|
Thái Hậu Dương Vân Nga
(Dương Hậu)
vợ Vua Đinh Tiên Hoàng, húy là Dương Vân Nga, không rõ
năm sinh năm mất.
Vốn là con ông Dương Thị Hiển quê ở
vùng Như Quan, Ninh Bình (có tài liệu nói bà tên là Dương Thị Ngọc Vân, con
gái Dương Tam Kha. Cũng có sách chép là Dương Thị Lập. ) rồi trở thành
vợ Ðinh Bộ Lĩnh, nên sau khi chồng bị ám hại, để lại đứa con 6 tuổi kế
nghiệp Hoàng Ðế, Dưong Vân Nga đã phải cáng đáng những khó khăn vượt quá sức
mình. Sự nghiệp thống nhất đất nước vừa được hoàn thành, bị đe doạ to nhiều
phía. Bên ngoài phong kiến phương Bắc sửa soạn đại binh xâm lược. Bên trong,
các triều thần phân biệt tranh chấp gay gắt có nguy cơ nổ ra nội chiến lớn.
Là người có tầm nhìn xa thấy rộng, Dương Vân Nga nhận rõ chỉ có Thập Ðạo
tướng quân Lê Hoàn là người có khả năng giải quyết tình hình nghiêm trọng ấy.
Khi đề cao võ công văn trí của Ðinh Bộ
Lĩnh và Lê Hoàn, những anh hùng của công cuộc thống nhất đất nước không thể
không kể đến sự cống hiến của Dương Vân Nga đối với đất nước. Có thể xem
Dương Vân Nga là cái đầu nối giữa Ðinh Bộ Lĩnh và Lê Hoàn, người làm cho
công cuộc thống nhất đất nước do Ðinh Bộ Lĩnh khởi xướng được Lê Hoàn hoàn
tất. Sự nghiệp chính trị của người phụ nữ ấy đã không được sử liệu chú ý đến
mà lại cứ tập trung vào thân phận làm vợ của bà.
Bà vốn là mẹ sứ quân Ngô Nhật
Khánh. Đinh Tiên Hoàng dẹp xong Nhật Khánh, lấy bà làm vợ, sau đó
đưa người con gái riêng của bà (tức em Ngô Nhật Khánh) làm vợ Đinh
Liễn.
Khi nghe tin Đinh Tiên Hoàng đã mất, tự quân còn nhỏ, nhà Tống muốn
thừa cơ sang cướp nước ta. Lúc quân Tống sắp kéo sang, các tướng
đồng lòng với Phạm Cự Lượng truất phế Đinh Tuệ, suy tôn Lê Hoàn lên
ngôi vua. Chính bà đã tự tay lấy Hoàng bào khoác vào vai Lê
Hoàn và giúp ông làm nên việc lớn.
Nếu Dương Vân Nga không biết đặt lợi
nước lên trên quyền lợi của dòng họ, bà có thể dựa vào một quyền thần để
chống lại quyền thần khác, ngoan cố bảo vệ ngai vàng cho đứa con nhỏ của
mình, sẽ gây ra nạn bè đảng, tranh chấp, đẩy đất nước vào hoàn cảnh rối loạn.
Vậy mà chỉ vì Dương Vân Nga đã lấy chiếc long bào choàng lên vai Lê Hoàn, về
sau lại trở thành vợ Lê Hoàn mà sử sách phong kiến đã xoá sạch công lao của
bà. Ngược lại cách nhìn nhận trên, nhân dân ta có thái độ rộng lượng và đúng
đắn. Vùng Hoa Lư còn lưu truyền thuyết đẹp về Dương Vân Nga nhằm ghi nhận
công lao của bà.
Ngày sinh: 10-08-941, ngày sinh Lê Đại Hành. 19-04-1005 Lê Đại Hành, tên thật
là Lê Hoàn, Hoàng đế nhà Tiền Lê, sinh ngày 10-8-941. Quê làng Bảo
Thái, huyện Thanh Liêm nay là làng Ninh Thái, tỉnh Nam Hà (có tài
liệu cho rằng ông sinh tại thôn Trung Lập, xã Xuân Lập, Thọ Xuân,
Thanh Hóa).
Ông theo Đinh Bộ Lĩnh, làm đến chức Thập đạo tướng quân. Vào năm
979, vua Đinh Tiên Hoàng và thái tử Đinh Liễn bị ám sát, con nhỏ
là Đinh Toàn lên nối ngôi mới được 6 tuổi. Lê Hoàn làm nhiếp chính,
lấn át quyền hành. Trung thần nhà Đinh
là Nguyễn Bặc, Phạm Hạp,
Đinh Điền nổi lên chống lại đều bị ông giết chết.
