Home Tìm Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
 
ĐỊA DANH DU LỊCH THÁI NGUYÊN - CÁC ĐỊA ĐIỂM DU LỊCH THÁI NGUYÊN
ĐÌNH PHƯƠNG ĐỘĐÌNH XUÂN LA - ĐỀN ĐUỔM - THÁI NGUYÊN

Đình Phương Độ, Đình Xuân La Đền Đuổm

Đình Phương Độ - Thái Nguyên: Nằm ở làng Phương Độ (xã Xuân Phương, huyện Phú Bình, Thái Nguyên) đình Phương Độ được xây dựng vào thế kỷ 15 thờ Đức thánh Dương Tự Minh.

 

Đình Xuân La được xây dựng lên cùng thời để thờ người Anh hùng dân tộc Dương Tự Minh, thủ lĩnh phủ Phú Lương. Đình nằm trên một quả đồi thoai thoải giữa làng với kiến trúc nghệ thuật khá độc đáo.

 

Đình Xuân La đến nay còn giữ được nhiều di vật quý thuộc nhiều loại hình và niên đại khác nhau, ghi nhận lòng thành kính, sự ngưỡng mộ và ý thức bảo vệ di sản văn hóa của nhân dân.

Đình Xuân La hàng năm vẫn tổ chức các nghi lễ và lễ hội cổ truyền. Ngày hội lớn nhất được tổ chức vào ngày mùng 6, mùng 7 đầu xuân hàng năm. Trong ngày này sẽ diễn ra nhiều trò chơi dân gian và sinh hoạt văn hóa với nhiều ý nghĩa khác nhau, tạo nên không khí sinh hoạt cộng đồng náo nức, trang trọng thu hút đông đảo khách thập phương tham dự.

Đình Phương Độ nằm ở nơi cảnh quan đẹp “Trên bến dưới thuyền” cách dòng sông Cầu 50 m về hướng Đông, xung quanh có nhiều cây cổ thụ tỏa bóng xum xuê. Đình nằm ở giữa làng, còn hai Nghè ở hai bên, dân địa phương vẫn thường gọi nghè đầu làng là ‘Nghè trên”, ở cuối làng là “Nghè dưới”. hai Nghè cách Đình khoảng 400m-500m tạo thành một quần thể di tích hài hòa.

Hàng năm, nhân dân miền Phương Độ vẫn mở lễ hội, thu hút hàng vạn khách thập phương trảy hội vào Rằm tháng giêng, ngày mùng 10 tháng mười (Âm lịch). Ngày đại lễ mở hội truyền thống vào rằm tháng giêng kéo dài 3 ngày (ngày 14,15,16) có rước kiệu, múa lân, tế lễ, vật, chọi gà và vui văn nghệ thu hút đông đảo khách thập phương gần xa.

Một số hình ảnh Đình Xuân la




Một số hình ảnh Đình Phương Độ

Tổng hơp từ Internet

 
Dương Tự Minh
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
 
Dương Tự Minh còn gọi là Đức Thánh Đuổm hay Cao Sơn Quý Minh, dân tộc Tày, người làng Quan Triều tỉnh Thái Nguyên (nay là phường Quan Triều, thành phố Thái Nguyên). Ông làm thủ lĩnh phủ Phú Lương xưa, gồm các châu: Thượng Nguyên, Vĩnh Thông, Quảng Nguyên, Cảm Hóa, Vạn Nhai, Tư Nông, Tuyên Hóa (thuộc Bắc Kạn, Thái Nguyên, Cao Bằng, Tuyên Quang và một phần Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Lạng Sơn ngày nay) trong suốt ba đời vua nhà Lý: Lý Nhân Tông (1072-1128), Lý Thần Tông (1128-1138), Lý Anh Tông (1138-1175) [1].
 
