|
Cầu Hậu - Sông Đào
THÂN TRỌNG TUẤN
LỜI
TÒA SOẠN
Xa
xưa Huế mình có những xóm nhỏ dân cư thưa thớt, nhà cửa lác đác, cảnh
sắc xung quanh trái lại thật là đặc biệt. Chưa đi đến nơi nhưng nhiều
người biết tiếng vì thoáng nghe nhắc đến tên, xóm Cầu Hậu ở ngoại ô
thành phố Huế là một.
Gọi
Cầu Hậu vì ra khỏi cửa Hậu (người Pháp thời ấy gọi là Mircutor I) sẽ đi
qua một cái cống bề ngang độ chừng trên 3 mét; nhiều người gọi là cầu,
cây cầu bắc qua hào thành Cửa Hậu.
Cầu
Hậu cũng có tên xóm Sông Đào vì từ cầu Thăng Long xuống Bao Vinh, đến
ngã ba có bảng tên đường Route Cửa Hậu, khách bộ hành sẽ đi dọc theo
sông Đào thẳng đường ra hướng bắc (Cửa Hậu).
Cách ngã ba chừng cây số, bên tay trái là Mã Tây. Trước năm 1945, xóm
Cầu Hậu bắt đầu từ đây. Một dãy nhà ngói, vườn rộng cây cối xanh tươi.
Xóm nhỏ nhưng nhà nào cũng có bến sông thật đẹp, mùa hè thêm périssoire
lượn qua lượn lại. Trên bộ, hai nhà (kiểu) Tây có xe điện (xe hơi). Đầu
xóm, nhà ông Hutter, giám đốc Nhà In Đắc Lập, nhà thứ hai bên cạnh cái
am lên đồng, phía trước thờ Phật, gọi là Hoàng Hóa điện. Chủ nhân chiếc
xe Citroen thứ hai là ông đốc-tớ Thú Y Đào Văn Trung, giám đốc lò heo A-ba-toa,
dân chúng thân thương gọi tên "ông Đốc Bò".
Tiếng tốt đồn xa, một người nói ra, mười người nói lại, lâu ngày trở
thành từ ngữ "Chè Cầu Hậu". Không biết từ lúc nào xóm Cầu Hậu nổi tiếng
vì chè Cầu Hậu. Chỉ biết rằng trước năm 1945, xóm Cầu Hậu có mụ Tốt bán
chè bột lọc, ăn một chén rồi sẽ muốn thưởng thức thêm chén thứ hai. Chè
kê lộn đậu của mụ Tốt, xúc ăn với bánh tráng mè, thơm ngon bùi miệng vừa
đẽo vừa giòn.
Cũng "lạ lắm", không mô có ngoài xóm Cầu Hậu, hết mụ Tốt le te gánh chè
trên bộ, dưới sông cơm hển mụ Bụi. Một chiếc đò nhỏ chèo tới cheo lui:
ai... ăn... cơm... hến... Thực khách đúng giờ
đúng giá in bên sông, tay ngon miệng nói: vô đây o! Thường thường đò mụ
Bụi cập bến cây sung, nơi nhà người đẹp M.H. nổi tiếng hoa khôi một
thời. Xóm giềng bà con nhau cả, nhà này tiếp theo nhà khác, trên bến
dưới dò trong phút chốc trở thành các chén nhỏ cơm hến.
Cẩu
Hậu - Sông Đào không phải chỉ có chăng ấy. Hẳn rằng thêm nhiều ngạc
nhiên hứng thú khác, bạn đọc sẽ tìm thấy qua bút ký của Thân Trọng Tuấn,
cây viết lâu năm về những địa danh
Huế
lâu đời trên Tiếng Sông Hương, Tiếng Quê Hương.