Năm 980, nhà Tống sai quân sang đánh nước ta. Lê Hoàn cùng Thái hậu
Dương Vân Nga và triều thần bàn việc chống giữ, phong Phạm Cự Lạng
làm đại tướng quân.
Phạm Cự Lạng cùng các tướng quân suy tôn Lê Hoàn làm thiên tử.
Thái hậu khoác áo long cổn cho Lê Hoàn, mời lên ngôi Hoàng đế. Lê
Hoàn lên ngôi, đặt niên hiệu là Thiên Phúc, giáng vua
là Đinh Toàn
làm Vệ Vương.
Trong năm 981 ông lãnh đạo quân sĩ phá tan quân Tống tại Bạch Đằng
và vùng biên giới phía Bắc. Năm sau, 982, ông thân chinh đi đánh Chiêm
Thành, chiếm giữ kinh đô, tàn sát, mang nhiều vàng bạc về nước.
Mất ngày 19-04-1005.
Người đời sau, nhất là các sử gia soạn “Đại Việt Sử kí toàn thư”
rất chỉ trích ông về việc lấy Thái hậu Dương Vân Nga làm vợ, tôn
phong làm Hoàng hậu. Sách còn viết trước đó ông đã thông dâm với
bà ta. Việc này không được chính sử hiện nay nhắc đến.
Nhiều nhà sử học khác ca ngợi Dương Vân Nga đã biết hy sinh quyền
lợi của cá nhân và dòng họ cho việc lớn, khi đất nước đứng trước
họa xâm lăng.
Pho tượng độc đáo tại
đền thờ Vua Lê Đại Hành
Ðó là pho tượng Thái hậu Dương Vân Nga.
Ðây là một pho tượng nữ đẹp với khuôn mặt bầu, nước da hồng, đôi mắt bồ câu.
Tuy khuôn mặt có tính ước lệ của những khuôn mặt Phật, nhưng vẫn có nét sinh
động của người phụ nữ thanh tú.
Dương Vân Nga lấy Ðinh Bộ Lĩnh lúc còn trẻ. Khi Ðinh Bộ Lĩnh
lên ngôi hoàng đế, đã phong bà làm chính cung hoàng hậu, gánh vác việc nội
trợ của cả triều đình.
Khi Ðinh Tiên Hoàng mất, con của ông và bà Dương Vân Nga là Ðinh Toàn mới
có sáu tuổi lên ngôi vua hoàng đế. Nhân cơ hội đó, giặc tống lăm le xâm lược
nước ta. Ðất nước lúc đó ở trong tình trạng " nghìn cân treo sợi tóc". Trước
nguyện vọng của dân quân đội, thái hậu Dương Vân Nga đã hy sinh quyền lợi
của con mình, lấy áo long cổn của vua Ðinh trao cho Lê Hoàn lên ngôi hoàng
để tổ chức cuộc chống Tống. Sau khi chiến thắng quân xâm lược Tống, Lê Hoàng
lập Dương Vân Nga làm Ðại Thắng Minh hoàng hậu, gánh vác việc nội trợ của
triều đình nhà Lê.
Chính vì có công "gánh vác cả đôi sơn hà",
nên sau khi mất bà Dương Vân Nga được nhân dân tạc tượng để thờ. Tương
truyền xưa kia tượng bà Dương Vân Nga được thờ ở đền vua Ðinh. Ðến thời hậu
lê, viên quan cho rằng "xuất giá tòng phu", nên mới rước bà sang đền vua Lê
rồi, người vẫn để bà quay mặt về phía đền vua Ðinh với ý nghĩa là bà vẫn có
tình nghĩa với nhà Ðinh.
Có một điều rất độc đáo là bức tượng bà
Dương Vân Nga có chiều sâu nội tâm thay đổi theo 3 góc nhìn khác nhau. Nếu
nhìn chính diện, ta thấy bà hiện lên như một bậc mẫu nghi thiên hạ, đoan
trang, phúc hậu, hơi có vẻ nghiêm nghị, lạnh lùng. Nếu nhìn nghiêng theo bên
phải (từ trong ra) bà hiện ra với khuôn mặt buồn bã, tựa như khi chứng kiến
cảnh đất nước trước nguy cơ "nghìn cân treo sợi tóc". Còn nhìn nghiêng theo
bên trái (từ ngoài vào) ta lại thấy khuôn mặt ấy đã thay đổi: gương mặt bà
thanh thoát, tươi tắn hơn với nụ cười mỉm. Cái tài hoa của người tạc bức
tượng là ở chỗ: vẫn là một con người nhưng nhìn từ những góc độ riêng ta sẽ
thấy hiện lên ba gương mặt, ba tâm trạng khác nhau.
