|
Tiêu chí kiểm định đạo đức
con người qua tục ngữ, thơ ca dân gian Việt Nam Lê Huy Thực
Triết học
Tục ngữ, thơ ca dân gian Việt Nam là kết quả lao động sáng tạo, thể
hiện những tài triết lư sâu sắc được đúc rút từ thực tiễn của cha ông ta.
Chúng ta thấy trong đó chứa đựng nhiều việc cụ thể, hoặc nhận thức cảm tính
và suy luận… Mặc dù vậy, tục ngữ, thơ ca dân gian Việt Nam cũng thừa nhận
rằng, việc kiểm định đạo đức con người không phải là dễ dàng, đơn giản; song
không phải v́ thế mà ư nghĩa của tục ngữ, thơ ca dân gian Việt Nam giảm đi,
mà trái lại, càng nói lên giá trị hiện thực của loại h́nh văn học độc đáo
này.
T́m hiểu tục ngữ, thơ ca dân gian Việt Nam, chúng ta thấy các tác giả của
loại h́nh văn học độc đáo này đă băn khoăn, trăn trở rất nhiều xung quanh
vấn đề xác định tiêu chí kiểm định đạo đức con người. Sở dĩ như vậy là v́,
theo họ, thực tế đă có không ít trường hợp sai lầm trong nhận thức, kiểm
định đạo đức dẫn đến sự nguy hiểm và nỗi đau một cách vô lư cho con người;
chẳng hạn, như "rắn độc nằm cuộn khúc lại tưởng là rồng vàng" hoặc
vàng đích thật chứ không phải thau, nhưng bởi ai đó đa nghi, chắc
lép, tăm tối… nên cứ đem ra "thử lửa".
Theo sáng tác phẩm tục ngữ, thơ ca dân gian Việt
Nam, có thể dựa vào nhiều tiêu
chí khác nhau để kiểm tra, khẳng định phẩm chất đạo đức của con người. Một
trong nhiều tiêu chí đó là thực tế khách quan - cái tồn tại hiện thực, ngoài
ư thức con người.
Thực tế khách quan đó có thể là những biến cố lịch sử trọng đại, như
chiến tranh chẳng hạn. Những câu tục ngữ: "Đường dài hay sức ngựa, nước
loạn biết tôi ngay", "Gặp cơn đại loạn mới hay trung thần"(1)
là sự đúc kết kinh nghiệm, rút ra bài học về phẩm chất đạo đức của bề tôi
đối với vua chúa, minh chủ… bộc lộ trong chiến tranh. Nghĩa đen của những
triết lư trên là như vậy. Với nghĩa bóng th́ những câu triết luận đó có nội
dung, ư nghĩa rộng hơn nhiều: vua, chúa, minh chủ... có thể là các cán bộ
lănh đạo cấp pḥng, viện, vụ, trường phổ thông, trường đại học... thời nay;
"tôi ngay", "trung thần" ở đây là nhân viên, đảng viên, cán bộ cấp dưới của
những vị lănh đạo; "nước loạn", "đại loạn" có thể chỉ là những mâu thuẫn,
đấu tranh trong nội bộ một cơ quan, một nhóm người này với nhóm nhỏ người
kia.
Theo các tác giả của tục ngữ Việt Nam th́ trong hoà b́nh yên vui, phẩm
chất đạo đức của con người ít được bộc lộ và do vậy, khó nhận biết đâu là
người trung, đâu là kẻ xu nịnh; chỉ trong những hoàn cảnh khó khăn, khi có
sự biến lịch sử, đất nước lâm nguy… bản chất kiên trung, tấm ḷng son đỏ
hoặc tim đen của con người mới được kiểm chứng cụ thể, rơ ràng. Lịch sử đấu
tranh dựng nước, giữ nước, bảo vệ Tổ quốc, đánh đuổi giặc ngoại xâm của dân
tộc ta đă có nhiều nhân chứng, sự kiện làm tường minh những triết lư đạo đức
trên đây. Khi giặc Nguyên xâm lược nước ta hồi thế kỷ XIII, v́ hèn nhát và
bạc nhược, Trần ích Tắc đă bán rẻ hoàng tộc, phản bội Tổ quốc và nhân dân,
cam tâm đầu hàng giặc để đổi lấy tước vị bù nh́n - An Nam quốc vương. Nhưng,
cũng trong bối cảnh lịch sử ấy, với câu nói bất hủ: "Nếu bệ hạ muốn hàng,
xin trước hết hăy chém đầu tôi đi đă", Trần Quốc Tuấn đă đem lại niềm
tin, ư chí sắt đá, quyết chiến cho nhà vua và thể hiện phẩm chất của một bề
tôi trung; hơn thế, trở thành người anh hùng của dân tộc.