Tiểu sử
 
Theo truyền thuyết và thần phả, vào triều đại nhà Lý dưới chân núi Đuổm có một bản nghèo là bản Doanh. Bản có mươi nóc nhà gianh tre đơn sơ, khuất dưới tán cây rừng, trong đó có một túp lều nhỏ tuềnh toàng không ai ngờ, đó là nơi hưu trí của một viên quan châu mục từng nổi tiếng một thời - cha của Dương Tự Minh.
Quan châu mục họ Dương, một dòng tộc đầy thế lực của người Tày ở vùng phủ Phú Lương. Ông từng là thủ lĩnh trong vùng, lập nhiều chiến công chống quân Tống xâm lược lần thứ hai trên chiến tuyến Sông Cầu. Ông vốn người trung hậu, giàu lòng nhân từ có bao nhiêu bổng lộc đều chia sẻ cho mọi người nên về già không có nhà cao cửa rộng và của riêng.
Mãi năm ông bà ở tuổi 70 mới sinh cậu con trai. Lúc bà sinh con, bỗng thấy từ túp lều bừng lên sáng rực, lấp lánh như ánh hào quang, ánh sáng ấy như tỏa ra từ đứa con trai. Do đó ông đặt tên con là Tự Minh (tự mình sáng lên) [2].
Năm Dương Tự Minh ngoài 20 tuổi, trong vùng bọn phỉ tặc hoành hành cướp phá, dân tình vô cùng khốn khổ. Dương Tự Minh thành lập đội dân binh, hàng trăm trai tráng trong vùng nô nức gia nhập đội. Đội dân binh do Dương Tự Minh chỉ huy đã chặn được sự hung hãn của bọn phỉ tặc, làng bản trở lại yên bình. Vào năm Đinh Mùi (1127) vua Lý Nhân Tông liền mời Dương Tự Minh về triều ban thưởng nhiều của cải vàng bạc, gả con gái là công chúa Diên Bình cho và tổ chức đám cưới tại Kinh đô, phong cho chức Châu mục vùng thượng nguyên và trấn trị cả phủ Phú Lương rộng lớn, một vị trí chiến lược quan trọng trong công cuộc bảo vệ biên cương đất nước. Ông chăm lo xây dựng phủ Phú Lương ngày càng phồn thịnh và có công lớn giữ yên bờ cõi phía bắc Đại Việt. Dương Tự Minh là người thông minh lanh lợi, tài năng, đức độ, thẳng thắn trung thực, có sức khỏe hơn người, được nhân dân khắp vùng biên cương yêu mến, triều đình tin cậy.
Năm Đại Định thứ 5 (1144) có kẻ yêu thuật người nước Tống là Đàm Hữu Lượng trốn sang châu Tư Lang, tự xưng là Triệu tiên sinh nói là vâng mệnh đi sứ để dụ dỗ nước An Nam. Các khe động dọc biên giới có nhiều người theo, Đàm Hữu Lượng đem đồ đảng đến cướp châu Quảng Uyên. Cả triều đình lo lắng, nhà vua cho người đi cầu hiền tài cứu nước. Lúc này Dương Tự Minh đang bị giam trong ngục chờ ngày xét xử, phạm tội vì quá lo cho dân bản ở vùng đất phía Bắc bị đói rách sau những năm bị nhà Tống chiếm giữ. Dương Tự Minh xin được gặp nhà vua để xin xung phong ra chiến trường diệt giặc cứu nước. Đích thân nhà vua trao cho ông thanh Thượng phương bảo kiếm và phong cho chức Đô đốc Thống binh, giao cho 3 vạn binh mã cùng văn thần Nguyễn Như Mai, Lý Nghĩa Vinh đi tiên phong cự chiến. Dương Tự Minh chia quân thành hai đạo, trận chiến diễn ra theo thế gọng kìm, quân Lý tiến công như vũ bão và giết chết Đàm Hữu Lượng. Sau khi dẹp yên giặc, Dương Tự Minh cho củng cố lại các vùng biên ải, ổn định tinh thần nhân dân, rồi dẫn đoàn quân chiến thắng về kinh đô. Vua Lý sai các quan đại thần ra khỏi thành đô 10 dặm để đón, nhân dân khắp các bản làng, phố thị mở hội khao quân. Vua Lý Anh Tông thiết triều ban yến và tác thành Dương Tự Minh cùng công chúa Thiều Dung tài sắc vẹn toàn. Sau đó ông cũng được điều về kinh thành Thăng Long phò vua giúp nước.
Tháng 9 năm 1138, Vua Lý Thần Tông băng hà lúc 23 tuổi, hoàng thái tử Thiên Tộ nối ngôi báu khi đó mới 3 tuổi, hiệu là Anh Tông Hoàng đế, tôn mẹ là Hoàng hậu Lê Cảm Thánh làm Thái hậu. Lê Thái hậu lại tư thông với Thái úy Đỗ Anh Vũ, cho nên phàm việc gì bất cứ lớn nhỏ đều ở tay Đỗ Anh Vũ quyết đoán cả. Đỗ Anh Vũ được thể ra vào chỗ cung cấm, kiêu ngạo và khinh rẻ đình thần, ức hiếp vua, uy hiếp quan lại trong triều. Năm Đại Định thứ 11 (1150), các tướng lĩnh chỉ huy các đội quân cấm vệ, một số thân vương như Vũ Đái, Nguyễn Dương, Nguyễn Quốc và Phò mã Dương Tự Minh thấy Đỗ Anh Vũ lộng quyền quá độ, lo trừ đi, nhưng sự không thành lại bị giết hại cả [3], Dương Tự Minh bị bắt đi lưu đày, ông sống những năm tháng cuối đời ở chân núi Đuổm và mất ở đây. Trong dân gian lưu truyền rằng, sau này khi ông trở về quê, ông cởi bỏ quần áo xuống tắm mát trong dòng sông Phú Lương quê ông để trút bỏ hết bụi trần, ông mặc lên mình bộ quần áo chàm xanh của người Tày rồi cưỡi ngựa bay về Trời.
Nhà Lý sau này truy phong ông làm Uy viễn đôn tỉnh cao sơn quảng độ chi thần, nhiều triều đại phong kiến Việt Nam ban sắc phong là Thượng đẳng thần, còn nhân dân thì tôn ông làm Đức Thánh, xây đền thờ ông ở làng Đuổm mà sau này được gọi là đền thờ Đức Thành Đuổm.
Các địa điểm thờ tự
 