Viên ngọc quý lưu lạc giữa nhân
gian
Văn bản Nôm "Hoàn Vương ca tích"
Bản
trường ca cổ quý giá “Hoàn Vương ca tích” là sản phẩm của tâm hồn, trí tuệ
nhân dân Hà Nam. Không rõ đã mấy trăm năm rồi, dẫu không được in ấn, xuất
bản, nó vẫn âm thầm sống trong lòng yêu quý nâng niu của dân vùng văn hóa
Liễu Ðôi.
Lấy cuộc đời Lê Hoàn làm sợi chỉ đỏ xuyên suốt
để phản ánh tình hình đất nước ta suốt thế kỷ thứ 10, Hoàn Vương ca tích là
bản trường ca lịch sử nửa huyền sử đồ sộ (trên dưới 9.000 câu thơ lục bát).
Một bức tranh sinh động, dồn dập những sự kiện
khốc liệt và những chiến công vang dội với những nhân vật lịch sử như Ðinh
Bộ Lĩnh, Ðinh Ðiền, Nguyễn Bặc, Lê Hoàn, Thiên Cang, Minh Quang, Nhữ Nương,
Phạm Lạng (Phạm Cự Lạng), Từ Mục, Dương Thiệu Nga (Dương Vân Nga), Ðinh Tuệ,
Lê Long Ðĩnh v.v. những con người có tên và không tên khác, đã có mặt thời
ấy, làm nên kỳ tích thời ấy đã được vẽ nên trong bản trường ca này.
Tác phẩm cung cấp cho ta nhiều điều ta chưa từng
biết, chưa từng nghe, kiến giải sáng tỏ nhiều điều mà ngàn năm vẫn là những
điều lờ mờ trong lịch sử.
Trong bài báo này, chúng tôi chỉ xin mời bạn đọc
lướt qua vài chi tiết, vài nét chấm phá về đất nước, con người qua mấy đoạn
thơ đặc sắc.
Lối thơ thoải mái, đầy hình tượng, giản dị mà
sâu sắc, dân gian mà cũng bác học.
Tả Dương Thiệu Nga (vợ Ðinh Bộ Lĩnh) tình ý với
Lê Hoàn, phải nói là hay, là lạ:
... Vừa qua giờ ngọ thảnh thơi
Hoàn Vương thái hậu mày vơi mắt đầy
Mây thì trải, gió thì bay
Trời xoay thì đất cũng xoay vòng tròn
Láng lai nước đổ chân cồn...
Cái đắm say, chan chứa của tình yêu quả đã lên
đến đỉnh điểm. Nàng Thiệu Nga - người đẹp lừng danh kim cổ - rừng rực tuổi
thanh xuân:
Môi son rừng rực, mặt hoa rờn rờn
Mắt kia sao mọc cờn cờn
Cổ kia đã trắng lại tròn hân hân...
Lúc nàng dạo quanh cung phủ. Cả một vùng thiên
nhiên như được tắm trong một nguồn sinh lực thanh xuân:
Ðồi đông điểm ngọc, đồi tây mây vàng.
Suối trong tựa ánh nguyệt tràn
Mây ngồi xổm, cá lượn đàn lên mây.
Chim kề mỏ, bướm xỏ mày,
Bao nhiêu suối chảy thành cây đàn cầm...
Hoàn Vương ca tích đưa ta về với đất nước Ðại
Việt thuở trước, với cái đẹp mênh mang đầy bí ẩn mà rất nên thơ. Ngòi bút
đầy chất sử học và thi ca, thấm đậm chất dân gian đưa ta đến "những vùng sự
kiện" khác biệt, không hề sơ lược, cẩu thả.
Ðây, một thoáng kinh thành Hoa Lư thuở yên bình
ngàn năm trước:
... Này thì rừng thở nguyệt xanh
Lụa là thêu dệt trải quanh chân trời
Sấu lên bãi cạn nằm dài
Hổ leo đồi nọ, trăn choài đồi kia
Ðêm thâu trăng gác ngoài hè
Rồng vàng ngũ sắc, mây che giữa trời...
