| |
T́m Hiểu Dân ca Việt Nam
Trần Quang Hải
Dân ca Việt Nam rất là phong phú. Tất cả những bài ca do dân quê sáng tác và
không thuộc nhạc triều đ́nh, nhạc thính pḥng, nhạc tôn giáo th́ được xếp vào
loại dân ca.
Xứ Việt Nam với gần 80 triệu người Việt và 53 sắc tộc khác nhau thừa hương một
truyền thống dân ca đa diện.
Định nghĩa danh từ dân ca, theo tôi, là những bài ca không biết ai là tác giả,
được truyền miệng từ đời này sang đời khác, dính liền với đời sống hàng ngày của
người dân quê, từ bài hát ru con, sang các bài hát trẻ em lúc vui chơi, đến các
loại hát lúc làm việc, hát đối đáp lúc lễ hội thường niên.
Dân ca lại mang một màu sắc địa phương đặc biệt, tùy theo phong tục, ngôn ngữ,
giọng nói, và âm nhạc tính từng vùng mà khác đi đôi chút. Nhưng nh́n chung, vẫn
là bài hát thoát thai từ ḷng dân quê với tính chất mộc mạc, giản dị của nọ
Dân ca Việt Nam được tŕnh bày theo tŕnh tự một đời người, nghĩa là bắt đầu
bằng các bài hát ru em khi em bé bắt đầu chào đời, đến khi đứa bé lớn lên,
trương thành và chết đi, sẽ có những bài hát liên hệ đến từng giai đoạn của một
đời người.
Tôi xin bàn về các bài hát ru em và các bài hát nghe trong lúc trẻ em vui chơi,
nô đùạ Chúng ta thường nghe lúc c̣n ấu thơ, được chị, mẹ hay bà ngoại hoặc bà
nội ru cho ngủ. Loại hát này được gọi là hát ru (miền Bắc), ru con (miền Trung),
hay hát đưa em, ầu ơ ví dầu (miền Nam). Âm giai dùng trong loại hát ru em được
thay đổi tùy theo vùng. Ở miền Bắc, hát ru dựa vào thang âm ngũ cung (do-ré-fa-sol-la-do).
Miền Trung sử dụng âm giai tứ cung (do-fa-sol-sib-do), và miền Nam th́ chọn âm
giai ngũ cung (do-mib-fa-la-do). Người mẹ thường bày tỏ nỗi ḷng của ḿnh, hay
than van số phận hẩm hiu của ḿnh qua bài ầu ơ ví dầụ Lời ca thường lấy trong ca
dao và thể thơ là lục bát.
Ầu ơ Gió đưa bụi chuối sau hè
Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ
Con thơ tay ẩm tay bồng
Tay dắt mẹ chồng đầu đội thúng bông.
Đến khi đứa trẻ lớn lên, trong lúc chơi giỡn thường hay hát những bài mà đa số
các giai điệu đều dựa trên thang âm tam cung (do-fa-sol). Chẳng hạn, khi chơi ú
t́m, các trẻ em để ngón tay trỏ của ḿnh vào trong ḷng bàn tay của một em trong
bọn. Một đứa trẻ hát:
Chi chi chành chành
Cái đanh thổi lửa
Con ngựa chết chương
Ba vương thượng hạ
Ba cạ đi t́m
Ú tim oà ập.
Khi nói tới tiếng "ập" th́ bàn tay nắm được ngón tay người nào th́ người đó nhắm
mắt đếm để cho những người khác chạy đi trốn.
Ngoài ra c̣n có những tṛ chơi khác như đánh trơng, táng u, đánh dũa, hoặc là
oánh tù t́ (từ chữ Anh là one, two, three, nghĩa là một, hai, ba) giúp cho trẻ
em Việt Nam giải trí trong khi nhàn rỗi, ngoài giờ học hỏi ở nhà trường.
H̉
Ḥ từ chữ HÔ mà ra, có nghĩa là làm cho giọng ḿnh manh hơn. Do đó, Ḥ thường đi
đôi với việc làm nặng như kéo gỗ, chèo thuyền, đập đạ Nhưng ḥ cũng có thể hát
lúc nghỉ ngơi, lúc hội hè, lúc đám tang như ḥ đưa linh, và có khi dính liền với
một vùng nào đó như ḥ Nghệ An, ḥ Thanh Hóa, ḥ Sông Mă, ḥ Đồng Tháp.