Tháng
bảy, tháng tám, mây từ Thuận An trôi tạt vô núi, kéo những sợi tơ trời
ẻo lả lưa thưa bay lẻ tẻ vô nơi rú xanh núi thẳm. Ai hơi mô để ý mấy
chuyện tào lao như việc gió kéo phăng phiu mấy sợi tơ óng ánh nắng mặt
trời âm thầm bay vô dãy Trường Sơn xám tím. Chỉ mấy tên óc mó rảnh chút
thì giờ thì đi chơi mút chi, theo cái kiểu đốc hồ đô huyện kiếm mờ con
mắt cũng không ra, hết chuyện làm mới lên trên Độn Thành Lồi huênh hoang
rằng thì là ta đây đầu đội trời chân đạp đất, dang tay dang chân trông
thiệt như ông Trạng đang phô trương chữ Thái huếch lác nhìn xuống nhân
gian dưới miệt biển mịt mù. Nhìn qua khỏi cửa Bắc, con sông đào thẳng
tắp bên bờ tre xanh, có hai chiếc cầu chiếc gãy chiếc lành nối thẳng vào
thành tục danh Cầu sông Cửa Hậu. Cố Đô huế vuông vắn soi mình trên bóng
nước Hương Giang. Ngói trên nóc Điện Thái Hòa rực rỡ huy hoàng. Thời mô
đó, có ông vua vẫn ra ngư ở Điện Cần Chánh trước khi trời rơ rơ đất cho
đến khi bãi triều, lui về Hoàng Thành ăn cháo gạo hẻo rằn với cá bống
thệ kho khô. Thì mùa ni nì, bầy choa cũng đang dạo chơi vùng Long Thọ,
thuộc dãy Tiểu Trường Sơn khiêm nhượng muôn đời. Lát nữa về, tạt qua
phường đệ Nhất ăn chén chè ngoài Cầu Hậu gánh vô.
CHÈ
GÁNH CẦU HẬU
Thời
xa xưa, trước khi Tây mang kỹ thuật làm nước đá sang Việt Nam, mấy o bán
chè chiều hay chè tối không cần có tay nghề mà chi cần có giọng rao
thanh tao, ăn nói nhỏ nhẹ là đắt khách. Sau tiết Thanh Minh, ngày dài
dần, thời tiết bắt đầu nắng ấm, mấy o xuất hiện trên những con đường
mướt cỏ xanh và hương hoa thầm lặng. Tiếng rao chừng năm ba chữ của mấy
o thiệt thou thẻ lọt qua lớp hàng rào mơn mởn lá đương tơ, nhưng cũng đủ
làm cho khách vừa xong giấc ngủ trưa nghe thiệt êm tai mát dạ. Hoặc câu
chuyện từ đầu hôm đến bây chừ vẫn còn dang dở, chút ngọt bùi đến vừa
đúng lúc khiến câu chuyện càng trở nên đậm đà rộn rã tới nửa đêm.
Mùa
xuân, cậy người bảo lãnh, cô bán chè ra cầu Hậu đặt hàng. Nhà sản xuất
cung cấp hầu hết các thứ ngoại trừ cái đòn gánh và dĩa đèn dầu nếu bán
về đêm. Tùy theo khả năng mà chọn loại gánh nặng gánh nhẹ. Chiếc gióng
mây đặc biệt "sáu tao đôi" ôm khít rịt mấy mũng chè xếp lượt. Mớ chén
ngang đều rí kẻ màu xanh lôi thôi nhưng vô cùng ý tứ đánh dấu từng loại
chè, giúp cho o bán hàng kể vanh vách số lượng và các loại chè khách vừa
dùng qua để tính tiền mà không hề lầm lẫn. Khách ăn xong, o bán chè xếp
mũng và mớ chén không chồng lên nhau cho xuống dưới khiến gánh chè thấp
dần. Chiếc đòn tre vàng nâu bóng láng như bôi mỡ có chân lỗ chỗ như bị
cóc gặm chèn bên triêng bên ni để cân bằng, đối diện với triêng bên tê
là ống tre đựng mớ đũa con và mấy cái vạy.