 
Cổng vào Đền Đuổm dưới chân núi Đuổm.
Đền Đuổm được xây dựng năm 1180 vào thời Lý Cao Tông, dưới chân núi Đuổm, thuộc xã Động Đạt, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên, cạnh quốc lộ 3 (Thái Nguyên - Bắc Kạn), cách thành phố Thái Nguyên 25 km về phía tây bắc, từ lâu đã có tiếng là địa linh. Đây là nơi thờ tự chính Dương Tự Minh. Dưới tán cổ thụ hàng trăm năm tuổi là ba ngôi đền tôn nghiêm (thờ phủ Bà, Dương Tự Minh và thờ Mẫu), phong cảnh hùng vĩ, hữu tình, nhiều những ngọn núi đá tự thiên.
Hàng năm nhân dân địa phương mở lễ hội Đền Đuổm vào ngày 6 - 8 tháng giêng âm lịch để tưởng nhớ công ơn vị anh hùng dân tộc, cầu mong Đức Thánh Đuổm ban cho một năm mới mọi sự tốt lành, mùa màng bội thu, no ấm. Trong lễ hội có lễ dâng hương, lễ rước Đức Thánh và Lễ đọc văn tế tôn vinh cực kỳ long trọng. Lễ hội Đền Đuổm rất đông người đến dự. Đây là lễ hội quan trọng của chính quyền và nhân dân huyện Phú Lương cũng như đối với các đơn vị hành chính kế cận. Đền Đuổm là một điểm sáng về du lịch của huyện Phú Lương và tỉnh Thái Nguyên, không chỉ trong dịp Tết mà cả những thời điểm quan trọng khác của năm.
Trên cả một vùng rộng lớn từ Bắc Kạn, Thái nguyên, Bắc Giang, có nhiều nơi dựng đình miếu thờ Đức Thánh Đuổm. Ở huyện Hiệp Hòa, Bắc Giang, Đình thờ thành hoàng là Dương Tự Minh gồm có: Đình Ngọc Tân và Đình Ngọc Thành của xã Ngọc Sơn, Đình Thắng Núi xã Đức Thắng, Đình Vạn Thạch xã Hoàng Vân, Nghè Đề Thám thuộc làng Trản, xã Hoàng Thanh. Ở huyện Phú Bình, Thái Nguyên có Đình Kha Sơn Thượng thuộc xóm Tây Bắc, xã Kha Sơn là đình đã được xếp hạng di tích lịch sử. Đình này thờ thần hoàng là Dương Tự Minh. Những làng thờ Thành hoàng là Đức Thánh Đuổm cũng thường mở hội lớn suốt 3 ngày vào dịp đầu xuân, lễ rước trang trọng.
Ngoài ra, tên ông cũng được đặt tên cho một con đường ở Thành phố Thái Nguyên để tỏ lòng biết ơn và ghi nhớ công lao.

Nguồn wikipedia

 


ĐỀN ĐUỔM - THÁI NGUYÊN

Đền Đuổm - Thái Nguyên: Ðó là ngôi đền uy nghi thờ người Anh hùng dân tộc Dương Tự Minh, nằm cách thành phố Thái Nguyên 24 km, sát ngay quốc lộ 3. đền nằm dựa lưng vào dãy núi điệp trùng và hùng vĩ, quanh năm được người dân hương khói phụng thờ. 
Dương Tự Minh là vị tướng tài ba của vương triều Lý, người có công lớn trong việc giành lại phần đất đai rộng lớn từ tay giặc Tống và bảo vệ vững chắc vùng biên cương phía Bắc Ðại Việt. Ngoài ra, ông còn có công khai khẩn điền địa, phát triển kinh tế, giữ vững mối đoàn kết của dân tộc nên ông được nhà Lý phong sắc:"Uy viễn đôn Cao Sơn quảng độ chi thần" và được triều Lý gả hai công chúa. Các triều đại về sau đều có sắc, truy phong ông là "Cao Sơn quý minh thượng đẳng thần".