Hàng loạt những công việc, hành động cụ thể khác của con người được tục
ngữ, thơ ca dân gian Việt
Nam lấy làm tiêu chí kiểm định
đạo đức. Nhận xét khái quát này thể hiện qua triết luận: "Xem trong bếp,
biết nết đàn bà"(2). Câu ấy có nội dung, ư nghĩa vào loại
đơn giản, dễ hiểu nhất. Tác giả của nó muốn diễn đạt: cứ trông trong bếp,
nếu thấy gọn gàng, ngăn nắp, sạch sẽ th́ biết nết lao động, cũng như biết
đức hạnh của bà (hoặc chị, hoặc cô) chủ là tốt; ngược lại, nh́n thấy bếp bừa
băi, lộn xộn, bẩn thỉu th́ biết ngay là chủ nhân của nhà bếp đó thuộc loại
người xấu nết, phẩm chất có vấn đề và phải được, xem xét. Bài ca dao ngụ
ngôn dưới đây là cũng lấy việc làm, hành động là tiêu chí kiểm định đạo đức:
"Cái C̣, cái Vạc, cái Nông / Sao mày dẫm lúa nhà ông hỡi C̣/ Không không
tôi đứng trên bờ/ Mẹ con cái Vạc đổ ngờ cho tôi / Chẳng tin th́ ông đi đôi /
Mẹ con nhà nó c̣n ngồi đây kia"(3). Mẹ con nhà Vạc là kẻ ác,
dẫm lúa của người ta lại đổ lỗi đó cho C̣. Những kẻ nhẫn tâm như mẹ con nhà
Vạc trong bài ca dao này bị người đời chê trách, lên án gọi là kẻ "gắp
lửa bỏ tay người".
Đáng tiếc là, trong cuộc sống thường nhật của chúng ta, vẫn có một số
người được học hành tử tế, thậm chí c̣n có hàm vị khoa học khá cao hẳn hoi
nhưng lại không được như nhân vật C̣ trong bài ca dao ngụ ngôn nói trên, tức
là không dựa vào việc làm, hành động cụ thể để b́nh xét, kết luận về phẩm
chất đạo đức của ai đó. Họ chỉ nghe nói, nghe phản ánh lại một cách thiếu
suy xét, chẳng cần thẩm tra… để rồi đi đến nhận xét, kết luận không đúng về
phẩm chất đạo đức của người khác.
Trong tục ngữ Việt
Nam, hoạt động có tính thực
nghiệm được coi là một trong những cơ sở để kiểm định đạo đức. Câu tục ngữ:
"Lửa thử vàng, gian nan thử đức"(4) muốn nói rằng, cần
phải thông qua công việc khó khăn gian khổ, hay một cách khái quát hơn, phải
thông qua hoạt động thực tiễn để kiểm định, đánh giá đạo đức của con người.
"Lửa" và "vàng" trong câu triết luận này là một thủ pháp nghệ thuật (ẩn dụ,
hoán dụ). Ngọn "lửa" biểu thị những khó khăn, thử thách mà con người thường
gặp trong cuộc sống và "vàng” biểu thị năng lực, bản lĩnh, phẩm chất đạo đức
của con người. Câu triết luận khác trong kho tàng tục ngữ Việt Nam: "Có
gió rung mới biết tùng bách cứng, có ngọn lửa hừng mới biết thức vàng cao"(5),
một mặt, không phải là quá trừu tượng, khó hiểu đối với người lĩnh hội; mặt
khác, quan trọng hơn, có tính khái quát cao và chứa đựng ư nghĩa, giá trị
rất sâu sắc. Cây "tùng, bách" và vật phẩm "vàng" ở đây được dùng hoán đổi
cho "phẩm chất đạo đức của con người". Qua băo táp, ta sẽ biết tùng, bách
cứng cáp, vững chắc hoặc yếu mềm, gục ngă; và qua lửa đỏ, sẽ biết được giá
trị cao hay thấp, thực hay giả của "vàng". Triết lư mà câu tục ngữ này muốn
chuyển tải không phải ǵ khác hơn là, muốn biết phẩm chất đạo đức của con
người tốt xấu như thế nào phải kiểm nghiệm qua thực tiễn.