Cuộc
đời xoay vần, thế sự đổi thay. Kể như chuyện trong hoàng cung vua Khải
Định cho dời mâm cơm Ngài ngự từ cái sạp gụ bảo truyền ra chiếc bàn
vuông có bốn cái ghế dựa, thì ngoài ni vùng Cầu sông cửa Hậu cũng thay
cái vạy tre dùng mô từ thời mở nước của công chúa Huyền Trân bằng chiếc
muỗng thiếc cho nó văn minh. Chỉ thay cái vạy thôi, còn chén ngang và
đũa con vẫn giữ nguyên vẹn hình hài, do đó, cái vạy mất tên. Sau này,
gặp người hỏi lục lác, cứ ngớ ngẩn tưởng rằng cái vạy “ác ôn ghê gớm” nó
đã theo Pháp trở về Tây! Nếu may mắn gặp mụ tra mô đó nghe được, nhắc
chừng cho hay rằng thì là cái vạy tre là thứ trước tê người ta thường
dùng khi ăn bánh bèo bánh nậm, hoặc các loại chè đặc như chè khoai tía,
đậu xanh đánh nọ kia các thứ. Có người không rành, gọi cái vạy là cái
chèo hay con dao tre cho tiện. Ai hơi mô mà nhớ vạy với vệt mần chi cho
mệt cuộc đời!
Nắng
hè rực rỡ, khách ăn chè càng đông. Mấy o mấy mụ bán chè cũng chuyển từ
thuê gánh nhẹ đầu xuân sang gánh nặng giữa mùa hè. Gánh nhẹ thường toàn
các loại chè đặc như chè khoai tía, chè môn sáp vàng, chè đậu xanh đánh,
chè bông cau, chè mè đen, chè đậu ván đặc, chè kê, chè bắp v.v. Các loại
chè đặc này thường được nấu sẵn, múc ra chén từ đầu hôm, xếp từng chục
vô mũng chờ mấy o "bạn hàng ra cất". Tùy theo số lượng cất hàng, nếu bán
không hết và chè không bị vữa, sẽ được đổi hoặc trả lại. Gánh nặng kềnh
càng hơn vì thêm nồi nước đường, mấy cái ơ đựng các thứ nấu sẵn như đậu
đen xanh lòng, đậu huyết, đậu ván, bột lọc bọc đậu phụng v.v., mấy cái
chén không và cái vá múc chè. Người thuê mua gánh không được trả hay đổi
loại chè nước vì sau một ngày thì các thứ "đậu đường bị ê". Các thứ chè
đặc nếu bán không hết thì vẫn đổi được. Mỗi chén chè bán ra trước ngày
Hội Chợ năm 1932 triều Bảo Đại nguyên niên giá nửa xu trong khi lương
quan tri huyện là năm mươi đồng!
Một
triêng chè nặng gánh oằn xương sống nhưng phải đặt bước chân cho ngay,
nếu không, như để chiếc noon triêng nhún nhẩy thì còn chi gánh chè! Bờ
vai nhỏ nghiêng nghiêng đỡ chiếc đòn gánh có dán giấy thuế xanh đỏ tím
vàng sặc sỡ chuyền xuống đôi chân không guốc dép. Phải thiệt khoan thai
nhưng không cần đài các, khi bước tới khi xoay ngang, khi đổi vai, khi
hạ gánh nhất nghe theo lời khuôn thước của mụ O trước khi giao gánh để
còn mà có tiền nuôi mạ nuôi em, và nhất là để ngày mai ra “sương” gánh
khác.
Thiệt
tình mà nói, chè gánh Cầu Hậu không ngon bằng chè gánh Nam Phổ, nhưng
lại nổi tiếng hơn vì mấy o bán chè trông thiệt mủn mỉm, ăn nói dịu đàng,
giọng rao ngọt như chén chè trong mũng của mấy o. Phải có người giới
thiệu và bảo lãnh, mấy o mới được tuyển chứ có phải bạ ai cũng ừ, lỡ ra
khách gọi vào chưa kịp chào đã bị đuổi ra khiến suốt ngày ế ẩm vì bị mất
mì xưa! Chè gánh Nam Phổ lại khác. Người bán chè thuộc loại chuyên
nghiệp. Gánh chè không dùng mũng mà lại dùng ba miếng gỗ có đóng chân để
sắp chén. Chè cháo bún bánh, bất cứ món chi cũng chiều được khẩu vị của
người đời. Chi nội một chén bánh canh để hoài không vữa không đóng váng
cũng đủ lừng danh xứ Huế. Chè gánh Nam Phổ chỉ ngon trong miệng, êm bao
tử. Chè gánh Cầu Hậu cho dù khi mới nhìn o hạ đôi triêng gióng xuống đất
là khách đã thấy thư thái cái tình xuân!
