| |
|
-
Ca dao tục ngữ câu đố Quảng
Trị
Tục ngữ và câu đố
là hai thể loại suy lư phổ biến ở Quảng Trị . Cũng
như ở các nơi khác, tục ngữ Quảng Trị được phân làm
hai tiểu loại:
- Các câu phản ánh
kinh nghiệm của nhân dân về thời tiết và sản xuất.
- Các câu phản ánh
kinh nghiệm của nhân dân về đời sống xă hội.
Nh́n chung, kinh
nghiệm của nhân dân ở đau cũng tương tự như nhau. Ở
Quảng Trị có những câu tục ngữ phản ánh kinh nghiệm
của nhân dân về thời tiết như sau: Chớp ngă Cồn Tiên;
Mưa liền một trộ; hoặc : Sấm Đầu mâu không cầu cũng
đến.
Lại có những câu
đề cập đến sản vật đặc biệt của từng địa phưưong.
Chính qua những câu tục ngữ này, chúng ta lại càng
hiểu sâu sắc hơn văn hoá vật chất của vùng đất Quảng
Trị:
-Nem chợ Săi, vải
La Vang
-Khoai quán Ngang,
dầu tràm Đại Nại
-Gạo Phước Điền,
chiêng Sắc Tứ
- Khoai từ Trà Bát,
quạt chợ Sông
-Cá bống Bích La,
gà Trại Lộc...
Kinh nghiệm về đời
sống xă hội có những câu thật xác đáng và thực tế:
-Chạy lóc xóc
không bằng góc vườn
-Nhiều nghề cá trê
húp nác(nước)
Người miền núi
cũng bày tỏ kinh nghiệm của họ:
- Đừng mau phai
như hoa Toang-a-rát
- Đừng chóng bạc
như vôi
- Xách bầu phải
xem quai
- Địu con phải xem
vải buộc
- Làm cỏ phải xem
cán nắm
Về h́nh thức nghệ
thuật, các câu tục ngữ ở Quảng Trị thường hợp vần
theo lối yêu vận chứ không theo lối cước vận.
Câu đố Quảng Trị
có thể phân thành những tiểu loại:
-Về những bộ phận
cơ thể của con người
-Về những họat
động của con người
-Về các con vật
-Về các loại cây
trái
-Về các sự vật
hiện tượng khác.
Qua những câu đố
ấy, ta thấy được sự tinh vi trong những nhận xét về
sự vật, con vật sống cạnh người, như đố về con gà
trống:
Đầu rồng, đuôi
phụng cánh tiên
Ngày năm bảy mụ
tối ngủ riêng một ḿnh.
Hoặc con chó :
Khen ai nho nhỏ
Mắt tỏ như gương
Tối trời như mực
Biết người thương
ra chào
Có nhiều khi sự
liên tưởng vô cùng sâu sắc. Đố về cau, trầu, vội có
câu:
Hai cây cao đă nên
cao
Một người dưới rào
xa đă nên xa
Ba người họp lại
một nhà
Kết duyên phu phụ
duyên đà mặn duyên
Có thể nói sự
thông minh dí dỏm, óc nhận xét tinh vi của người
Quảng Trị đều được thể hiện trong câu đố:
Da non mà bọc lấy
xương
Lửa cháy trên đầu
chúa chẳng thương
Đêm năm canh tiêu
hao ḿnh thiếp
Nghĩ đến đoạn
trường nước mắt nhỏ sa
( Cây đèn sáp)
Một mẹ sinh đặng
ngàn con
Trai có gái có ,
tài khôn rơ ràng
Mặt trời đă xế
vàng vàng
Con xa ngái mẹ lại
càng thương thay
Cách nhau đă bốn
năm ngày
Con lại gặp mẹ
mừng thay là mừng
(Phiên chợ Cam Lộ)
Một số câu đố khác
theo lối "đố tục giảng thanh" cũng thường được nhân
dân Quảng Trị vận dụng để sáng tác.
Các loại trữ t́nh
Ca dao dân ca là
thể loại trữ t́nh, phản ánh một cách trung thực tâm
t́nh của người dân vùng này.
Cao dao Quảng Trị
thể hiện t́nh yêu đôi lứa thường nhẹ nhàng. T́nh cảm
trai gái không bộc lộ một cách lộ liễu mà kín đáo,
tuy không kém phần mănh liệt:
Chập choạng bóng
trăng em xem chưa rơ
Chập choạng bóng
đèn em ngó chưa tường
Dáng ai như dáng
người thương
Không vô đây phân
giải một đôi đường cho em hay
Tuy nhiên, dưới
chế độ phong kiến, đạo lư Khổng Mạnh vẫn là đạo lư
làm cơ sở cho các cuộc hôn nhân. Họ yêu nhau nhưng
người con gái không thể hoàn toàn tự ư lựa chọn ư
trung nhân của ḿnh. Đó là nguyên nhân làm nảy sinh
nhiều tấn bi kịch trong xă hội ở Quảng Trị ngày
trước:
Thốt ra tới đâu dạ
thiếp sầu tới đó
Cuộc chung t́nh
chàng chưa rơ bấy lâu
V́ ai xê vô lật
ván tháo cầu
Trai say dọi gái,
gái thảm sầu dọi duyên.
