|
10/19/17
Sự
thành h́nh của Nam Kỳ Lục Tỉnh tức vùng Đồng Nai Cửu Long
Cập nhật lúc 12:54:41 PM - 04/01/2009
Gs. Ts. Nguyễn Thanh Liêm
LTS: Gs. Ts. Nguyễn Thanh Liêm là chủ tịch hội Lăng Ông - Lê Văn
Duyệt Foundation. Ông tŕnh bày bài thuyết tŕnh sau đây nhân ngày khai
mạc Tuần Lễ Văn Hóa Miền Nam tại Hội Tả Quân Lê Văn Duyệt Foundation vào
trưa thứ Bảy, ngày 3 tháng Giêng 2009.
Tuần Lễ Văn Hóa Miền Nam mở cửa trong tuần từ 11 giờ trưa đến 7 giờ
chiều, cuối tuần từ 10 giờ sáng đến 6 giờ chiều, cho đến ngày 10 tháng
Giêng. Chương tŕnh gồm có triển lăm văn hóa, các bài nói chuyện của các
diễn giả, và văn nghệ. Trụ sở mới của Hội tọa lạc tại 15361 Brookhurst
St #207, Westminster, CA 92683. Điện thoại (714) 721-0878.
Để quư độc giả tiện tham khảo, Nhật báo Viễn Đông đăng tải nguyên văn
bài thuyết tŕnh của Gs. Ts. Nguyễn Thanh Liêm.
***
Đồng Nai Cửu Long là tên hai hệ thống sông lớn ở
Miền Nam nước Việt. Khi nói vùng Đồng Nai Cửu Long là người ta muốn nói
đến tất cả các tỉnh nằm trong vùng đất bao quanh hai hệ thống sông lớn
này. Đó là các tỉnh Miền Đông và Miền Tây Nam phần, từ B́nh Thuận vào
đến Cà Mau. Dưới thời vua Gia Long và phần đầu của thời vua Minh Mạng
(1802-1832), cả vùng này được gọi là Trấn Gia Định mà Tả Quân Lê Văn
Duyệt là người hai lần được bổ nhiệm làm Tổng Trấn ở đây. Năm 1932, sau
khi Lê Văn Duyệt mất, Gia Định Trấn mới bị băi bỏ, Miền Nam được chia
thành 6 tỉnh (Gia Định, Biên Ḥa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà
Tiên). Địa danh Nam Kỳ Lục Tỉnh có từ đó.
Dưới thời Pháp thuộc, người Pháp gọi vùng này là Cochinchine hay Nam Kỳ.
Đây là vùng thuộc địa của Pháp, và lục tỉnh được chia làm 21 tỉnh (với
các chữ đầu là Gia Châu Hà Rạch Trà, Sa Bến Long Tân Sóc, Thủ Tây Biên
Mỹ Bà, Chợ Vĩnh G̣ Cần Bạc Cắp). Thời Việt Nam Cộng Ḥa, vùng này là
Miền Nam Việt Nam và bao gồm các tỉnh Miền Đông (Tây Ninh, B́nh Long,
Phước Long, B́nh Dương, Biên Ḥa, Long Khánh, B́nh Tuy, Phước Tuy, Gia
Định), và các tỉnh Miền Tây Nam Phần (Châu Đốc, Kiến Phong, Kiến Tường,
Hậu Nghĩa, Kiên Giang, An Giang, Vĩnh Long, Định Tường, Long An, Chương
Thiện, Phong Dinh, Vĩnh B́nh, Kiến Ḥa, G̣ Công, An Xuyên, Bạc Liêu, Ba
Xuyên). Chính phủ hiện thời dùng chữ Nam Bộ thay v́ Nam Phần và cũng
phân biệt Miền Đông (hay vùng Đồng Nai với các tỉnh Sông Bé, Đồng Nai,
Tây Ninh, Long An) và Miền Tây (hay đồng bằng sông Cửu Long với các tỉnh
Đồng Tháp, Tiền Giang, Cửu Long, An Giang, Hậu Giang, Kiên Giang, Minh
Hải).
Khi Nguyễn Hoàng được cử vào cai quản Thuận Hóa (1558) th́ đất đai của
nước Việt về phía Nam chỉ có đến Phú Yên. Từ đó đến B́nh Thuận c̣n là
lănh thổ của Chiêm Thành hay Champa. Nhưng từ lúc xứ Đàng Trong (từ sông
Gianh trở vào Nam) của Chúa Nguyễn bắt đầu thành h́nh th́ cũng là lúc
Chiêm Thành khởi sự suy yếu dần. Xứ Đàng Trong càng lớn mạnh lên bao
nhiêu th́ xứ Chiêm Thành càng yếu đi và càng nhỏ lại bấy nhiêu. Cho đến
cuối thế kỷ thứ XVII th́ nước Chiêm Thành kể như không c̣n nữa và dân
tộc Chăm trở thành người dân thiểu số trong cộng đồng người Việt. Biên
giới phía Nam của nước Việt bấy giờ là vùng B́nh Thuận, và nước láng
giềng về phía này của Việt Nam là nước Chân Lạp (tức Kampuchea hay Cao
Miên) của người Khờ Me (tức người Miên như người trong Nam thường gọi).