Cuối
hè sang thu, khách ăn chè ít dần. Mấy o bán chè cũng thưa ra. Thời tiết
nghiệt ngã, mưa gió phũ phàng, gánh chè ướt hết thì bán cho ai? Do đó,
một năm chỉ bán được trong mấy tháng nắng. Mùa nào, thức nấy, chè Cầu
Hậu cũng theo luật nhân gian.
Từ
triều Bảo Đại, các quán chè xuất hiện khắp đế đô. Sau lại có thêm chè
xe, lần hồi gắn máy ép nước mía quay tay bán giải khát tại bến xe, góc
chợ và đôi khi gần cổng trường trung học. Chủ quán chè phải có tay nghề.
Nhiều khi đặc biệt, các loại chè như chè hột sen bọc nhãn lồng, chè bông
cau thiệt đều, chè kê thiệt lên thiệt dẻo, v.v. Khách ăn chè ngồi bàn,
có quạt máy, và nước đá bào có pha thêm dầu chuối. Chè để trong ly thủy
tinh và ăn với muỗng thiếc dài cán khuấy kêu xọc xạch trông thiệt là tân
thời, hơn hẳn loại chè tủn mủn trong mấy cái chén ngang và cái vạy tre
cổ hũ. Máy hát quay tay lâu lâu phải thay kim để bảo toàn dĩa nhạc, giúp
cho khách ăn chè thoải mái thú giải lao. Điệu Phú lục chậm ngọt ngào
thay thế bằng loại nhạc cải cách nghe rổn rảng vui hơn cả nhạc lên đồng.
Mấy o bán chè gánh cũng thôi dần chuyện gánh chè. Quán chè có tủ gương,
sắp xếp từng hàng những ly chè thấy bắt thèm.
Quan
Nghè, ông Đốc, sau khi chè Cầu Hậu tan hàng chào thua chè quán, thôi thì
biểu con sen mụ vú nấu “chạ chạ” nửa bung gồm đậu đỏ đường đen xong múc
bày la liệt cho cả nhà thưởng thức. Thời thế nhiễu nhương, Huế có món
chè thịt heo quay ăn với xôi vò. Món chè cá dẹt chỉ được nấu ngoài miệt
Hương Điền như món "dút" là món độc đáo của xã Hương Sơ gần Cầu Hậu.
Chè
Cầu Hậu, Nam Phổ chỉ còn dư âm, nhưng không phải vì vậy mà Huế đô không
còn chè gánh. Nếu không muốn hoặc không đủ sức đóng xe hay mở quán chè,
một số các bà giỏi tay nghề và chịu khó vẫn nấu chè xong gánh đi bán
khắp nơi và các chợ. Bán về đêm thường khỏi bị dán thuế, cho dù giá thuế
chưa tới một chén chè nhưng cũng là tiền là của, mua được cả vịt dầu và
mấy sợi bấc dùng cho cái đèn bão tí ti. Tiếng rao lanh lảnh, ngân nga để
khách nương theo đó mà nhận diện mụ bán chè như theo giọng hát mà phân
biệt ca sĩ. Do đó, tuy cùng đi trên một con đường, nhưng mấy mụ vẫn có
khách riêng. Ra bán chè gánh ngoài chợ thì khác, khách thập phương
thường dễ dàng, ít kén chọn. Mưa lạnh bán cháo, nắng ráo bán chè, đây là
nghề của một số những người tuy thuộc giới buôn thúng bán bưng nhưng có
thêm tài khéo cho đôi quang gánh của mình.