Có ba loại Ḥ chánh:
Ḥ trong lúc làm việc, tiết điệu ăn khớp với động tác, và thường dùng những chữ
như dô ta, rố khoan, hụ là khoan, vv...
Ḥ trong lúc nghỉ xả hơi, thường là ḥ đối giữa trai gái có tính cách đùa giỡn,
chọc ghẹo hay tỏ t́nh.
Ḥ trong lúc lễ hội, thường là ḥ đối đáp để tranh giải.
Ḥ làm việc thường ḥ đông người với nhaụ Một người ḥ trước và tất cả phụ họa
theo saụ Người ḥ chánh gọi là ḥ cái và những người phụ họa gọi là ḥ con. Ḥ
chia làm hai phần: lớp trống hay vế kể th́ do một người hát, c̣n lớp mái hay vế
xô th́ do toàn thể phụ họa.
Ở miền Nam, ḥ thường nghe trên sông, hay lúc làm việc ngoài ruộng. Mỗi tỉnh,
mỗi vùng có những loại ḥ đặc biệt. Do đó có tên gọi như ḥ Bến Tre, ḥ Cần Thơ,
ḥ Đồng Tháp.
Ở tỉnh Bến Tre, có thể có loại ḥ như sau:
Ḥ ớ ơ Xứ nào vui cho bằng xứ Cù Lao, ớ ợ Ḥ ớ ợ Tiếng muỗi kêu như ống sáo thổi
Bông mọc như hàng rào sương lư, ớ ợ Hoặc xuyên qua câu ḥ, chúng ta có thể biết
người ḥ thuộc địa phương nào như:
Ḥ, ớ ơ.
Ghe anh nhỏ mũi trắng lườn
Ở trên Gia Định xuống vườn thăm em, ớ ơ.
Ḥ miền Nam gồm có ḥ ba lư xuất xứ từ bài Bá Lư Hề của cải lương rất được thông
dụng giữa các ca sĩ chuyên nghiệp. Ḥ theo điệu ai oán dùng để kể chuyện. A li
ḥ lờ xuất hiện khoảng 50 năm nay thôi, dùng thể thơ lục bát. Ḥ lô tô, ḥ cấy,
vv... Các loại ḥ thường được ứng khẩu tùy hứng, nhạc th́ chỉ có một giai điệu
duy nhứt, hay theo một thang âm đặc biệt miền Nam (do-mib-fa-sol-la-do).
Miền Trung là nơi tập trung của nhiều loại ḥ và nhiều giai điệu hơn hai miền
Bắc và Nam. Ngoài loại ḥ làm việc, ḥ đối, c̣n có ḥ đưa đám mạ Ở Thanh Hóa có
ḥ sông Mă được chia làm năm loại ḥ tùy theo giai đoạn: ḥ rời bến, ḥ đ̣ ngược,
ḥ đ̣ xuôi, ḥ mắc cạn, ḥ cập bến, với các đoạn kể, xô nhịp nhàng theo nhịp một,
nhịp hai.
Trong khi chèo thuyền, chúng ta c̣n được nghe các loại ḥ mái xấp, ḥ mái nh́,
ḥ mái đẩy. Có giả thuyết cho rằng mái có nghĩa là mái chèo, và c̣n có giả
thuyết khác nữa cho rằng mái là đàn bà đối với trống là đàn ông. C̣n xấp có
nghĩa là mau hơn, nh́ có nghĩa là đôi, là phải hát hai lần, c̣n đẩy có nghĩa là
làm cho thuyền đi tớị Ở vùng Thừa Thiên, Quảng Trị c̣n nghe ḥ mái ba nghĩa là
phải hát ba lần.
Các loại ḥ làm việc như ḥ đạp nước, ḥ tát nước, ḥ khiêng nước, ḥ xay lúa,
ḥ giă gạo, ḥ giă đậu, ḥ giă vôi, ḥ mài dừa,v.v...
Khi leo giốc, th́ có ḥ leo dốc. Khi đập đá th́ có ḥ nện hay ḥ hụị Tiết tấu
rất nhanh, và theo nhịp đập đạ Người kể hát một đoạn, th́ toàn thể hát "hụ là
khoan" để làm tăng sức mạnh khi làm việc.