Vùng Đồng Nai Cửu Long lúc này thuộc về Chân Lạp.
Thật ra đất Đồng Nai Cửu Long chỉ có thuộc về Chân Lạp trên danh nghĩa
thôi, trong thực tế người dân Khờ Me không có mặt nhiều trên phần đất
này. Người dân Khờ Me chỉ sinh sống ở một vài nơi thưa thớt, rải rác
trên vùng đất cao, hoang vu mênh mông ở vùng Hậu Giang của đồng bằng
sông Cửu Long. Ở vùng Đồng Nai th́ có các bộ lạc người Mạ và người
Xtiêng sinh sống, cũng rải rác, cũng thưa thớt trong vùng đất mênh mông
hoang vu vậy. Triều đ́nh Chân Lạp chưa có thiết lập các cơ quan hành
chánh cai trị hay những đồn binh quân sự trấn đống để bảo vệ đất đai và
dân chúng của họ trên vùng đất này. Đối với người dân Việt, những đất
đai mênh mông hoang vu ở đây là đất vô chủ, không ai để ư tới, không ai
ḍm ngó, kiểm soát. Vả lại, ranh giới giữa hai nước (Việt - Chân Lạp)
không có ǵ rơ ràng, ranh giới giữa các sắc tộc sinh sống rải rác trên
vùng đất này (xem như vùng trái độn) lại càng mơ hồ, co giăn, biến thiên
hơn. Trong t́nh huống đó, và với bản năng sinh tồn mạnh mẽ, người Việt
không ngần ngại ǵ mà không vào vùng đất hoang vu mới mẻ này để phá rừng,
dọn đất, trồng trọt, mưu sinh, lập nghiệp. Mô Xoài là nơi mà người Việt
đă đến khai phá, định cư sớm nhất. Mô Xoài tức là Bà Rịa bây giờ. Các
sách Gia Định Thông Chí của Trịnh Hoài Đức và Đại Nam Nhất Thống Chí
triều Nguyễn cho rằng xứ Mô Xoài là vùng địa đầu của Biên Trấn, tức là
vùng người lưu dân Việt đầu tiên đặt chân vào để khai phá mở mang Miền
Nam nước Việt.
Đây chỉ là những bước đầu lẻ tẻ, chập chững của những người đi tiên
phong trong công cuộc mạo hiểm vào vùng đất mới lạ. Phải đợi một cơ hội
thuận tiện nào đó để việc mở rộng về phương Nam trở thành phong trào
mạnh mẽ, có tính cách quy mô hơn. Cơ hội đó là sự cầu thân của vua Chân
Lạp Chey Chetta II với Chúa Nguyễn Phúc Nguyên vào năm 1620. Sử Khờ Me
ghi là sau khi lên ngôi vua Chey Chetta II cho xây cung điện nguy nga
tại Oudong rồi cử hành lễ cưới long trọng với một nàng công chúa xinh
đẹp của Việt Nam. Hoàng hậu Sam Đát (tức công chúa Ngọc Vạn) có đem
nhiều đồng hương sang Chân Lạp. Có người làm quan trong triều, có người
làm thủ công, có người buôn bán, vận chuyển hàng hóa. Theo hồi kư của
giáo sĩ Chistofo Borri, một người Ư đă sống gần Qui Nhơn từ 1618 đến
1622, th́ chúa Nguyễn đă viện trợ cho vua Chân Lạp cả tàu thuyền lẫn
binh lính để chống lại quân Xiêm. Borri cũng tả rơ phái đoàn quan quân
Việt Nam đưa công chúa Ngọc Vạn về Oudong như sau: ”Sứ bộ gồm khá đông
người, cả quan lẫn lính, vừa nam vừa nữ, chuyên chở trên những chiếc
thuyền lớn có trang bị vũ khí và bày trí lộng lẫy. Khi sứ bộ tới kinh
Oudong, th́ dân chúng Khờ Me, thương nhân Bồ Đào Nha, Nhật Bản, Trung
Hoa đă tụ hội đông đảo để đón tiếp và hoan nghênh.”
