đến ôm tôi, vỗ nhẹ vào lưng, hỏi han tới tấp đủ điều. Bấy giờ tôi vẫn nghĩ rằng ḿnh đang diễn một vai hề và nói ông chú quư trọng h́nh thức không ngờ rằng đang vồ vập thằng cháu đang rủa thầm ḿnh, trong khi lại quay mặt đi khi nó thành thật vui sướng được gặp gỡ ông.

Về sau, nghĩ lại, tôi thấy rằng ḿnh có lỗi v́ lần gặp gỡ giữa rừng tôi đă phát âm trật nhịp, không lưu ư đến vai tṛ người chú và cái đặc tính tiếp cận nặng về h́nh thức của ông, v́ ở trong gia đ́nh Việt tôi phải tuân phục quy định không thành văn ấy chứ không được quyền đ̣i hỏi người chú hiểu được ư đồ của cháu.

Ngày nay chúng ta nói nhiều về sự b́nh đẳng nam nữ, một trong những đ̣i hỏi quyết định cho sự phát triển nhân loại, và ở trong gia đ́nh Việt tồn tại khá nhiều danh xưng, di sản cửa thời phụ hệ xa xưa, như sự phân biệt nội, ngoại, dầu trên thực tế chúng ta có thể yêu thương bên ngoại nhiều hơn bên nội, và hẳn lớp trẻ ngày nay không hề cảm thấy có sự phân biệt giữa hai tiếng đó, song nếu có thể gạt bỏ được chữ nội, ngoại trong các gia đ́nh và thay vào đó những tiếng thích hợp th́ sự b́nh đẳng nam nữ không phải vướng mắc chút thương tổn nào. 

Bởi v́, ngày nay, khi gặp những người sao lục gia phả, vinh danh ḍng họ, chúng ta vẫn thấy c̣n đó một sự bất công, bởi lẽ trong các gia phả, các ḍng họ ấy, vai tṛ của người đàn ông luôn được vinh danh c̣n người đàn bà khổ công sinh đẻ, nuôi dưỡng và đóng góp phần không nhỏ cho sự dạy dỗ, xây dựng cuộc đời con cái th́ chỉ là kẻ phụ thuộc.

Trong xă hội vẫn có những người đàn ông biết điều, khi đặt tên con đă ghép họ vợ vào sau họ ḿnh, như ta vẫn gặp Đỗ Lê Thái Thụy, Phạm Trần Minh Khanh..., nhưng sự kết hợp đầy ư nghĩa ấy vẫn không giúp được cho ḍng họ mẹ có một chỗ đứng ngang tầm với ḍng họ cha.

Như thế, chuyện b́nh đẳng giới không chỉ thể hiện ở trên luật pháp mà c̣n ở nhiều lĩnh vực khác nữa, trong đó văn hóa - với một nghĩa rộng - phải được quan tâm đúng mức để khai thác được cả những vẻ đẹp từ trong quá khứ, chứ không cho những bóng ma nào đó ở trong dĩ văng c̣n có cơ hội ẩn hiện giữa cuộc sống này. 

Theo Hồn Việt

Post ngày: 10/19/17 

 

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui ḷng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những ǵ liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 10/19/17