Thời
buổi thanh bình, đêm ngu không cần đóng cửa. Mùa hè nóng bức, buổi tối
thường bắc ghế ra trước sân ngồi nói chuyện. Có khi lại kê giường ra ngủ
cả đêm. Nửa khuya lỡ sương xuống lạnh thì lại lộn trở vô trong nhà ngủ
tiếp. Nhà ai ở gần bờ sông thì không nói chi, còn như ở trong khu bí gió
thì chiều chiều ra đứng chơi hóng mát trên cầu sắt Đông Ba, cầu Gia Hội
hay cầu Trường Tiền. Cầu Đông Ba đen thui lênh khênh chật hẹp, cầu Gia
Hội trắng xám thấp thấp ồn ào. Chỉ có cầu Trường Tiền là lý tưởng. Khách
hóng mát thường đứng nơi khúc nối hai nhịp cầu, chỗ nương theo chân cầu
xây vòng ra.
Vườn
hoa Nguyễn Hoàng sát chân cầu Trường Tiền bên phố Huế là nơi hẹn hò của
những cặp tình nhân. Họ chia cho nhau chén chè chìm dưới ánh đèn dầu
lung linh diễm ảo! Hết rồi, nét lãng mạn tàn phai theo chiến cuộc. Thời
buổi kinh tế khó khăn, khách ăn chè chìm trong công viên nay chi còn mấy
cái thằng đực rất thực tế, cuộc đời không tương lai, chẳng muốn bao tình
nhân vớ vẫn như các bậc đàn anh, biến món chè chìm thành chè đút. Gốc
gác của mấy o bán chè cũng khác hẳn ngày xưa. Chè trước tê và chè sau
ni, tuy cùng một tiếng chè nhưng ý nghĩa nhiều khi vô cùng khác biệt!
XÓM
CŨ SÔNG ĐÀO
Nói
loanh quanh ba cái chuyện chè xôi của cái thời xa xưa ít ai nhắc đến,
nhiều khi nghe bắt mẹt. Chén chè gió tuy không làm rêu nước miếng nhưng
cũng đủ luyến xưa mấy chữ mọi lần. Người Huế khi nhắc mớ chuyện năm xưa,
thường bắt đầu với hai chữ mọi lần. Mọi lần ra cầu Hậu chơi, ghé thăm
ông Đốc Bò bàn chuyện Hồng Hoa Nữ. Con đường dọc theo sông Tả Hộ Thành
tức là sông Gia Hội nối sông Đông Ba, quanh qua Thanh Tước sát cống Cửa
Trải, trải đá phẳng phiu. Cống Thanh Long rộn ràng gót chân học sinh
trường Ca-dét. Nhìn nghiêng qua lò Tể Sinh là nơi cung cấp thịt tươi cho
cả thành phố huế có ông Đốc Bò đậu chiếc xe hơi đen trước cửa văn phòng.
Triều Bảo Đại, cả xứ Huế chỉ có mỗi mình ông là ông Đốc Thú Y, tốt
nghiệp nghe mô ngoài Hà Nội. Tên thiệt của ông là Đào Văn Trung nhưng
người Huế rất mực thân thương cứ gọi là ông Đốc Bò.
Ngày
hai buổi, ông Đốc Bò lái xe từ xóm Cầu Hậu đến A-ba-toa làm việc. Xe của
ông cũng chẳng thua chi xe Ngài ngự trong cung. Ông chỉ chơi với Tây,
cuối tuần đi đánh tê-nít bên Xẹc, sau đó trên đường về tiện thể ghé qua
nhà Hồng Cô Nương trên phố Huế nghỉ ngơi. Bà Đốc Bò biết chuyện, nhưng
vẫn an nhiên không thèm vấn kế Hoạn Thư vì Hồng Cô Nương cũng là gái có
chồng! Ra chơi nhà ông Đốc Bò, phải qua khúc quanh đồn Mang Cá Lớn, giáp
mí Bao Vinh. Con Đường Cửa Hậu mang tên Tây là Route de Cua Hau bắt đầu
từ đây chạy thẳng về phía tây hơn bốn cây số gặp quốc lộ số 1 tại An
Hòa. Phía bắc đồn Mang Cá Lớn, có bãi đất trống dùng làm nghĩa trang
chôn lính Pháp, mọc sừng sững một cây xoài cao ngất, nổi tiếng nhiều ma.