Về phương diện xă hội, việc công chúa Ngọc Vạn theo chồng về Miên có thể
được xem như là một sự mở đầu cho những bành trướng lănh thổ quy mô về
phương Nam của dân tộc Việt. Theo chân Ngọc Vạn công chúa lưu dân người
Việt càng ngày càng vào Nam lập nghiệp nhiều hơn. Với chính sách khuyến
khích khéo léo của chính quyền, làn sóng vào Nam càng lúc càng bành
trướng mạnh mẽ. Về phương diện chính trị ngoại giao, cuộc hôn nhân của
công chúa Ngọc Vạn với vua Chey Chetta II là bước mở đầu cho mối liên hệ
ngoại giao giữa hai dân tộc Việt-Khờ Me, một mở đầu hết sức quan trọng
đối với triều Nguyễn và người dân Đàng Trong. Từ đây triều Nguyễn luôn
luôn sẵn sàng để hoặc giúp đỡ/viện trợ, hoặc can thiệp vào nội t́nh Chân
Lạp. Cứ mỗi lần quân chúa Nguyễn tiến lên xứ Miên làm một công ơn ǵ đó
đối với Chân Lạp là mỗi lần triều đ́nh Chúa Nguyễn được đền đáp bằng một
số đất đai để hợp thức hóa những nơi lưu dân người Việt đă từng vào khai
phá. Những sự kiện lịch sử sau đây đánh dấu những bước tiến trong quá
tŕnh hoàn thành vùng đất Nam Kỳ Lục Tỉnh theo lối “dân đi trước chính
quyền đến sau”.
Những giai đoạn Nam tiến kể từ năm 939
- Hai năm sau khi Ngọc Vạn trở thành hoàng hậu Chân Lạp, năm 1623, chúa
Nguyễn sai phái bộ tới Oudong yêu cầu vua Chey Chetta II cho chúa Nguyễn
lập hai đồn thu thuế tại Prei Nokor (Sài G̣n) và Kas Krobei (Bến Nghé).
Đây là vùng qua lại và nghỉ ngơi của thương nhân Việt Nam đi Chân Lạp.
Từ khi có các đồn thu thuế của chúa Nguyễn, vùng này đă trở nên vùng thị
tứ trên bến dưới thuyền rất là sầm uất.
- Năm 1658 triều đ́nh Chân Lạp có nội biến, thái hậu Ngọc Vạn đă khẩn
cầu Chúa Nguyễn là Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần giúp quân đánh dẹp Nặc Ông
Chân dành lại ngôi báu cho ḍng họ Prea Outey. Chúa Hiền, cháu kêu thái
hậu Ngọc Vạn bằng cô ruột, cho quan Khâm Mạng Trấn Biên dinh Phú Yên là
Tôn Thất Yến đem 3,000 quân qua giúp bắt được Nặc Ông Chân giải về Quảng
B́nh. “Người Cao Miên khâm phục oai đức của triều đ́nh đem nhượng hết cả
đất ấy rồi đi lánh chỗ khác, không dám tranh trở chuyện ǵ.” (Gia Định
Thông Chí, trung, tr.7). Đất ấy đây là vùng Mô Xoài, chính thức thuộc
lănh thổ Việt Nam từ đó.
- Sang năm 1674 Nặc Ông Đài lại liên kết với Xiêm La chống Đại Việt.
Chúa Nguyễn là Hiền Vương cử cai cơ Nguyễn Dương Lâm đem quân đánh chiếm
Sài G̣n và tiến lên Nam Vang. Chúa Nguyễn làm chủ t́nh thế cả vùng Đồng
Nai.
- Năm 1679 trấn thủ Quảng Đông là Dương Ngạn Địch cùng với phó tổng binh
Hoàng Tiến, và tổng binh các châu Cao, Lôi, Liêm là Trần Thượng Xuyên
cùng phó tổng binh Trần An B́nh đem 3000 quân Trung Hoa (nhà Minh) với
50 chiến thuyền trốn quân Thanh chạy sang Việt Nam xin làm thần dân của
Chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn Phúc Tần dung nạp họ và cho người hướng dẫn họ
đến vùng đất mới trong Nam để định cư sinh sống. Nơi đây đă có một số
người lưu dân Việt khai phá. Dương Ngạn Địch vào Mỹ Tho, Trần Thượng
Xuyên vào Biên Ḥa khai khẩn đất đai, thiết lập phố xá bán buôn., phát
triển nông nghiệp và thương nghiệp cùng với người lưu dân Việt ở hai nơi
này. Cùng lúc đó ở Cà Mau, một cựu thần khác của nhà Minh là Mạc Cửu
cũng trốn quân Thanh sang đây khai khẩn lập nghiệp.
- Năm 1698 Minh Vương Nguyễn Phúc Chu cử thống suất Nguyễn Hữu Cảnh làm
kinh lược đất Chân Lạp. Năm 1699, Nguyễn Hữu Cảnh đem binh lên tận Nam
Vang để can thiệp và trở về vào khoảng tháng Tư năm sau. Trên đường về
ông cho quân sĩ theo ḍng Tiền Giang, trú đóng tại Cái Sao (vùng chợ Thủ
của Long Xuyên). Một số quân sĩ bị phát bịnh dịch và chính ông cũng bị
nhiễm bịnh và mất hai ngày sau khi quân ông rút khỏi vùng này. Một số
binh sĩ hoặc bị bịnh hoặc t́nh nguyện ở lại vùng Cái Sao khai khẩn đất
đai sinh sống trước khi vùng này được vua Cao Miên nhường cho Chúa
Nguyễn. Họ được gọi là người dân Hai Huyện, trực thuộc phủ Gia Định từ
xưa. (Xem Lịch Sử Khẩn Hoang Miền Nam của Sơn Nam, tr. 23).