Cuộc sống xă hội vốn phong phú, đa dạng, phức tạp; v́ thế, đạo đức của
con người cũng có nhiều cấp độ, sắc thái khác nhau. Để kiểm tra, thẩm định
và có kết luận chính xác về phẩm chất đạo đức con người quả là không đơn
giản chút nào. Thậm chí, có trường hợp, theo sáng tác tục ngữ Việt
Nam, phải kiểm định thông qua
những t́nh huống "giả định" như thật, chẳng hạn như: “chết giả mới biết
dạ anh em"(6). Khi đọc câu tục ngữ Việt Nam này, người viết
liên tưởng đến Trang Tử - triết gia, nhà tư tưởng lừng danh của Trung Quốc
cổ đại, tác giả cuốn Nam Hoa Kinh bất hủ vốn được Kinh Thánh Thán - một nhà
b́nh luận nổi tiếng, nhận định là một trong sáu tác phẩm hay nhất của đất
nước có số dân đông nhất thế giới ấy. Trước đây, khi c̣n sống, Trang Tử đă
từng tự ḿnh làm một cuộc thử nghiệm - giả chết để “đo” sự đoan trang, đức
hạnh của người vợ. Kết quả là, ông đă xác minh được phẩm hạnh của người vợ
trẻ đẹp - một kẻ miệng nói thủy chung và bao lời hay, ư đẹp về phẩm chất đạo
đức, nhưng trên thực tế đă có hành động ngược lại. Như vậy, chân giá trị
trong triết lư dân gian "chết giả mới biết dạ anh em" là không thể
phủ định. Chúng ta không đề cao chủ nghĩa hoài nghi, song trong một số
trường hợp đặc biệt, việc lập t́nh huống như thật có thể là cần thiết để
kiểm định phẩm chất đạo đức của người khác. Bởi v́, nó cụ thể hoá, hiện thực
hoá được cái rất trừu tượng thuộc về lĩnh vực t́nh cảm, thầm lặng, sâu kín
trong con người.
Trong tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam, có nhiều triết lư về kiểm định
đạo đức của con người bằng cách dựa vào cảm nhận trực quan và suy luận, tức
là thông qua nhận biết cảm tính, trực tiếp bằng giác quan (tai nghe, mắt
nh́n) rồi có sự suy xét, rút ra kết luận về phẩm chất trừu tượng đó. Nếu chỉ
bằng những nhận thức cảm tính mà không có sự suy luận, người ta có thể không
tránh khỏi cái nh́n có tính ngộ nhận về phẩm chất đạo đức của ai đó. Hai
sáng tác dưới đây đều nói về một chàng trai có vợ xinh đẹp, đảm đang, nhưng
do si t́nh và giả dối, đă tán tỉnh, lừa bịp một cô gái khác. "Vợ anh như
trúc, như thông/ Như hoa mới nở, như rồng mới thêu/ Anh c̣n lưỡng lự trăm
chiều/ Gan ai là sắt dám gieo ḿnh vào/ Vợ chồng như ngọc, như ngà. Anh c̣n
ruồng rẫy nữa là thân em"; "Vợ anh như bát cơm xôi/ Anh c̣n chẳng
chuộng nữa tôi cơm hàng/ Vợ anh tay bạc tay vàng/ Anh c̣n chẳng chuộng nữa
nàng tay không..."(7). Bằng trực quan sinh động, các cô gái
trong các câu ca dao trên đă có nhận thức đúng về ḿnh, về người khác, cụ
thể là về vợ của người đang tỏ t́nh, tán tỉnh, dụ dỗ ḿnh. Các cô thấy ḿnh
kém người cùng giới được đề cập ở đây cả về sắc và về tiền tài. Vậy mà những
người vợ xinh đẹp, giàu có đó vẫn bị chồng tỏ ra hững hờ, không mấy yêu
chiều, quan tâm. Bởi thế, hai cô gái trong các câu ca dao đang khảo sát ở
đây từ chứng kiến thực tế đă suy luận có lư rằng, các cô kém hẳn những người
vợ kia th́ cũng khó tránh khỏi bị đối xử ghẻ lạnh, hoặc ruồng bỏ nếu như
trao gửi t́nh yêu cho người nói muốn xây đắp hạnh phúc lứa đôi với ḿnh. Tóm
lại, chỉ với thủ pháp làm lời độc thoại cho những cô gái trẻ, tác giả ca dao
đă chứng tỏ một cách thuyết phục rằng, từ nhận.thức cảm tính cộng thêm phép
suy luận sẽ xác nhận được phẩm chất đạo đức của con người là chân thật hay
giả dối, là thủy chung hay chỉ có trước mà không có sau.