RỪNG CẤM - VƯỜN QUỐC GIA TAM ĐẢO - THÁI NGUYÊN

Rừng Cấm - Vườn Quốc Gia Tam Đảo: Đây là tên một dãy núi làm ranh giới cho hai tỉnh Thái Nguyên và Vĩnh Phúc. Khu rừng cấm quốc gia này có diện tích khoảng 19.000 ha. Tài nguyên rừng có trên 620 loài thân cây gỗ và thân thảo, trong đó có 40% là các loại sồi, giẻ. Cây Pơ Mu là loại đặc thù ở đây, một loại gỗ rất quý hiếm. 
Thú rừng có chừng 45 loài, trong đó có rất nhiều loài quý hiếm như hổ, báo, gấu, sóc bay, chồn mực ... Về chim, có tới 120 loài, hầu hết là các chim ăn sâu bọ. Nhiều loài chim cảnh màu sắc rực rỡ như vàng anh, sơn tiêu trắng, sơn tiêu đỏ hoặc có giọng hót rất hay như hoạ mi, khướu bách thanh. Các giống chim quý này làm tăng thêm vẻ đẹp tự nhiên của núi rừng Tam Đảo. Rừng cấm này là điểm du lịch ngoạn cảnh, nghỉ dưỡng tuyệt vời, còn có giá trị về mặt nghiên cứu khoa học, về hệ sinh thái rừng nhiệt đới và á nhiệt đới trên núi.


DU LỊCH THÁI NGUYÊN

Du Lịch thái Nguyên:Từ thị xã Tuyên Quang theo đường ôtô, đến Nà Hang rồi đi tiếp 4 km là tới khu du lịch Pắc Ban. Du khách có thể tắm mình trong dòng thác bạc, mơ màng nghe kể chuyện về sự tích cái tên “Quang Tốc” (nai rơi). Hay có thể vào rừng thăm khu bảo tồn thiên nhiên, tận mắt nhìn những loài chim lạ, xem gà lôi, trĩ sao, phượng hoàng. Hoặc có thể dùng thuyền đi câu cá; tham gia cắm trại, trượt nước. Sau đó, nghỉ ngơi thư giãn trong những căn nhà sàn mini vừa độc đáo vừa dân dã. Đến đây, bạn được thưởng thức những món ăn riêng của núi rừng: cơm lam chấm muối vừng, măng rừng chấm mẻ, canh rau đắng, đặc biệt là rượu ngô được làm bằng men là cây rừng, càng uống càng say lòng; hay thưởng thức món cá đặc sản nổi tiếng: dầm xanh, anh vũ.

Bạn có thể đến thăm các làng văn hoá của đồng bào Tày, Dao, Mông, ngắm nhìn các bà, các chị cán bông, xe sợi, dệt thổ cẩm. 
Tối đến, bên bếp lửa nhà sàn, bạn sẽ được nghe những làn điệu dân ca truyền thống như hát then, hát lượn, sli. Giọng ca của các thiếu nữ mượt mà, tha thiết những câu hát giao duyên tình tứ, cho dù đã rời khỏi Nà Hang vẫn còn lắng đọng không thể nào quên. Khi về, trong túi hành lý của bạn rất có thể là vài lít mật ong rừng, bầu rượu ngô Nà Hang, chè shan hay những kỷ vật đan lát bằng mây tre...


KHU DU LỊCH NÀ HANG - THÁI NGUYÊN

Khu Du Lịch Nà Hang: Nà Hang (tỉnh Thái Nguyên) không chỉ có những nét đặc thù về điều kiện tự nhiên hiếm nơi có được, mà còn phong phú bởi nét văn hóa độc đáo của gần 66.000 người dân thuộc 15 dân tộc, trong đó chủ yếu là các dân tộc Tày, Dao, Mông, Kinh... chung sống tự bao đời. Ông Hoàng Văn Thinh, Chủ tịch UBND huyện Nà Hang cho biết như vậy.Nằm ở vùng cao phía Bắc của tỉnh Tuyên Quang, trên vòng cung sông Ngâm, với hơn 83% diện tích tự nhiên là rừng, Nà Hang luôn có sức cuốn hút kỳ lạ của một vùng sinh thái đa dạng. 
Nà Hang có chín mươi chín ngọn núi, có những cánh rừng nguyên sinh và những con suối. Dòng sông, thác nước tuyệt đẹp là của quý mà thiên nhiên đã hào phóng ban tặng. Dòng sông Ngâm, sông Năng, những đỉnh núi cao Khuổi Tong, Loong Noòng, Bản Luốc, Pịa, Pắc Tạ... đã từng đi vào thơ, vào nhạc, gắn với các câu chuyện huyền thoại đậm tính nhân văn. Khu bảo tồn đặc dụng Tác Kẻ - Bản Bung, rộng gần 42 km2, ôm gọn trong lòng cả 5 xã: Côn Lôn, Khau Tinh, Sơn Phú, Vĩnh Yên, Thanh Tương, với hàng nghìn loài thực vật, động vật quý hiếm. Đặc biệt là loài voọc mũi hếch được ghi trong sách đỏ thế giới. Bản làng nơi đây với những nếp nhà sàn bằng gỗ, mái lợp lá cọ, những lễ hội Lồng Tông, mừng lúa mới, lễ cấp sắc... vẫn duy trì. Vào mùa xuân không gian tràn ngập màu sắc của thổ cẩm và tiếng khèn Mèo, tiếng đàn tính.