- Năm 1705, Nguyễn Cửu Vân hành quân sang Cao Miên đánh quân Xiêm, trên
đường về trú quân ở Vũng Gù (nay là Tân An), khai khẩn đất hoang, cho
lập đồn binh và cho đào kinh cho rạch Vũng Gù ăn thông sang rạch Mỹ Tho,
nối liền sông Vàm Cỏ Tây qua Tiền Giang.
- Năm 1708 Mạc Cửu dâng cả vùng mới khai khẩn ở Cà Mau xin hàng phục
Chúa Nguyễn. Vùng này gồm các ấp vừa lập từ Vũng Thơm, Trủng Kè, Cần
Vọt, Rạch Giá đến Cà Mau. Hà Tiên trở thành một thương cảng quan trọng
trong vùng. Chúa Nguyễn Phúc Chu phong cho Mạc Cửu làm tổng binh, giữ
đất Hà Tiên.
- Năm 1732 lưu dân người Việt bị quân Miên tấn công. Chúa Nguyễn là Ninh
Vương cử Trương Phúc Vĩnh đem quân vào dẹp yên. Vua Chân Lạp là Nặc Tha
nhường Me Sa (Mỹ Tho) và Long Hồ cho Chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn lấy đất
Long Hồ lập thành châu Định Viễn (Vĩnh Long) và đặt dinh Long Hồ.
- Năm 1753 Nguyễn Cư Trinh đem quân sang đánh Chân Lạp. Vua Chân Lạp là
Nặc Nguyên thua trận bèn dâng hai phủ Tầm Bôn và Lôi Lạp (G̣ Công và Tân
An) để cầu ḥa. Bốn năm sau Nặc Nguyên mất, Chân Lạp có nội biến. Chúa
Nguyễn cử Mạc Thiên Tứ đưa em họ của Nặc Nguyên là Nặc Tôn lên ngôi. Nặc
Tôn dâng đất Tầm Phong Long (gồm An Giang và một phần Vĩnh Long) để tạ
ơn Chúa Nguyễn và năm phủ ở vùng Hà Tiên cho Mạc Thiên Tứ. Năm phủ này
được sát nhập vào trấn Hà Tiên.
Đến đây kể như vùng Đồng Nai Cửu Long đă trọn vẹn
thuộc về Việt Nam, và thuộc về Đàng Trong của Chúa Nguyễn. Từ đầu thế kỷ
XVII đến giữa thế kỷ XVIII người Việt Nam mất 150 năm để tiến vào và mở
mang vùng đất hoang vu mới mẻ này.
Trước khi người Việt đến vùng Đồng Nai khai khẩn th́ nơi đây c̣n là cả
một vùng “toàn rừng rậm mấy ngh́n dặm” theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quư
Đôn. Vùng rừng rậm hoang vu này là vùng cư trú của nhiều nhóm dân tộc
thiểu số mà người Việt gọi chung là người “Man” theo tiếng Hán Việt hay
nôm na là người “Mọi.” Đó là các dân tộc thiểu số người Mạ, người
Xtiêng, người Mnông, Người Cơho, người Churu, v.v.. Trong các nhóm này
quan trọng hơn hết là người Mạ ở vùng Mô Xoài Bà Rịa, người Xtiêng ở
vùng Biên Ḥa, B́nh Dương và người Khờ Me ở Tây Ninh. Dân tộc Mạ hay
Châu Mạ (Châu theo tiếng Mạ có nghĩa là người) nói tiếng nói thuộc nhóm
Môn – Khờ Me. Địa bàn sinh sống của Châu Mạ ngày xưa là cả vùng Đồng Nai
xuống đến Mỹ Tho (theo B́nh Nguyên Lộc). Dân tộc Mạ mà người Việt thường
gọi là Mọi Bà Rịa, thạo nghề dệt vải có hoa văn đẹp, ở nhà sàn dài, có
tục cà răng và xâu lỗ tai lớn. Họ rất hiền ḥa, thường bị người Xtiêng
và người Miên bắt đem bán làm nô lệ ở các nơi. Phủ Biên Tạp Lục của Lê
Quí Đôn ghi: “Từ các cửa biển như Cần Giờ, Xoài Rạp . . . đi vào toàn là
những đám rừng hoang vu đầy cỏ rậm, mỗi đám rừng có thể rộng hơn ngh́n
dặm. . . Nhà Nguyễn cho dân được tự nhiên chiếm đất. . . Lại cho họ thâu
nhận những người Mọi từ trên đầu nguồn xuống để mua làm đầy tớ, đứa ở,
sai khiến, hầu hạ. . .”
Dân tộc Mạ hiện có khoảng 20,000 người cư ngụ ở vùng cực Nam Tây Nguyên,
phía Nam tỉnh Lâm Đồng, và một số ở Đắc Lắc.