Ở miền Bắc, ḥ đẩy xe, ḥ kéo gỗ rất được phổ thông. Một người hát một câu th́
cả đám hát rố khoan, rố khoan rố khuầy hay hố khoan trong điệu bắt cái hố khoan
hay bắt cá ḥ khoan do các người chài lưới hát. Ngoài ra, chúng ta c̣n t́m thấy
điệu ḥ giă vôi và ḥ dứt chỉ ở miền Bắc nữa.
Hầu hết các điệu ḥ ở Việt Nam đều dùng thể thơ lục bát với thể thức thêm những
chữ không có nghĩa vào như "là hụ là khoan, rố khoan rố khuầy", v.v... Với nghệ
thuật ngắt câu khác nhau tùy theo từng điệu ḥ hoàn toàn khác biệt và phong phú
qua tài sáng tác của các người dân quê, kho tàng dân ca do đó ngày càng to lớn
hơn và xuyên qua các lời ca trong điệu ḥ, chúng ta thấy một nền văn chương b́nh
dân phản ảnh trung thực ngôn ngữ của tiếng nói Việt Nam.
LƯ
Miền Nam có rất nhiều điệu ḥ và lỵ Những bài nào không thuộc vào ḥ th́ là lỵ
Có Lư chim khuyên, Lư bông lựu, Lư chuồn chuồn, Lư cây chanh, Lư chè hương, Lư
bỏ b́a, Lư con khỉ đột, Lư ngựa ô, Lư quạ kêu.
Lời ca rất mộc mạc, chỉ hai câu thơ lục bát trong bài Lư chim khuyên như:
Chim khuyên ăn trái nhăn lồng
Lia thia quen chậu, vợ chồng quen hơi
mà được hát thành:
Chim khuyên (quầy a) ăn trái (quây a) Nhăn lồng (à), nhăn lồng , ớ con bạn ḿnh
ơi ! Lia thia (quầy a) quen chậu (quây a) Vợ chồng (à), vợ chồng, ớ con bạn quen
hơi.
Miền Trung có thể nói là trung tâm của các điệu lư và họ Lư có nghĩa là hát của
giai cấp dân quê (do chữ lư làng mà ra), so với Ca Huế thuộc giai cấp vua chúa,
quan liêu trí thức. Tất cả điệu lư được thoát thai từ các bài hát chèo, ca Huế,
hát tuồng, và hát cải lương.
Điệu lư giao duyên bốn mùa hay lư vọng phu được hát theo điệu Nam ai Trung
chuyển sang Ai Oán Nam khi xuống tới miền Nam và trở thành lư bốn mùa hay lư ru
con. Thể thơ được dùng là thất ngôn:
Thí dụ như:
Giăi sông Ngân mây rầu rầu chuyển
Một bước đường trời biển chia hai
Hỡi nàng nàng ơi!
Anh dặn một lời xưa nhớ đừng quên.
Từ đó các nhà nho mới đem vào Ca Huế và đổi tên lại thành
lư giao duyên 12 tháng
như:
Đầu tháng giêng măn thiên xuân sắc
Ai nấy vui mưng thiếp bặt mắt trông
Qua tháng hai bông hoa nhài ướm nở
Thiếp luống trông chàng vừa trở gió đông,
v.v...
Hát giao duyên với loại thơ thất ngôn cũng được dùng trong hát chèo. Đến khi bài
Lư giao duyên được sử dụng với thể thơ lục bát qua hai câu thơ:
Ai đem con sáo sang sông
Để cho con sáo sổ lồng bay xa.
Th́ lại được đổi lại là Lư con sáo. Điệu Lư con sáo rất được quăng bá ở ba miền
Bắc, Trung, Nam. Mỗi miền với thang âm đặc thù đă tạo ra ba điệu lư khác nhau:
Lư con sáo Bắc, Lư con sáo Trung, và Lư con sáo Nam. Ngoài ra, chúng ta c̣n biết
thêm một điệu Lư con sáo nữa là Lư con sáo Quảng.
Ở Thừa Thiên, khi hát bài lư con sáo, thay v́ hát đoạn "ơi người ơi", lại hát
"tang t́nh tang". Bài lư con sáo được gọi là Lư t́nh tang,và khi hát bài 10
thương th́ được đổi thành lư mười thương.
Các điệu lư đều dựa trên thể thơ lục bát trên âm giai tứ cung nhu bài lư ba cô,
lư lượn, hoặc âm giai ngũ cung như bài lư bắt bướm hay lư cây đa.