... Núi Phi Vân đứng giữa trời
Nhìn xa tưởng cái khiên người bỏ quên
Nhất đẹp là núi Mã Yên
Ngựa nằm đội án dâng lên cửu trùng.
Mây xô cho núi lượn vòng
Nhấp nhô nước bạc ròng ròng suối khe...
... Cung đình mây tỏ trăng soi,
Vạc dầu lửa cháy hổ ngồi xem trăng.
Hỏa hiệu giăng khắp mặt thành,
Kì bay cho núi giăng mành về tây.
Trống canh điểm, mõ nện ngày,
Gác lâu binh đứng thành dày trượng ba...
Và vùng Bạch Ðằng - Hàm Long (còn gọi là Bái Tử
Long - Hạ Long) là nơi diễn ra trận thủy chiến khốc liệt giữa quân ta và
quân nước ngoài. Cảnh trí hãi hùng rợn ngợp trước mắt đội thủy binh nước
ngoài:
... Bãi hà sa sú hình ngơi
Ngập quá đầu người cú rúc như chuông
Mây thả cho nhũ đá buông
Một con nước cường núi lặn như nghê
Ðá ngầm tựa lũ ngạc kề
Con nước đi về chẳng biết về đâu!...
Và ngược lên vùng chiến địa Khâu Ôn (xứ Lạng)
cảnh núi non hùng vĩ, đẹp mà cũng rất đáng sợ:
... Thung Hồn cây mọc như trà
Còn như Thung Hú cảnh đà lạ thay
Tựa như một cái chảo mây,
Bập bùng mờ tỏ gió cây mây chiều.
Cỏ cao ngập ánh trăng soi
Bôn bên đá trắng cùng đòi lên mây
Ma thiêng động đám cỏ dày
Hổ chưa quen lối, chim bay nhầm đường
Hoàn Vương ca tích dài mà không lòng thòng, trừ
một số chỗ do tam sao thất bản, còn nữa rất nghiêm ngặt, chặt chẽ. Nhiều
đoạn, nhiều chỗ đạt đến uyên bác thâm trầm, dồn đọng ý tứ và hình ảnh đến
tuyệt bút.
Chỉ hiềm một nỗi tác phẩm thì lớn nhưng hiện
được bảo quản trong mấy gian nhà thấp, ẩm luôn bị mối, chuột đe dọa... Ðem
tác phẩm đến với các nhà xuất bản thì bao giờ cũng được gợi ý: tác giả
góp vốn (?). Mong các cơ quan văn hóa quan tâm gìn giữ và phát huy giá
trị tác phẩm quý này.
Theo Nhân dân
Đỗ Thích đêm nằm mơ thấy sao rơi vào mồm, tưởng là
điềm báo được làm vua, bèn định bụng sát hại minh chủ. Một hôm, Đỗ Thích
thấy vua Đinh say rượu nằm trong cung, bèn lén vào sát hại, rồi tìm giết nốt
con cả là Đinh Liễn. Triều thần tìm bắt được Đỗ Thích, đem xử tội và tôn Vệ
vương Đinh Toàn lên làm vua. Như vậy, Đinh Tiên Hoàng làm vua được 12 năm,
thọ 56 tuổi. Một vài đại thần thấy vua còn nhỏ, quyền bính nằm cả trong tay Thập
đạo tướng quân Lê Hoàn, lại nghi Lê Hoàn tư thông với Dương Thái Hậu (Dương
Vân Nga), nên cử binh mã đến đánh, nhưng bị Lê Hoàn giết sạch. Giữa lúc ấy,
nhà Tống nghe tin Tiên Hoàng mất, các đại thần nước Việt thì phân liệt,
tranh chấp gay gắt, có nguy cơ nội chiến, muốn thừa thế sang lấy nước Việt,
mới hội đạo binh ở gần biên giới. Lê Hoàn sai Phạm Cự Lượng làm đại tướng
đem binh đi chống giữ. Trước lúc tiến quân, Phạm Cự Lượng họp cả quân sĩ lại
ở trong điện nói rằng:
- Bây giờ quân địch sắp vào cõi mà vua thì còn bé,
lấy ai mà thưởng phạt cho chúng ta. Dẫu chúng ta có hết sức lập được chút
công nào, thì rồi ai biết cho? Chẳng bằng nay ta tôn Thập đạo tướng quân lên
làm vua, rồi ta đánh cũng chưa muộn.