Giới thiệu khái quát về Tuyên Quang

I. Điều kiện tự nhiên

1.1. Vị trí địa lý

Tuyên Quang là tỉnh miền núi nằm ở vùng Đông Bắc nước ta, cách Hà Nội khoảng 160 km về Phía Bắc, Phía Bắc và Tây Bắc giáp tỉnh Hà Giang và Cao Bằng, Phía Nam giáp tỉnh Phú Thọ và Vĩnh Phúc, Phía Đông giáp tỉnh Bắc Kạn và Thái Nguyên, Phía Tây giáp tỉnh Yên Bái.

Tỉnh Tuyên Quang nằm ở trung tâm lưu vực sông Lô, sông Gâm có tổng diện tích tự nhiên là 587.038,5 ha, bằng 1,78 % tổng diện tích cả nước, trong đó có 70 % diện tích là đồi núi.

Về hành chính, tỉnh có 6 huyện (Na Hang, Chiêm Hoá, Lâm Bình, Hàm Yên, Yên Sơn, Sơn Dương) và 1 thành phố (Tuyên Quang) với 129 xã, 7 phường và 5 thị trấn.

1.2. Địa hình- địa mạo

Địa hình của Tuyên Quang khá phức tạp, bị chia cắt bởi nhiều dãy núi cao và sông suối, đặc biệt ở phía Bắc tỉnh. Ở Phía Nam tỉnh, địa hình thấp dần, ít bị chia cắt hơn, có nhiều đồi núi và thung lũng chạy dọc theo các sông.

Tỉnh Tuyên Quang có 5 kiểu địa hình như: Kiểu địa hình núi trung bình (độ cao từ 700- 1.500 m, Kiểu địa hình núi thấp (độ cao từ 300- 700 m, Kiểu địa hình đồi thấp (độ cao thấp hơn 300 m), Kiểu địa hình karst, Kiểu địa hình thung lũng.

1.3. Đặc điểm khí hậu

Khí hậu Tuyên Quang được chi thành 4 mùa rõ rệt: Xuân, Hạ, Thu, Đông; trong đó mùa Đông khô, lạnh và mùa Hạ nóng, ẩm, mưa nhiều.

Do ảnh hưởng của yếu tố địa hình nên Tuyên Quang có hai vùng khí hậu với nhiều nét riêng biệt: vùng phía Bắc có mùa đông kéo dài, nhiệt độ thấp, mùa hè mưa nhiều hơn; vùng phía Nam khí hậu đa dạng hơn, mùa đông ngắn hơn, mùa hè nóng hơn và thường có mưa dông. Mưa dông với cường độ lớn thường gây ra những trận lụt kéo dài nhiều ngày, đôi khi cả lũ quét, gây nhiều tổn thất cho nhân dân địa phương. Các hiện tượng thời tiết khí hậu đặc biệt tuy ít xảy ra nhưng những tác động của nó cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất và cuộc sống của nhân dân trong tỉnh.

II. Tài nguyên thiên nhiên

1.1. Tài nguyên đất

Với tổng diện tích tự nhiên là 587.038,5 ha, tỉnh Tuyên Quang có quy mô diện tích ở mức trung bình so với các tỉnh khác trong toàn quốc. Đất Tuyên Quang được chia thành 7 nhóm và 17 loại chính: Nhóm đất phù sa, Nhóm đất dốc tụ, Nhóm đất bạc màu, Nhóm đất đen, Nhóm đất đỏ vàng, Nhóm đất vàng đỏ, Nhóm đất vàng đỏ tích mùn.

Nhìn chung tài nguyên đất tỉnh Tuyên Quang khá đa dạng về nhóm và loại, đã tạo ra nhiều tiểu vùng sinh thái nông- lâm nghiệp thích hợp với nhiều loại cây trồng.