Người Xtiêng cư trú trong vùng các tỉnh Tây Ninh, B́nh Dương, Biên Ḥa.
Tiếng nói của họ có nhiều nét gần gũi với tiếng Mnông, Cơho, Mạ, nằm
trong nhóm Môn - Khờ Me. Họ để tóc dài, búi đằng sau gáy, đeo bông tai
bằng cây hay bằng ngà, xăm mặt, xăm ḿnh, đàn bà mặc váy, đàn ông đóng
khố. Địa chí Thủ Dầu Một ấn hành năm 1910 gọi dân tộc Xtiêng là Mọi
hoang, Mọi Cà Răng, Mọi Việt hay Mọi Đồng Nai. Dân tộc Xtiêng hiện nay
có khoảng 40,000 người quần tụ vùng biên giới Tây Nam, ở các tỉnh Tây
Ninh, B́nh Dương, Đồng Nai.
Ở Hậu Giang, vùng Trà Vinh – Sóc Trăng có nhiều người Miên hơn ở Miền
Đông Nam Phần. Những sóc người Miên này sống cách biệt với triều đ́nh
Kampuchea. Khi người Việt vào khai khẩn vùng Hậu Giang th́ người Việt và
người Miên cùng cộng cư, và sau này khi toàn cơi Nam Việt thuộc về Chúa
Nguyễn th́ những người Miên này trở thành người dân thiểu số trong cộng
đồng người Việt.
Vùng Đồng Nai, vùng cư trú của hai sắc dân Xtiêng và Mạ là vùng đệm giữa
hai nước Chiêm Thành và Chân Lạp. Vào đầu thế kỷ XVII, đất đai vùng này
quá rộng mà người th́ quá ít cho nên dân cư quá thưa thớt, và phần lớn
đất đai là rừng rú hoang vu đầy muôn thú. Khi người Việt bắt đầu vào
khai khẩn đất hoang vùng này th́ người Mạ, người Xtiêng và một ít người
Khờ Me (ở phí Tây Tây Ninh) từ từ rút lui dần về vùng đất cao ở phí Bắc
và phía Tây, nhường đất thấp ở phía Nam cho người lưu dân mới đến khai
phá. Người Việt thành thạo hơn trong việc khai khẩn đất đai, trồng lúa
nước ở đất thấp (gọi là thảo điền), trong khi người sắc tộc thiểu số th́
thành thạo trong việc săn bắn và làm rẫy trên các ruộng cao hay giồng
(sơn điền). Đất rộng mênh mông hoang vu, và lại là đất thấp không mấy
thích hợp với thổ dân, là hai điều kiện vô cùng thuận lợi cho người lưu
dân Việt vào vùng Đồng Nai khai hoang sinh sống mà không gặp một sự
chống đối nào.
Số ít người Việt đầu tiên vào đây khai phá không biết là ai, không biết
họ bắt đầu vào làm công việc đó từ lúc nào, không có một ghi chép nào để
lại tên họ gốc gác của những người đó. Theo các sách sử sau này th́ chắc
chắn họ đă vào vùng Đồng Nai khai khẩn sinh sống rất sớm, ngay từ lúc
Nguyễn Hoàng vừa vào trấn thủ Thuận Hóa. Trịnh Hoài Đức cho là từ đời
các “tiên hoàng đế” tức là từ thời các chúa Nguyễn Hoàng, Nguyễn Phước
Nguyên.
Những người đầu tiên vào đây là những người tự nguyện chứ không phải là
những người được chính quyền đưa đến hay bị lưu đày. Lúc này chính quyền
chưa chính thức áp dụng biện pháp di dân vào Nam được. Lưu dân lúc này
có thể là những người nghèo khổ, những kẻ bị áp bức, những người chạy
trốn chiến tranh loạn lạc, những người không sống được trong xă hội
đương thời, phải mạo hiểm t́m đường sinh sống ở vùng đất mới. Họ có thể
đến từ Miền Bắc hay Miền Trung. Nhưng phần đông chắc là người Miền
Trung, người Đàng Trong nhiều hơn, nhất là những người vùng Thuận Quảng.
Sau đợt t́nh nguyện đầu tiên, nhất là sau sự kiện Ngọc Vạn công chúa,
chúa Nguyễn bắt đầu áp dụng chính sách đưa dân quân vào Nam mỗi ngày một
triệt để hơn. Theo Philippe Papin th́:
Cuộc tranh chấp giữa hai phủ chúa thù nghịch đóng kín ranh giới, cho nên
cuộc “Nam tiến” trở thành một hiện tượng của riêng lănh địa nhà Nguyễn ;
nước Việt Nam “mới” c̣n đi xa hơn nữa, nhưng từ nay là người miền Trung
sẽ tiến vào miền Nam bao la của nước Việt, bắt đầu được khai thác đúng
vào lúc nước Việt đứt đoạn... Mong muốn kiểm soát một không gian ngày
càng rộng lớn, các chúa Nguyễn bèn áp dụng một chính sách cư dân triệt
để: các viên chức được lệnh tập hợp tất cả những người vô gia cư, tất cả
những ai không có tên trong sổ bộ làng xă, đưa vào các tỉnh miền Nam mới
chiếm được của Kampuchea. . .