Quân sĩ nghe nói đều hô vạn tuế. Dương Vân Nga
thay con cầm quyền trị nước cũng thấy rõ chỉ có Thập đạo tướng quân Lê Hoàn
là người có khả năng gỡ rối được tình hình nghiêm trọng cần kíp lúc này.
Huống chi ý chí quân đội cũng muốn tôn người chỉ huy của họ lên tối thượng,
thay cho vị vua 6 tuổi là con của Dương Vân Nga. Bởi vậy, Dương Vân Nga đã
lấy chiếc áo long bào choàng lên vai Lê Hoàn trong tiếng hò reo dậy trời của
quân sĩ. Sự tỏ ý nhường ngôi của Dương Vân Nga trong hoàn cảnh ấy đã biểu
hiện thái độ chính trị sáng suốt của một người thức thời, có tầm nhìn xa
trông rộng, xứng đáng được coi là anh hùng. Đinh Toàn chỉ làm vua được 8
tháng, sử gọi là Phế Đế, rồi tồn tại với tước vương (Vệ vương). Như vậy
triều Đinh làm vua được 2 đời, cả thảy 14 năm. Lê Hoàn lên thay và Dương Vân
Nga trở thành Hoàng hậu.
Lê Hoàn sinh năm 941 ở Xuân Lập, Thọ Xuân,
Thanh Hóa trong một gia đình nghèo khổ “bố dỡ đó, mẹ xó chùa”. Cha họ Lê, mẹ
là Đặng Thị Sen đều lần lượt qua đời khi Lê Hoàn còn nhỏ tuổi. Bởi vậy, cũng
ngay từ bé, Lê Hoàn phải làm con nuôi cho một vị quan nhỏ, người cùng họ.
Lớn lên, Lê Hoàn đi theo Nam Việt Vương Đinh Liễn. Dù chỉ là lính thường,
nhưng trí dũng khác thường, tính tình phóng khoáng, nên được cha con Đinh
Bộ Lĩnh yêu mến. Trong công cuộc đánh dẹp các sứ quân, Lê Hoàn tỏ rõ là
người có tài, nên được Đinh Bộ Lĩnh giao cho trông coi 2000 binh sĩ. Đến khi
dẹp yên các sứ quân, thống nhất đất nước, lập nên cơ nghiệp nhà Đinh, Lê
Hoàn được phong chức Thập đạo tướng quân, Điện tiền đô chỉ huy sứ (tổng chỉ
huy quân đội kiêm chỉ huy đội quân cấm vệ) của triều đình Hoa Lư. Lúc này Lê
Hoàn vừa tròn 30 tuổi. Cha con Đinh Tiên Hoàng mất, Lê Hoàn nhiếp chính,
trong một tình thế đầy khó khăn. Mấy đại thần nổi loạn, nhưng đã bị Lê Hoàn
dẹp tan; Ngô Nhật Khánh-phò mã nhà Đinh, bỏ trốn vào Nam, rước vua Champa
cùng hơn nghìn chiếc thuyền toan cướp kinh đô Hoa Lư, bị bão đắm hết; ngay
năm sau Lê Hoàn lên ngôi Hoàng đế, thì đại quân Tống theo đường thủy bộ xâm
lược Đại Cồ Việt. Lê Hoàn vừa triển khai lực lượng sẵn sàng chiến đấu, vừa
sai sứ đưa thư cầu hòa. Vua Tống đòi Dương Vân Nga và con Đinh Toàn sang
chầu. Tình thế bức bách, Lê Hoàn buộc phải cho quân đánh giặc quyết bảo vệ
đất nước. Ông đã tái tạo một Bạch Đằng, sáng tạo một Chi Lăng, thắng lớn
trên cả hai mặt trận thủy bộ, giết tướng giặc Hầu Nhân Bảo, diệt quá nửa
quân Tống, buộc vua Tống phải xuống chiếu lui quân. Đại thắng năm Tân Tỵ
(981) đã mở đầu kỷ nguyên Đại Việt bách thắng bọn phong kiến phương Bắc.
Không chậm trễ, Lê Hoàn dốc sức chăm lo xây dựng và bảo vệ đất nước. Bên
trong, Lê Hoàn chống cát cứ, xây dựng cơ sở của nền kinh tế. Đối với bên
ngoài, ông thi hành chính sách ngoại giao mềm dẻo, khôn khéo, nhưng kiên
quyết bảo vệ nền độc lập của đất nước. Ông là vị vua nội trị, ngoại giao đều
xuất sắc.

|