Nghệ thuật sử dụng thể thơ lục bát của người Việt rất tài t́nh. Qua hai bài Lư
con sáo Trung và Nam, chúng ta nhận thấy dân tộc Việt Nam đưa vào những tiếng
đệm bằng cách lập lại những chữ trong câu chẳng hạn nhu "í a, ố tang t́nh tang",
vv mà làm cho nhạc điệu trở nên phong phú vô cùng.
Dân ca do đó đi sâu vào ḷng dân và đôi khi c̣n ảnh hương rất mạnh vào nhạc
thính pḥng Ca Huế hay Đàn Tài Tử miền Nam hoặc vào các điệu hát Chèo, Cải lương.
Hát hội
Hát hội là loại hát đối giữa trai gái tùy hứng ca hát đối đáp thi tài cao thấp
trong những dịp lễ đầu xuân hay thu, hoặc khi đêm trăng thanh gió mát sau một
ngày làm việc mệt nhọc ngoài đồng.
Hát hội có nhiều loại: hát trống quân, hát quan họ, c̣ lả ở vùng Bắc Ninh, hát
đúm ở Hải Dương, hát phường vải ở Nghệ Tĩnh, hát ghẹo ở Thanh Hóa, hát xoan ở
Phú Thọ, v.v..
Hát hội hay hát đối đều mang những đặc điểm chung như sau:
Người hát, làng xă, phải đối nhau chẳng hạn nhóm nam ca sĩ đối lại với nhóm nữ
ca sĩ, và thuộc làng xă khác nhau
Hầu hết đều là t́nh ca để đưa đến hôn nhân.
Đặc tính đoàn thể rất được nhấn mạnh, như trong quan họ có tục kết bạn và phải
thuộc vào gia đ́nh quan ho Truyền thống này được thấy ở hát ghẹo ở Thanh Hóa, và
hát xoan ở Phú Thọ có tục lệ "nước nghĩa".
Thi đua là một trong những đặc tính quan trọng. Trong một cuộc hát đối, các
người hát thi đua về trí nhớ, lời ca, óc nhạy bén, phải tùy cơ ứng biến, khi gặp
khó khăn, tài sáng tác tùy hứng, và kỹ thuật ca hát phải có tŕnh độ cao. Do đó,
các làng xă xứ ta thường hay tổ chức hát lấy giải.
Đặc tính bán chuyên nghiệp. Người hát quan họ phải thuộc một số bài căn bản,
phải luyện tập thường xuyên. Do đó mới có tục lệ ngủ bọn, nghĩa là các người hát
cùng chung một nhóm thường tựu hợp ở nhà của một người trong bọn, ăn ngủ tại đó
để có th́ giờ học tập với nhau và tập hát gọi là bẽ giọng.
Hát hội xảy ra trong một phạm vi địa lư nhỏ hẹp, nhứt là ở Bắc Ninh, Thanh Hóa,
Phú Thọ miền Bắc xứ Việt Nam mà thôi.
Mỗi cuộc thi hát như thế thường chia làm ba hay bốn giai đoạn:
Hát mời ăn trầu trong trống quân
Hát giọng lề lối trong quan họ
Hát dạo, hát chào, hát mừng, hát hỏi trong hát phường vải
Hát dạo, hát mừng, hát thăm trong hát ghẹo
Sau khi hát mở đầu th́ đến phần hát thi. Phần này, bắt đầu các bài hát khó v́
phải sáng tác tại chỗ, như hát trả lời câu đố trong trống quân, giọng sỗng,
giọng vặt trong quan họ,hát đố, hát đối trong phường vải, và hát đối, hát đố,
hát xe kết trong hát ghẹo. Chẳng hạn như trong bài hát trả lời câu đố trong
trống quân, bên gái ra câu đố th́ bên trai phải giải cho trúng và đố lại. Bên
nào không đối được th́ kể như thua. Loại hát này được đệm bằng một nhạc khí đặc
biệt là cây trống quân hay thổ cô. Một cây mây dài bốn, năm thước căng ṿng cầu
bắt ngang một cái hố được đào ngay điểm giữa cây mây. Một người hát đánh vào cây
mây để đệm, tạo âm thanh giống như tiếng trống.
Cuộc thi hát tiếp tục sang giai đoạn ba với các bài hát khen tặng trong trống
quân, hát mời, hát xe kết trong phường vải, và giọng hăm, giọng huỳnh trong quan
họ.