Giáo sư Nguyễn Đăng Thục ghi lại lời của Jules Sion trong “L'Asie des
Moussons” về cuộc bành trướng của dân Việt về phương Nam như sau:
Cuộc bành trướng của dân Việt là một sự đồng hóa thật sự. Tính chất đó
giải thích v́ sao người Việt bành trướng chậm nhưng rất chắc chắn. Cao
Miên và Lào quốc đánh nhau chỉ đem quân cướp lấy tù binh đem về làm nô
lệ, lại có một giai cấp quí tộc thống trị cho nên có cướp được đất cũng
để mất ngay.
Mục đích của người Việt lại khác. Họ không cần bắt nô lệ, họ làm lấy.
Đối với họ thắng trận không phải là để có người làm, mà là để có đất
cày.
Nhiều khi chiến tranh chỉ là để xác nhận một t́nh thế đă rồi. Dân Việt
bành trướng một cách ôn ḥa, sinh cơ lập nghiệp rồi sau binh lính mới
tới. Trước khi Việt Nam sáp nhập đất Nam kỳ về ḿnh, người Việt đă lập ở
đây những tổ chức, những đám di dân đă xây dựng làng xóm hay là tới ở
chung với người Mên, rồi lần lần nắm quyền chính.
Cuộc bành trướng thực hành bằng cách đưa đến những đám người liên tiếp,
đủ các hạng: dân cày không có ruộng, tù tội, kẻ chống đối chế độ hay là
quân cướp muốn chuộc tội. Cũng có khi chính phủ thu thập những người đó
rồi đưa xuống những miền mới chiếm lănh, hay là lập đồn điền nơi biên
thùy để pḥng bị lân bang tới đánh. Những người ấy có quan lại cai trị
và họ lập thành làng mạc. (Ḍng Việt, số 17, tr.68-69).
Ngoài những người dân Việt từ vùng Thuận Quảng đến c̣n có người Trung
Hoa vùng Quảng Đông – Quảng Tây, trốn chạy nhà Thanh, sang đây định cư
lập nghiệp. Thành phần cư dân này rất quan trọng v́ họ giúp phát triển
mạnh về thương mại và công nghiệp, nhất là thương mại.
Trong số quân binh nhà Nguyễn đi chinh chiến ở Miền Nam hay trên Cao
Miên cũng có nhiều người t́nh nguyện hay được chính quyền cho ở lại định
cư, làm ăn với dân chúng.
Nói chung th́ phần đông người lưu dân là người Miền Trung thuộc đủ các
thành phần xă hội cùng một số đáng kể người Trung Hoa. Họ là những người
có công lớn lao trong việc bành trướng lănh thổ, mở mang bờ cơi Việt Nam
về phương Nam, biến vùng rừng rú hoang vu đầy muôn thú thành vùng đất
đai ph́ nhiêu màu mỡ nuôi sống và làm giàu cho cả nước.
Môi trường sinh sống mới và sự tiếp xúc với những nền văn hóa khác là
những điều kiện cần yếu đưa đến những biến đổi. Trước hết là môi trường
thiên nhiên vật lư: đất đai, khí hậu, ruộng nương, vườn tược ở đây cùng
một loại với đất đai, khí hậu, ruộng nương vườn tược ở Kampuchia, Thái
Lan, Mả Lai, thành ra các loại cây trái giống nhau, kỹ thuật làm ruộng,
làm vườn, trồng cây trái cũng giống nhau. Cuộc sống vật chất ở nhà quê
do đó cũng rất giống nhau. Người lưu dân Việt vào môi trường sinh sống
này không thể không linh động thay đổi để thích ứng với môi trường sinh
sống mới. Mặt khác ở trong hoàn cảnh sinh sống mới này họ lại gần gũi
với những dân tộc khác với nền văn hóa khác mà lâu dần, quen dần, họ
không thể không vay mượn một số nét đặc thù nào đó mà họ thấy cần yếu
hay thích hợp với họ trong hoàn cảnh sinh sống mới. Thành ra từ khi
Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa và các chúa Nguyễn nối tiếp, xây dựng nên
Đàng Trong th́ bắt đầu có một nhánh văn hóa Việt biến dạng dần dần trở
thành một chi nhánh văn hóa (subculture) có phần khác biệt với văn hóa
cổ truyền ở miền Bắc. Sự cắt đứt liên hệ chính trị giữa Đàng Trong (Chúa
Nguyễn) và Đàng Ngoài (Chúa Trịnh), sự phân tranh Nam Bắc và chia đôi
lănh thổ đă là cơ hội để tạo nên một chi nhánh văn hóa mới xa dần văn
hóa cổ truyền. Đến thế kỷ XVII khi Họ Nguyễn chiếm hết cả miền Trung và
rồi một số người miền Trung vào khai phá miền Nam khẩn hoang lập ấp xây
dựng nên miền Nam th́ một chi nhánh văn hóa khác nữa lại thành h́nh. Chi
nhánh văn hóa mới này lại càng cách biệt với văn hóa gốc ở miền Bắc để
đến gần văn hóa Đông Nam Á hơn (tức cũng có nghĩa xa dần văn hóa Trung
Hoa và đến gần văn hóa Ấn Độ hơn).