Hàng loạt câu tục ngữ khác, như "Cây xanh th́ lá cũng xanh, cha mẹ
hiền lành để đức cho con"; "Cha anh hùng, con hảo hán"; "Của
rẻ của ôi, tôi rẻ tối trốn, vợ rẻ vợ lộn"; "Nứa trôi sông chẳng
giập th́ găy, gái chồng rẫy chẳng chứng nọ th́ tật kia”(8)
đều phản ánh sự suy luận về phẩm chất đạo đức của con người trên cơ sở những
nhận thức trực quan, cảm tính. Nội dung, ư nghĩa chính được hàm chứa trong
các triết lư trên và chuyển tải đến người tiếp cận chúng là: bởi cha mẹ hiền,
suy ra con cái họ cũng có đạo đức tất; người đàn bà đă bị chồng khước từ,
ruồng bỏ có thể là người có vấn đề về phẩm chất đạo đức.
Để nhận biết được phẩm chất đạo đức của con người, cần phải có một quá
tŕnh - đó là triết lư đầy tính sáng tạo, tính thực tiễn của tục ngữ Việt
Nam. Câu triết luận rằng, “thức
lâu mới biết đêm dài, ở lâu mới biết con người có nhân"(9)
thực sự sâu sắc, nó là lời nhắc nhở chung đối với mọi người trong việc nhận
thức, đánh giá thế giới quanh ḿnh, kể cả con người; đặc biệt là cho những
ai có thói quen mới tiếp xúc, công tác với người khác được một thời gian
không lâu, thậm chí là quá ngắn ngủi đă vội đưa ra những nhận xét không đúng
về phẩm chất đạo đức của họ. Những ai có phần vội vàng như thế trong đánh
giá, nhận xét con người nói chung, phẩm chất đạo đức của con người nói riêng
th́ thường sớm có lời khen rồi lại nhanh có sự chê bai, cái chính đều do
ḿnh phát ngôn trước đó. Nói tóm lại, để kiểm định được phẩm chất đạo đức
của con người một cách chính xác th́ cần phải có thời gian. Câu tục ngữ đă
dẫn ở trên là một triết lư mang tính khái quát và có giá trị chỉ dẫn cho
chúng ta trong việc xem xét, kiểm định đạo đức của con người.
Từ những điều tŕnh bày trên đây, có thể rút ra nhận xét rằng, trong kho
tàng tục ngữ và thơ ca dân gian Việt Nam đă có nhiều triết lư, luận điểm
xoay quanh các tiêu chí kiểm định đạo đức con người, như: dựa vào thực tế
khách quan, những biến cố lịch sử, những công việc cụ thể, những thử nghiệm
hoặc nhận thức cảm tính và suy luận...