Sau nhưng cơn mưa dông, chất phốt-pho bốc lên cháy lập lòe trong màn đêm
tối mịt khiến người đi trên đường Cửa Hậu trường líu quíu bước chân run.
Đường Cửa Hậu nằm chính giữa và chạy dọc theo hào Hộ Thành và con sông
đào hậu Hộ Thành. Phía giáp bờ Hào về hướng kinh thành không trồng cây.
Phía bên tê đường xanh um tre cau vườn tược dày cả mấy trăm thước tây ra
tới tận bờ sông Đào hậu Hộ Thành. Phía trước sân nhà nhìn ra con đường
Cửa Hậu thẳng ro. Đằng sau vườn thông xuống bến nước Sông Đào trong xanh
thoáng mát. Nhà ở đây đi xe hay đi đò, đều tiện lợi đôi bề. Không kể nhà
tranh vách đất của thường dân, đếm nhà ngói cây mít xây theo kiểu phủ
phòng cợ mô chừng năm bảy cái trên suốt cả con đường.
Cửa
Hậu xa xưa. Vì xứ Huế là một nơi ai cũng quen nhau, cho nên chỉ một khúc
đường hơn bốn ngàn cây số thì người ta lại càng quen nhau hơn nữa. Từ
Bao Vinh, ra nhà ông Đốc Bò phải ngang qua năm chỗ khó quên. Trước hết
là qua nhà Dì Lan, vợ ông chủ nhà in Đắc Lập. Sự thành công của nhà in
Đắc Lập khiến ai cũng phải gật gù!
Qua
khỏi nhà của ông Hutter giám đốc nhà in Đắc Lập, là nhà ông Thị Tôn Thất
Phú. Ái nữ Kim Ninh học trường "đầm", sau ngày hồi cư quen với thư sinh
Lê Mộng Ngân. Sinh gửi cô nương giữ hộ cái "ba lô" trước khi vào Nam,
làm thơ tình đăng trên báo Tiếng Kèn sau này đổi tên là Tô Kiều Ngân.
Qua
khỏi nhà ông Thị Phú là nhà cụ Ưng Lê. Anh chị em trong phủ hay bà con
thân thuộc thường gọi Mệ Phó Si. Ngày trước Mê làm Phó sứ Triệu Tường
nên bà con vẫn gọi là quan Phó, ông Phó tùy theo trường hợp quen biết.
Mê Phó dáng người hào hoa, đẹp trai, ăn nói có duyên, giao thiệp rộng,
quen biết nhiều, tính tình rộng rãi, vui vẻ, xuề xòa, nghe Mệ nói ai nấy
đều kính nể, có người đâm mê tiếng nói vui đùa nhẹ nhàng của Mệ.
Ba năm
một lần có lễ tế Nam Giao, vua đều sai bộ Lễ đặc cử Mê làm Khâm Mạng.
Mặc triều phục, Mệ cỡi ngựa đi đầu đoàn đạo ngư ngó thiệt đẹp, thiệt
long trọng. Hai nhà chụp bóng nổi tiếng ở Huế, Photo Tôn Thất Dung và
Photo Tăng Vinh hồi trước đều có trưng bày hình quan Khâm Mạng tế Nam
Giao.
Nhà
quan có tang gia, mời Mê làm chấp lệnh. Trong lúc trời sắp sáng, Mê điều
khiển đoàn phu đám mỗi người hai tay cầm hai cây đèn sáp trong nâng lên
hạ xuống theo chiều nhịp nhàng bước chân từ ngoài cổng vào quanh áo quan
thấy mà mê. Chén nước đầy trên áo quan lúc di chuyển không chút lăn tăn
gợn sóng. Khúc hò nện đất theo nhịp chày khiến cho kẻ vô tri không quen
biết với người nằm xuống cũng phải khóc òa.