Miền Nam là cả một vùng đất hoang mênh mông chằng chịt sông rạch với
không biết là bao nhiêu cá tôm rau cỏ cây trái. Đất đai lại rất ph́
nhiêu do phù sa mang lại. Khẩn hoang lập nghiệp tuy có cực nhọc nặng nề
nhưng kết quả thu lượm dễ dàng và khả quan, đời sống tự nhiên ung dung
thoải mái. Điều kiện vật lư đó cũng dễ un đúc nên tính t́nh rộng răi,
phóng khoáng, hiếu khách, đối đăi tử tế với người từ xa mới đến của
người miền Nam mà nhiều người công nhận.
Vùng mới lập này tuy có ít nhiều liên hệ với Chúa Nguyễn nhưng triều
đ́nh ở xa, tổ chức cai trị không chặt chẽ tùy thuộc ở triều đ́nh Huế
(chế độ tổng trấn), thêm vào đó c̣n có những biến cố chính trị làm thay
ngôi đổi chủ nhiều lần cho nên tương đối có nhiều tự do địa phương và tự
do cho cá nhân nữa. Chỗ này ở không được, hoặc bị áp bức th́ nhổ sào,
chèo ghe đi chỗ khác làm ăn, không có ǵ ràng buộc họ được. Hoàn cảnh
đặc biệt ở đây giúp người ta nuôi dưỡng tinh khí tự do phóng khoáng,
không cần phải ép ḿnh, chế ngự cái tôi để phụng sự cho một lư tưởng
sách vở ǵ cả. Vả lại nỗ lực chính của những thế hệ đầu tiên vào đây là
khai khẩn đất đai, thiết lập đời sống mới nhiều hơn là trau dồi kinh sử
để lănh lấy măo áo chức tước của triều đ́nh. Đời sống dễ dăi, tương đối
thừa thăi về vật chất và tự do về tinh thần, đă không bắt buộc người dân
Việt ở đây phải duy tŕ hay theo đúng những phong tục tập quán đă được
mang vào Đàng Trong từ mấy thế kỷ trước. Sự lỏng lẻo của khuông phép từ
thế hệ này sang thế hệ khác đă tạo nên một nếp sống mới, một tính t́nh
và nhân cách mới, rộng răi và phóng khoáng, với tâm hồn chân thật, chất
phác, mở rộng để đón nhận những cái mới lạ hơn là khép kín để duy tŕ
những cái đă có.
Ngoài hoàn cảnh địa lư nói trên, trong quá tŕnh mở rộng đất đai về
phương Nam chi nhánh văn hóa Đàng Trong đă phải tiếp xúc va chạm với
những nền văn hóa khác tạo nên điều kiện rất cần cho sự biến đổi về văn
hóa. Có tiếp xúc với văn hóa khác là có cơ hội để nh́n thấy lối sống,
cách hoạt động, sự tín ngưỡng, lề lối suy tư của một giống người khác.
Từ đó có thể có những thích nghi với nhau hay vay mượn lẫn nhau ít nhiều
từ tập quán, kỹ thuật, đến tín ngưỡng và nghệ thuật.
Từ thế kỷ XVII người Đàng Trong đă có cơ hội gần gũi với văn hóa Chiêm
Thành, đă nh́n thấy và hiểu biết lối sống của người dân Chăm. Sau đó
sang thế kỷ XVIII người Việt khi bành trướng lănh thổ về miền Nam lại có
dịp sống bên cạnh người Miên và người Trung Hoa (Minh Hương, Triều
Châu). Và gần đây hơn từ thế kỷ XIX người Việt ở đây lại có nhiều dịp để
biết đến đạo Thiên Chúa cùng văn minh Tây Phương do người Pháp mang đến.
Thí dụ như ở Cà Mau (tỉnh lỵ An Xuyên), vào khoảng thập niên 1960, thống
kê cho biết dân số là 270,643 người trong đó có 3,048 người Việt gốc
Hoa, và 2,959 người Việt gốc Miên, với 22,000 Tịnh độ cư sĩ, 15,000 Công
giáo, 3,700 Thiền Lâm, 3,200 Cao Đài, và 400 Tin Lành. Người Việt gốc
Miên ở Trà Vinh, Sóc Trăng rất nhiều và người Triều Châu rất đông ở Bạc
Liêu đến đổi người dân Nam phải nói “Dưới sông cá chốt, trên bờ Triều
Châu”. Có thể nói miền Nam cũng na ná như xứ Mỹ, nó là một xă hội mới
thành h́nh với nhiều chủng tộc sống lẫn lộn trong đó và với một nền văn
hóa ít nhiều pha trộn đủ thứ. Nó như cái “melting pot” hay cái “salad
bowl” của Việt Nam. Nó mang rất ít tính chất cổ truyền của nền văn hóa
gốc.