Nhưng, cũng phải thấy rằng, phẩm chất đạo đức của con người, do bản chất
của nó, vốn là cái sâu sắc, ẩn kín trong mỗi cá nhân. Chính v́ thế mà việc
kiểm định đúng đắn tất cả các phẩm chất đạo đức của con người là không đơn
giản, dễ dàng; thậm chí, không thể kiểm định được trong một số trường hợp cụ
thể. Thực vậy, về vấn đề này, tục ngữ Việt Nam có những triết lư: "Ḷng
sông ḷng bể dễ ḍ, ai từng bẻ thước mà đo ḷng người"; "Sông sâu,
sào ngắn khôn ḍ, người khôn ít nói khó đo tấc ḷng"(10)
hoặc "Hoạ hổ hoạ b́, nan hoạ cất / Tri nhân tri diện, bất tri tâm"
(nghĩa là: Vẽ được da hổ, khó vẽ được xương hổ/ Biết mặt người, không
biết được ḷng người)(11). Đặc biệt, đối với những người ma
mănh, tinh ranh, quỷ quyệt, độc ác..., tục ngữ Việt Nam cho rằng, rất khó có
thể kiểm tra được đạo đức của họ. Những câu tục ngữ: "Ḍ sông ḍ bể ḍ
nguồn, biết sao được bụng lái buôn mà ḍ"; "Sông sâu c̣n có kẻ ḍ,
ḷng người nham hiểm ai đo cho cùng"; "Sông sâu c̣n thể bắc cầu,
ḷng người nham hiểm biết đâu mà ḍ"(12) đă diễn tả sự khó
khăn không dễ vượt qua đó. Sự hạn chế như vậy trong nhận thức đạo đức của
con người là điều dễ hiểu. Vấn đề là ở chỗ, cần phải có tinh thần cảnh giác,
thận trọng và sáng suất để tránh dẫn đến những hệ quả đáng tiếc. Kẻ vô đạo
đức nhưng lại biết che đậy thường không ngại làm những việc mà có thể gây
cho người lương thiện không ít khó khăn, trở ngại; thậm chí, cả sự tổn thất,
mất mát lớn nữa. Không chỉ với người có tố chất đặc biệt như trên mới là đối
tượng khiến cho tác giả tục ngữ, thơ ca dân gian Việt
Nam cũng như chúng ta không thể
kiểm định được phẩm chất đạo đức của họ. Những người sáng tác thể loại văn
học đang khảo sát tại đây c̣n thừa nhận không thể kiểm định được đạo đức của
cả những con người b́nh thường trong một số trường hợp (khi họ không bộc lộ
giá trị đó ra bằng hành động, việc làm cụ thể…).
Thừa nhận hạn chế nói trên trong nhận thức, kiểm định phẩm chất đạo đức
con người, thiết tưởng, ư nghĩa của tục ngữ và thơ ca dân gian Việt Nam
không hề giảm đi mà trái lại, càng nói lên giá trị hiện thực của loại h́nh
văn học độc đáo này.
Tục ngữ, thơ ca dân gian Việt
Nam là kết quả lao động sáng tạo,
chứa đựng những triết' lư sâu sắc được đúc rút từ thực tiễn của ông cha ta.
Về phương diện nhận thức, tục ngữ, thơ ca dân gian Việt
Nam đă h́nh thành nên một hệ
tiêu chí kiểm định đạo đức con người. Hệ tiêu chí đó, tuy được thể hiện,
diễn đạt dưới h́nh thức b́nh dân, giản dị nhưng không kém phần sâu sắc, thậm
chí có giá trị phổ biến. Không chỉ có vậy, nó c̣n mang ư nghĩa giáo dục,
hướng con người sống lương thiện hơn, tất hơn và chân thành hơn. Với những
giá trị như vậy, tục ngữ, thơ ca dân gian Việt
Nam xứng đáng được coi là những
viên ngọc quư.
(l ) Tuyển tập văn học dân gian Việt
Nam, t. IV, q.1. Nxb
Giáo dục, Hà Nội, 2001, tr. 74, 78.
(2) Sđd, t.IV, q.l, tr.169.
(3) Sđd, t.III, tr.830.
(4) Sđd , t.IV, q.1, tr.100.
(5) Sđd , tr.49.
(6) Sđd , tr.50.
(7) Sđd , tr.769
(8) Sđd , tr.37, 59, 126
(9) Sđd , tr.151
(10) Sđd , tr.98, 137.
(11) Sđd , tr.85, t.IV, q.2, tr.924.
(12) Sđd , tr.62, 137.
The Triết Học
|