Đám
cưới con nhà quyền thế vẫn mời Mệ đứng chủ hôn. Quan viên hai họ muốn
khóc cười thế nào, Mê cho như ý. Mệ Phó thuộc phủ An Phước Vương ở mô
ngoài đường Ngự Viên, nhưng theo gia đình bà vợ cả người Huế, Mê lập
dinh cư tận ngoài Cửa Hậu. Nhà cửa khang trang, sân vườn rộng rãi. Để
nhà đỡ trống vắng, Mê ra Bắc rước về thêm một bà. Vẫn chưa đủ, Mệ vào
Nam rước thêm bà nữa. Mệ thống nhất Bắc Trung Nam một cách ngon lành,
trong nhà ba miền riêng một chắc không bao giờ có chuyện ghen tuông lớn
tiếng.
Mệ lại
có chùa khuôn hội. Phía sau chùa Mệ lập am Hoằng Hóa Điện. Mệ còn lên
tận điện Hòn Chén cất đền Hội Các. Điện Hoằng Hóa của Mệ ngày rằm mùng
một luôn luôn nghi ngút neon hương và tiếng nhạc chầu văn chầu hầu các
thánh. Hệ phái Thiên Tiên Thánh Mẫu của Mệ rất lớn, phần đông [à phụ nữ.
Hàng năm, lệ rước bằng lên điện Hòn Chén đều do Mệ tổ chức. Tín hậu cột,
xếp những chiếc thuyền rộng lại với nhau, lót ván vững vàng, dựng các
tòa kiệu, kết hoa giăng đèn để làm chiếc bằng rước hầu trên điện. Số
bằng tham dự phần lớn phát xuất từ điện Hoằng Hóa, thường đậu chật cả
một khúc sông Hậu Hộ Thành. Có năm Mệ cho đi bộ, diễn hành thiệt hay.
Ngày
Mệ về chầu Thánh Mẫu, cả mấy sư đoàn phụ nữ thuộc con cháu bà Chúa Thánh
Mẫu Liễu Hạnh, các thánh Thiên Y A Na, các cô Tám, cô Chín Thượng Ngàn,
các ông quận Bát, quận Cửu v.v. đi đưa. Đoàn người kéo dài trong trật
tự. Đầu đám lên tới quá cầu Trường Tiền, cuối đám vẫn còn dưới Ngự Viên.
Đám
tang còn to hơn đám tang vua Khải Định cho dù gom lại hết số người đi
dưa qua tất cả các cửa thành. Hơn nữa, phần lớn người tham dự đám tang
vua Khải Đình là do lệnh của nhà cầm quyền, trong khi thành phần đi đưa
đám Mệ Phó là do lòng thương mến của nam nữ đạo hữu dành cho.
Con
của Mệ cũng có nhiều người nên danh phận, kể luôn trong nghệ thuật nấu
ăn. Công nương Mai Hương thôi xa xưa là hoa khôi Huế ngày nay có biệt
tài kho cá và làm mắm cà nổi tiếng ở Tiểu Sài Gòn. Công tử Bửu Lộc có
nhà hàng Sea Food World ở quận Cam, hàng năm vẫn là nơi tổ chức Ngày Nhớ
Huế, Họp Mặt Đồng Khánh Quốc Học và những hội đoàn khác thuộc cộng đồng
người Việt ở Nam california. Công nương Kim Chi vừa được bầu làm Hoa Hậu
phu nhân. Đẹp đẽ duyên dáng, thích làm chuyện phước thiện, tính tình
rộng rãi, tâm hồn phóng khoáng, công nương thường năng giữ chức trưởng
ban văn nghệ Hội Ái Hữu Quốc Học Đồng Khánh miền Nam Cali.