1.2. Tài nguyên nước

Tuyên Quang là tỉnh có nguồn tài nguyên nước mặt phong phú, đủ khả năng cung cấp nước phục vụ sản xuất và sinh hoạt của địa phương. Mạng lưới sông ngòi của tỉnh rất dày, có tiềm năng lớn về thuỷ điện. Tuy nhiên do độ dốc dòng chảy lớn, lòng sông hẹp nên vào mùa mưa, sông suối ở Tuyên Quang hay gây lũ lụt cho các vùng thấp.

Tài nguyên nước mặt lớn, đáp ứng đủ nhu cầu cấp nước phục vụ cho sản xuất, sinh hoạt và có tiềm năng về thuỷ điện. Tài nguyên nước dưới đất khá dồi dào, chất lượng nước tốt, đáp ứng tiêu chuẩn làm nguồn cấp nước cho ăn uống và sinh hoạt. Có nguồn nước khoáng chứa nhiều loại muối khoáng có giá trị về y tế và kinh tế.

1.3. Tài nguyên rừng

Tổng diện tích rừng của Tuyên Quang là 386.382 ha. Trong đó diện tích rừng tự nhiên là 284.673 ha, diện tích rừng trồng là 101.709 ha. Sản lượng gỗ khai thác là 215.369 m3.

1.4. Tài nguyên khoáng sản

Tuyên Quang có nguồn tài nguyên khoáng sản rất đa dạng như: đá vôi, đất sét, vonfram, kẽm, pirit, cao lanh, sét chịu lửa, nước khoáng, vàng, cát, sỏi…

1.5. Tài nguyên sinh vật

Tuyên Quang là tỉnh có hệ động thực vật rất phong phú và đa dạng. Đây là một kho tàng về gien quý hiếm.

Hiện Tuyên Quang có nhiều loài thực vật quý hiếm được ghi trong sách đỏ Việt Nam như trầm hương, nghiến, lát hoa, tuế đá vôi, hoàng đàn, mun, pơmu… Tuyên Quang có 4 lớp động vật có xương sống là thú, chim, bò sát và ếch nhái với 274 loài thuộc 79 họ, 28 bộ.

1.6. Tài nguyên du lịch

Tuyên Quang có căn cứ địa cách mạng mà ngày nay vẫn còn ghi đậm dấu ấn từ mái lán Nà Lừa, mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào, nơi ngọn lửa cách mạng đã được Đảng và Bác Hồ lãnh đạo. Cũng tại đây, trong thời kỳ chống Pháp, Tuyên Quang còn là một trong những tỉnh an toàn khu và Thủ đô kháng chiến. Bên cạnh đó, Tuyên Quang còn có khu du lịch sinh thái Na Hang, Hàm Yên, Núi Dùm, suối khoáng Mỹ Lâm,…

 