Sau cùng là hát tiễn như trong phường vải, hát giă bạn trong quan họ, hát thề,
hát dặn, hát tiễn trong hát ghẹo.
Ḥ, lư, hát hội với Trống quân, Quan Họ, Hát phường vải, Hát ghẹo, Hát xoan, c̣
lả,vv... rất gần với chúng ta qua lời ca đơn giản, diễn đạt tất cả h́nh ảnh sống
động của xă hội nông thôn Việt Nam và mỗi người hát là một nhà thơ.
HÁT VÈ / NÓI VÈ
Vè là một bài văn kể một chuyện đặc biệt xảy ra và ngụ ư khen chê. Bài văn làm
theo thể thơ bốn chữ, năm chữ, lục bát, hay song thất lục bát hoặc các thể thơ
biến thể. Hát những câu vè thường lấy giọng đọc lên, không có đệm trên, đệm giữa,
hay đệm dưới như các lối hát dân ca khác, nhưng dựa trên nhịp 2/4. Ở miền Nam,
những câu vè về trái cây, các loại cá, các thứ bánh, vv... ngoài lối vè kể
chuyện. Các câu vè thường bắt đầu bằng sáu chữ
Nghe vẻ nghe ve Nghe ve
Thí dụ vè trái cây:
Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè trái cây
Dây ở trên mây
Là trái đậu rồng
Có vợ có chồng
Là trái đu đủ
Chặt ra nhiều mủ
Là trái mít ướt
H́nh tựa gà xước
Vốn thiệt trái thơm
Cái đầu chơm bơm
Đúng là bắp nấu
H́nh thù xâu xấu
Trái cà dái dê
Ngứa mà găi mê
Là trái mắt mèo
v.v...
Hát vè để tiêu khiển trong lúc làm việc, hát lúc nhàn rỗi một ḿnh. Hát vè không
có nhạc, nhưng có tiết điệu. Gần đây ở Việt Nam, có nhiều nhóm nhạc trẻ đă
chuyển hát vè thành nhạc Rap rất được ưa thích.
Dân ca Việt Nam rất phong phú, đa dạng, dính liền với bài ca hơn là với dàn nhạc,
và nhạc khí. Dân ca đi liền với tiếng hát ru, đồng dao, tṛ chơi trẻ em, đến các
điệu ḥ, lư, các điệu hát trong khi làm việc, trong các lễ hội tạo cơ hội cho
thế hệ gặp nhau qua các loại hát giao duyên, qua tục "nước nghĩa", "kết bạn", "ngủ
bọn ". Mức sáng tác bài bản mới vượt qua những thể loại nhạc cung đ́nh, nhạc bác
học, nhạc thính pḥng và đưa vào trong văn chương b́nh dân những đóng góp đáng
kể (hát quan họ, hát phường vải). Phần nhiều chỉ có tùy hứng lời trên một điệu
nhạc (hát trống quân, c̣ lả). Chỉ có hát quan họ là vừa sáng tác lời lẫn nhạc.
Hiện có trên 700 làn điệu khác nhau trong truyền thống hát quan họ. Hiểu được
dân ca Việt Nam sẽ mang lại một niềm tự hào cho chính ḿnh, tạo một sự hănh diện
trong ḷng khi xứ ḿnh có một nền văn học dân gian phong phụ Ngoài dân tộc Việt
hay Kinh, chúng ta c̣n có 53 sắc tộc anh em sống rải rác trên khắp lănh thổ Việt
Nam với hàng trăm thể loại dân ca, nhạc khí hoàn toàn khác với dân tộc Việt. Đó
là đề tài nghiên cứu trong tương lai.