Trở về
xóm Cầu Hậu; qua khỏi nhà Mệ Phó là nhà Dì Giám, nằm cạnh miếng đất
trống có con đường kiệt xuống bến đò qua sông Đào. Nhà ông Đốc Bò Đào
Văn Trung gần sát con đường kiệt. Tuy năm sáu căn nhà, nhưng đi ngang
qua hết cũng mỏi chân rã cẳng. Con đường đá hoa cương ép phẳng lì sạch
sẽ dễ đi. Sau này tráng nhựa. Mấy người bán hàng đi chân không cứ theo
lối mòn đất cát pha sát vệ cỏ mà đi. Mụ Tốt chỉ bán mỗi hai thứ chè bột
lọc và chè kê lộn đậu.
Thong
thả từ Cầu Hậu xuôi về bán lần xuống Bao Vinh, bọc qua cống Thanh Long
thì hết gánh. Tiếng rao của mụ nghe răng thiệt dịu, thiệt dễ thương. Mụ
tuy tra nhưng còn mát! Mụ Bụi bán cơm hến bên bờ sông đào. Cứ chín, mười
giờ sáng, ngồi trên chiếc thuyền con bày đủ thứ, mụ cất tiếng rao hàng.
Từ nhà
ông Đốc Bò đi tiếp một hồi, sẽ gặp cửa Chánh Bắc, có cầu gỗ Huyền Yến,
bắc ngang qua sông Hậu Hộ Thành, nối vào đường Cửa Hậu. Năm Minh Mạng
thứ 21 (1840) đổi tên cầu Trường Lợi. Năm Thành Thái thứ 10 (1898) làm
thành cầu sắt. Cửa Chánh Bắc gần sát đồn Mang Cá Nhỏ, luôn luôn dòng kín,
nên cầu chẳng có ai qua lại. Vua Thành Thái cho gác sắt cầu trường lợi
để dễ bề đánh Tây! Đi thêm một cây số nữa, sẽ gặp cửa Tây Bắc, có cầu gỗ
tên Huyền Hạc, cũng bắc ngang qua sông Hậu Hộ Thành, vào đường Cửa Hậu.
Năm vua Minh Mạng thứ 20 (1839) đổi tên cầu Tịnh Tế. Cửa Tây Bắc cũng
đóng kín. Cầu Tịnh Tế không dùng, lâu ngày gỗ mục thấy tang thương. Đi
hết cây số cuối cùng của con đường Cửa Hậu sẽ gặp quốc lộ số 1 thuộc xã
An Hòa, nơi có điếm gác xảy ra cuộc đối đáp lịch sử của cụ Phan Bội Châu
và xếp đường xe lửa, Marchaise.
Chợ An
Hòa đơn giản. Cái cống Chém buồn thiu. Khu đất vốn dùng làm trường Quốc
Tử Giám với Di Luân Đường đồ sộ nay không biết nơi mô. Khoảnh đất dùng
làm Trường Thi Hương lại càng mịt mù không dấu vết. Di Luân đường đã
được dời vô trong thành gần cửa Thượng Tứ, sau thuộc khuôn viên trường
trung học Hàm Nghi, phía trước viện bảo tàng Khải Định. Trường Hàm Nghi
nay cũng mất tên. Vua Hàm Nghi Ưng Lịch và Mệ Phó Ưng Lê cùng ngang hàng
vai vế. Vua nửa đêm từ Cung Càn Thành chạy ra cửa Chánh Tây, thở dài
trên cây cầu Cửu Lợi không đèn chùng chình bước xuống đò Kẻ Vạn lao xao.
Mệ Phó bên phủ An Phước ra ở chơi ngoài xóm Sông Đào gần cửa Chánh Bắc,
hàng ngày nhìn cây cầu Trường Lợi buồn thiu. Kẻ đi, người ở. Dòng nước
con sông đào Hậu Hộ Thành vẫn lơ lửng mấy con cá tràu bông đen thui to
thật to, bơi dọc theo con đường sông Cửa Hậu. Ơi Bé Tý Cành Vàng! Xóm cũ
Sông Đào bây chừ liệu có còn êm ả như xưa?
Một
chút chi để nhớ. Một chút chi để thương. Một chút hương xưa gởi về cố
quận cho dù Độn Thành Lồi có sụt sập hư hao...
Nguồn: saigontimesusa |