HỒ NÚI CỐC - THÁI NGUYÊN

Hồ Núi Cốc: Từ Hà Nội, xuôi theo quốc lộ 3 về phía bắc khoảng 2 tiếng xe chạy, chừng 80km là bạn đã có mặt ở thành phố công nghiệp gang thép Thái Nguyên nhộn nhịp. Rẽ trái theo đường đi hồ Núi Cốc 20km, qua những đồi chè xanh mướt nhấp nhô, những con suối hiền hoà chảy, bạn đã ở hồ Núi Cốc - một điểm du lịch có những huyền thoại về nàng Công, chàng Cốc. Khu du lịch hồ Núi Cốc được chia thành 2 khu, phía bắc hồ và phía nam hồ. Đi theo đường chính, bạn sẽ đến với khu du lịch phía bắc có đủ các nhà nghỉ mini nhấp nhô theo triền đồi, thấp thoáng dưới tán rừng cây keo lá chàm xanh mướt, các khu công viên nước, công viên khủng long, tàu điện... Giá các phòng nghỉ ở đây cũng không đắt, chừng 100.000-200.000đ/1 phòng. Sau khi nghỉ ngơi, bạn có thể dạo chơi tham quan một vòng quanh các khu vui chơi giải trí, xuống bãi tắm, hay theo cây cầu lắt léo để ra thư dãn ở những quán lá bập bềnh trên nước hồ mát mẻ, thưởng thức những món đặc sản của hồ như: Cá mè hồ Núi Cốc đủ món (có con tới 9-10kg), tôm đá, thịt dúi rừng... Nếu có thời gian thoải mái, bạn hãy cùng bạn bè, người thân thuê tàu dạo chơi để được ngắm nhìn toàn cảnh hồ. Một ca thuyền máy khoảng 300.000đ. Ghé thăm đảo Cò, với những bãi sim và rặng tre già hoang sơ là nơi trú ngụ của rất nhiều loại chim, cò... đặc biệt là cò lửa mỗi khi chiều xuống. Lượn một vòng thuyền, bạn sẽ được thăm đập tràn thuỷ lợi và khu du lịch phía nam hồ với đủ các loại dịch vụ và khu du lịch sầm uất. Dừng thuyền ở một hòn đảo nhỏ yên ả và vắng vẻ, xung quanh là trời nước, bạn hãy tổ chức một bữa ăn vui vẻ, hoặc tận hưởng những giây phút thư dãn thật khó quên. 
Núi Cốc là tên gọi một vùng đất, vùng hồ thẫm đẫm chất huyền thoại về câu chuyện tình thuỷ chung giữa nàng Công, chàng Cốc. Họ yêu nhau nhưng không thành, một người ra đi nước mắt chảy thành sông, người kia chờ đợi mỏi mòn hoá thành núi. Và chính trên con sông Công huyền thoại người ta đã cho xây dựng Hồ Núi Cốc, một hồ nước nhân tạo mang vẻ đẹp tự nhiên và trở thành một địa điểm du lịch nổi tiếng ở Thái Nguyên. 
Khu du lịch Hồ Núi Cốc được xây dựng trên một khuôn viên rộng có những cảnh quan thiên nhiên đẹp và những khu vui chơi giải trí tiện nghi hấp dẫn ở phía Bắc hay phía Nam hồ. Không khí ở đây rất trong lành mát mẻ. Xung quanh hồ là những dãy núi, cây rừng bao phủ và những đồi chè xanh mướt nhấp nhô tạo nên một bức tranh thiên nhiên sơn thuỷ hữu tình phảng phất một chút màu huyền thoại. Đứng trước hồ du khách có thể cảm nhận được sự mênh mông của nước hồ, sự bao la của đất trời. 
Hồ Núi Cốc giống như một chiếc gương khổng lồ soi chiếu tất cả mọi vật tạo nên cảnh sắc huyền ảo lung linh lúc ẩn lúc hiện. 
Đến Hồ Núi Cốc là đến với thiên đường vui chơi giải trí, những địa điểm thăm quan hấp dẫn. Du khách là người yêu thích những trò chơi muốn tìm những phút giây sảng khoái thì hãy đến với công viên nước, công viên khủng long, cá sấu... với những trò chơi hấp dẫn độc đáo đem lại những cảm giác thú vị đến không ngờ. Ngoài ra còn có khu vui chơi dành riêng cho trẻ em với nhưng trò chơi thông minh giúp trẻ phát triển về chiều cao và trí tuệ 
Du khách thích tham quan khám phá sẽ có thể lựa chọn cho mình tuyến tham quan động huyền thoại cung, động ba cây thông, động thế giới cổ tích. Ở đó du khách sẽ ấn tượng bởi những mê cung huyền ảo, được chiêm ngưỡng những kiệt tác của thiên nhiên với đủ các hình dáng khác nhau hay là đọc các câu chuyện thần tiên, câu chuyện cổ tích khắc trên vách hang. Tất cả sẽ đưa du khách vào thế giới kỳ diệu để quên đi hết những mệt nhọc những ưu phiền của cuộc sống hàng ngày và sẽ thấy lòng tĩnh tại. 
Thoát ra khỏi mê cung ấy du khách có thể đi thuyền dạo chơi trên mặt hồ, khám phá những đảo quốc xinh đẹp đầy bí ẩn. Ghé thăm đền bà chúa Thượng Ngàn linh thiêng hay vào đảo Núi Cái thăm khu trưng bày các sản phẩm làng nghề truyền thống Việt Nam với hơn 1000 sản phẩm bằng những chất liệu khác nhau như đồng gốm sứ. 
Ở chốn non xanh nước biếc này du khách có thể thưởng thức những món ăn đặc sản của Hồ Núi Cốc như cá mè, tôm đá, thịt dúi rừng... nó sẽ giúp du khách lấy lại năng lượng sau những chuyến phiêu lưu đầy thú vị và thoải mái qua đêm trong những khách sạn mini nhấp nhô triền đồi để có những giấc ngủ tuyệt vời sau một ngày vui chơi thoả thích.


HANG PHƯỢNG HOÀNG - THÁI NGUYÊN

Hang Phượng Hoàng: Hai thắng cảnh này nằm trong quần thể đá vôi, rừng đặc dụng tốt tươi, kỳ vĩ của xã Phú Thượng, huyện Võ Nhai, Thái Nguyên. Muốn lên hang, bạn phải men theo đường đá ngoằn ngoèo ngược dốc, nhiều chỗ đá tai mèo cứa vào chân ứa máu. Thách thức đó chính là sức hút của khu di tích này. 
Nhưng cái mệt mỏi, vất vả của một giờ leo núi sẽ nhanh chóng biến mất khi bạn đến đích, vừa thưởng ngoạn cảnh vật trong hang, vừa được hưởng không khí trong lành, mát rượi. Ánh sáng từ hai cửa rọi sâu vào hang, chiếu lên các nhũ đá vôi thiên tạo, thỏa sức cho du khách ngắm nhìn nào voi chầu, kỳ lân múa, mẹ bồng con, vũ nữ, bút tháp... Đáy hang có nước, cát mịn gợi mở không khí hoang sơ, thanh khiết lạ lùng. 
 