Trần Quang Hải,
Paris, Pháp
Sách tham khảo Bảo Vân 1979: Tục ngữ, ca dao và dân ca , nxb Quê Hương, 304
trang, Toronto, Canada. Đặng Văn Lung, Hồng Thao, Trần Linh Quư 1978: Quan Họ:
nguồn gốc và quá tŕnh phát triển , nhà xuất bản Khoa Học xă hội, 527 trang, Hà
Nội. Lê Giang, Lê Anh Trung 1991: những bài hát ru, nxb Văn Nghệ, 180 trang, TP
Hồ Chí Minh. Lư Nhất Vũ 1981: Dân ca Bến Tre, Ty Văn Hóa và Thông Tin Bến Tre,
346 trang, Bến Tre. Lư Nhất Vũ, Lê Giang, Nguyễn Văn Hoa 1985: Dân ca Kiên Giang,
Sở Văn Hóa và Thông Tin Kiên Giang, 483 trang, Kiên Giang. Lư Nhất Vũ, Lê Giang,
Nguyễn Văn Hoa, Thạch An 1986: Dân ca Cửu Long, Sở Văn Hóa và Thông tin Cửu
Long, 391 trang, Cửu Long. Lư Nhất Vũ, Lê Giang, Nguyễn Văn Hoa, Minh Luân 1986:
Dân ca Hậu Giang, Sở Văn Hóa và Thông Tin Hậu Giang, 666 trang, Hậu Giang Lư
Nhất Vũ, Lê Giang (chủ biên) 1995: Dân ca Đồng Tháp, nxb Tổng Hợp Đồng Tháp, 520
trang, Đồng Tháp. Lưu Hữu Phước, Nguyễn Văn Phú, Nguyễn Viêm, Tú Ngọc 1962: Dân
ca Quan Họ Bắc Ninh , nxb Văn Hóa, Viện Văn Học, 340 trang, Hà Nội. Nguyễn Chung
Anh 1958: Hát Ví Nghệ Tĩnh, 147 trang, Hà Nội. Nguyễn Đổng Chi, Ninh Viết Giao
1942: Hát Giặm, quyển 1, 348 trang, Hà Nội 1944: Hát Giặm, quyển 2, 340 trang,
Hà Nội Nguyễn Văn Huyên 1934: Les Chants Alternés des Garcons et des Filles en
Annam , Paul Gueuthner, 224 trang, Paris, Pháp. 1997: "Hát đối của nam nữ thanh
niên ở Việt Nam", Nghiên Cứu Văn Nghệ Dân Gian Việt Nam, tập 1, nhiêù tác giả,
nxb Văn Hóa Dân Tộc,trang 11-216, Hà Nội. Nhóm Lam Sơn 1965: Dân ca Thanh Hóa,
nxb Văn Học, 286 trang, Hà Nội. Phạm Duy 1975: Musics of Vietnam (Nhạc Việt
Nam), Dale R. Whiteside (xb) Southern Illinois University Press, Carbondale, Hoa
Kỳ. Toan Ánh 1970: Cầm Ca Việt Nam , nxb Lá Bối, 270 trang, Saigon. Trần Quang
Hải 1989: Âm Nhạc Việt Nam, biên khảo, nxb Bắc Đẩu, 361 trang, Paris, Pháp. Trần
Văn Khê 1967:Vietnam (les traditions musicales) (Việt Nam, truyền thống âm nhạc),
nxb Buchet/Chastel, 224 trang, Paris, Pháp (tái bản năm 1996) Trần Việt Ngữ,
Thành Duy 1976: Dân ca B́nh Trị Thiên , nxb Văn Học, 342 trang, Hà Nội. Tú Ngọc
1981: Bước đầu t́m hiểu hát Xoan Vĩnh Phú , Ty Văn Hóa Thông tin Vĩnh Phú. 1994:
Dân ca người Việt, nxb Âm Nhạc, Viện Âm Nhạc, Hà Nội. (Giải thưởng Hội Nhạc sĩ
Việt Nam 1995) 1997: Hát Xoan: dân ca lễ nghi -phong tục, nxb Viện Âm Nhạc, 216
trang, Hà Nội.
Vietnam / Reves et Realite: Tran Quang Hai et Bach Yen
. (Việt Nam / Giấc Mơ và Sự Thật : Trần Quang Hải và Bạch Yến) 1988. Nhà xuất
bản (CD) Playasound PS 65020, Paris, Pháp.
Fêtes Traditionnelles Vietnamiennes / Trân Quang Hai & Bach Yên ( Lễ Truyền
Thống Việt Nam / Trần Quang Hải và Bạch Yến) 1996. Nhà xuất bản (CD) Studio SM,
Paris, Pháp.
Khac Chi Ensemble / Moonlight in Vietnam. (Ban Khắc Chí / Ánh Trăng Việt Nam)
1997.Nhà xuất bản (CD) Henry Street Records HSR 000, Canada..
Songs of the Banyan - Phong Nguyên Ensemble, 1997. Nhà xuất bản Latitude LAT
50607, North Carolina, Hoa kỳ.
|