Thật ra th́ sự gặp gỡ, tiếp xúc giữa các nền văn hóa mới chỉ là điều
kiện cần mà thôi chớ chưa phải là điều kiện đủ để cho sự vay mượn, học
hỏi xảy ra. Điều kiện đủ để đưa đến vay mượn và thích nghi văn hóa là sự
có mặt của những yếu tố sau đây: (1) tinh thần khai phóng của người vay
mượn, (2) sự tự do chấp nhận cái mới lạ của người vay mượn, và (3) sự
lợi ích của những ǵ được vay mượn học hỏi. Văn hóa không thay đổi nếu
các thành phần trong nền văn hóa đó không có tinh thần cởi mở, không
chấp nhận những cái mới lạ của nền văn hóa khác. Mặt khác dù các thành
phần chấp nhận những cái mới lạ của văn hóa khác đi nữa nhưng không có
tự do để học hỏi, thực hiện th́ văn hóa cũng không có cơ hội thay đổi.
Chẳng hạn như nếu luật lệ của quốc gia quá cứng rắn không cho phép người
dân chấp nhận hay du nhập những cái mới lạ, hoặc giả nếu như phong tục
tập quán trong xă hội quá khắt khe khiến người ta không thể đi ra ngoài
những thói quen đă có th́ sự thay đổi về văn hóa tất nhiên sẽ khó xảy
ra. Phải có đủ tự do để học hỏi và thực hiện điều ǵ mới lạ trong cuộc
sống th́ sự biến đổi về văn hóa mới diễn tiến được. Sau hết người ta chỉ
học hỏi vay mượn khi nào điều người ta muốn học hỏi vay mượn đó đáp ứng
được nhu cầu sinh sống của con người.
Những điều kiện trên đây cần phải có đủ th́ văn hóa mới có thể thay đổi
được. Người Việt Nam trong quá tŕnh bành trướng lănh thổ và định cư vào
Phương Nam đă có đủ những điều kiện ghi trên. Họ có tinh thần rộng răi
khai phóng, không mù quáng tôn sùng cổ nhân, không khép kín chật hẹp hay
bế quan tỏa cảng. Họ có ít nhiều tự do chớ không bị chặt chẽ ràng buộc
bởi luật lệ cứng rắn của triều đ́nh hay tập quán khắt khe của xă hội.
Khi đă có đủ những điều kiện cần và đủ th́ tất nhiên văn hóa phải thay
đổi theo lối sống thay đổi của con người ở vùng đất mới mẻ này. Những
khác biệt này là những biến đổi tự nhiên của văn hóa Việt Nam qua bao
nhiêu thế hệ và qua quá tŕnh bành trướng lănh thổ, tiếp xúc với nhiều
nền văn hóa khác. Biến đổi để thích ứng với môi trường và hoàn cảnh mới,
đó là điều kiện cần yếu để một nền văn hóa sinh tồn và tiến bộ. Khi văn
hóa biến đổi nó cũng làm cho con người ít nhiều biến đổi theo. Có sự
tương quan khá mật thiết giữa văn hóa và nhân cách của con người. Người
ta hay nói đến tính bộc trực, ăn ngay nói thật, tính rộng răi chiều
khách, tính anh hùng ngang tàng của người dân miền Nam, kể cả tính bất
cần và không thèm kiên nhẫn của người dân vùng này.
Người dân Miền Nam, hay người Nam Kỳ, tuy nói gốc gác phần nhiều là dân
Thuận Quảng, nhưng nói chung đều là người từ Miền Bắc vào Miền Trung
(Đàng Trong) rồi từ Miền Trung vào Miền Nam (nếu là dân Thuận Quảng),
c̣n không th́ có thể từ Bắc, Trung vào Nam. Có người vào Nam trước, có
người vào Nam sau. Nhưng trước hay sau, lâu hay mau ǵ th́ cũng được
“Nam Kỳ hóa” ít hay nhiều. Bởi cái đặc tính của xứ Nam Kỳ là rất cởi mở,
rộng răi, dễ thương, nên dễ dung nạp, dễ cảm hóa người mới đến để họ hội
nhập vào đại gia đ́nh Đồng Nai Cửu Long mà nhà văn hóa học có thể xem
như một cái tô xà lách (”salad bowl”) của mọi người.
Ảnh minh họa: Vi Lang/Viễn Đông
Vien Dong Daily News
Để hiểu rơ hơn về MIền Nam Lục Tỉnh mời đọc:
Nghiên
cứu & Biên khảo - TẬP SAN 1 và cho đến nay (09/2013) đang chuẩn bị cho TẬP
SAN 8
|