Theo con đường lát đá, suối Mỏ Gà nằm cách chân hang Phượng Hoàng 150 m. Có lẽ phải gọi là hang suối Mỏ Gà mới đúng. Vì dòng nước trong lòng hang rộng chừng 10 m, sâu từ 2 đến 6 m. Chỗ sâu, nước trong veo mát rượi ngập tới thắt lưng, chỗ nông trên mắt cá chân có cả bãi sỏi nhỏ trải dài. Không ai biết hang suối dài bao nhiêu, chỉ vào đến 300-400 m bạn đã thấy cuốn hút mê hồn. Những tảng đá như giường tiên, cột đá lô nhô phân cách các bãi tắm, bãi sỏi... để du khách nằm nghỉ tự nhiên sau những giờ leo núi, nhiều phiến đá to như cái phản, bàn uống nước nằm xen kẽ với các loài cây. Bên trong hang còn có 5, 6 thác nước cao 3-4 m tung bọt trắng xóa. 
Du khách có thể dừng chân ở các nhà nghỉ và nhà sàn nhỏ với giá khá rẻ, từ 20.000-50.000 đồng/ngày. Cao hứng bạn có thể vào bản, mua thịt lợn về nướng chả uống với rượu nút lá chuối, cơm lam, tắm suối, rồi ngả lưng trên nhà sàn.

 

BẢO TÀNG CÁC DÂN TỘC VIỆT BẮC - THÁI NGUYÊN

Bảo Tàng Dân Tộc Việt Bắc: Bảo tàng văn hoá các dân tộc Việt Nam ở trung tâm thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên được lập ra cách đây hơn 30 năm đã sưu tầm 4.000 tài liệu, hiện vật, phim ảnh có giá trị về những nét văn hoá đặc trưng của các dân tộc sống trên lãnh thổ Việt Nam. 

Ðó là bộ sưu tầm về công cụ sản xuất nông nghiệp, nghề rừng, nghề thủ công, công cụ săn bắn hái lượm, những trang phục ngày hội lộng lẫy nhiều màu sắc hoa văn trang trí độc đáo của các dân tộc ít người, trong đó có quần áo thầy cúng nhóm Tày, Nùng với những đường thêu, họa tiết ẩn chứa quan niệm về thần linh, trời phật, về thế giới âm dương bí hiểm. 
Bảo tàng văn hoá các dân tộc Việt Nam có diện tích 4.000m2 chia thành các phòng trưng bày: 
Phòng trưng bày nhóm ngôn ngữ Việt - Mường với gần 500 tài liệu, hiện vật và hình ảnh giới thiệu các di tích khảo cổ Phùng Nguyên, Ðồng Ðậu, Gò Mun. Những hiện vật về nghề nông, nghề đúc đồng của người Việt và nghề dệt thổ cẩm của người Mường. 
Phòng trưng bày nhóm ngôn ngữ Tày - Thái gần 500 tài liệu, hiện vật phản ánh cuộc sống làm nương rẫy cùng nhiều nghề truyền thống của các dân tộc Tày, Thái, Lào, Lự; các bộ áo phụ nữ và các nhạc cụ dân gian như đàn tính, sáo trúc, khèn và các lễ thức phong tục nhiều vẻ của các dân tộc ít người. 
Phòng trưng bày nhóm ngôn ngữ H''Mông - Dao với gần 600 tài liệu, hiện vật, phản ánh tập tục canh tác nương rẫy, ruộng bậc thang, các loại vũ khí săn bắn, và trang phục của các dân tộc H''Mông - Dao. 
Bảo tàng các dân tộc Việt Nam là nơi hội tụ các màu sắc dân tộc, là nơi giúp cho người tham quan tìm hiểu về cuội nguồn, về truyền thống văn hoá của các dân tộc trên đất nước Việt Nam.


 
 

Địa Danh Du Lịch Thái Nguyên

Đình Phương Độ,
Đình Xuân La
Đền Đuổm
Bảo Tàng Các Dân Tộc
Hang Phượng Hoàng
Hồ Núi Cốc
Khu Du Lịch Nà Hang
Du Lịch Thái Nguyên
Rừng Cấm – Vườn QG Tam Đảo

 

Nguồn: saigontoserco

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui lòng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những gì liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 10/19/17