Ngoài các câu ca
dao thể hiện t́nh yêu trai gái, những nội dung khác
của ca dao là quan hệ gia đ́nh và các mối quan hệ
phức tạp khác trong xă hội. Trong nội dung này, ca
dao Quảng Trị cũng có những nét tương đồng với ca
dao của những vùng khác trong nước.
Đối với quê hương,
t́nh cảm của người dân Quảng Trị thật gắn bó, thiết
tha. Đất Quảng Trị vốn là đất tán hơn đất tụ. Chiến
tranh và hoàn cảnh lịch sử lại gây sự mất mát, qua
phân trên vùng đất gian khổ này. Có lẽ v́ lư do đó
nên tâm t́nh của người dân đối với quê nghèo thật
thiết tha, cảm động:
Ai về Đông Hà, ai
qua Cam Lộ
Ai về Gia Độ, ai
đến Gio Linh
Ai về Triệu Phong
Quảng Trị quê ḿnh
Cho em nhắn gởi
chút t́nh nhớ thương.
Kháng chiến chống
ngoại xâm là một nội dung khá quan trọng. Qua hai
cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, ca dao dân ca
Quảng Trị vẫn không ngừng phát triển để đáp ứng yêu
cầu của thời đại. Cuộc kháng chiến chống Pháp đă vẽ
nên những trang sử oai hùng của dân tộc, cho Quảng
Trị mà các địa danh Triệu Sơn, Ba Ḷng, Như Lệ là
những nơi tiêu biểu cho phong trào kháng Pháp. Những
nơi khác cũng đă từng in dấu chiến tranh tàn phá như
dăy Trường Sơn, sông Thạch Hăn, Bích La Đông, An Hoà,
Đại Hào, Phương Ngạn:
Ai về Bích La Đông
khỏi ḷng đau xót ruột
Ai về An Hoà khỏi
hậm hực thù Tây
Mồ mả cha ông hắn
cho xe xới, xe cày
Bao nhiêu oan hồn
nước mắt nghĩ lại trăm đắng ngh́n cay căm thù.
Cần ghi nhận là
dân ca cũng theo thời sự mà chuyển biến, phát triển.
Ḥ địch vận ở Như Lệ vốn là biến điệu của ḥ mái nh́
nhưng vang xa như tiếng ngân vút cao mạnh mẽ phát ra
từ con tim yêu nước nồng nàn. Tiếng ḥ Như Lệ là nét
độc đáo trong dân ca kháng chiến Quảng Trị, nó đă
phát huy tác dụng trong thời kỳ kháng chiến chống
Pháp.
Trong thời kỳ
chống Mỹ, tiếng ḥ kháng chiến lại được dịp vang xa.
Nhiều câu ḥ hai bên bờ sông Bến Hải nói lên niềm
ước vọng đất nước thống nhất. Chính ở vùng này đă
h́nh thành nên một bộ phận văn học dân gian mang
những đặc điểm riêng của một vùng đất bị chia cắt.
Sông Hiền Lương
bên bồi, bên lở
Cầu Hiền Lương bên
nhớ bên thương
Bao giờ giặc Mỹ
hết phương
Bắc Nam sum họp
con đường vô ra.
Chiến đấu để thống
nhất, để được sống tự do, độc lập trên quê hương là
niềm tin mănh liệt của người dân Quảng Trị thể hiện
rơ từ thời kháng chiến chống Pháp đến thời chống Mỹ.
Ca dao dân ca Quảng Trị đă phản ánh một cách sinh
động ư chí và tâm t́nh thiết tha ấy.
Xét nghệ thuật ca
dao dân ca vùng này, ta sẽ thấy những nét chung cũng
như nét riêng trong h́nh thức sáng tác. Thể lục bát
và song thất lục bát rất phổ biến do phù hợp với thể
loại ḥ mái nh́ và ḥ giă gạo. Đó là hai loại ḥ rất
được dân Trị Thiên ưa chuộng.
Tuy về cơ bản là
như vậy nhưng rất ít khi người dân ở đây ḥ nguyên
xi đúng chữ, đúng câu mà thường thêm một số chữ cho
câu ḥ trọn vẹn, hoặc để diễn đạt hết ư t́nh của
người ḥ. Câu lục bát kết thúc bài ḥ thường được
thêm chữ ở cả hai câu:
Nạn chiến tranh
gây nên tang tóc
Cảnh điêu tàn chết
chóc đau thương
Sơ tán ra đi mẹ
một ngả con một đường
Chồng thời xa vợ
những đau thương đêm ngày
Có khi thêm vào
hai câu song thất và câu kết:
Đứng bên ni B́nh
An, nh́n sang băi Cát Sơn, Thuỷ Bạn
Ruột thắt từng
chặng, muối xát vào ḷng
Nào ai vui vợ vui
chồng
C̣n em ngĩ tới
miền nam ruột thịt đang nhuộm vết máu hồng uất căm.
Có khi lại bớt chữ
ở hai câu thất:
Muối ba năm c̣n
mặn
Gừng chín tháng
c̣n cay
Ai dù xuyên tạc
lung lay
Trị Thiên ta ơn
Đảng, ḷng này thuỷ chung
Như vậy , sự thêm
bớt chữ trong các câu ca dao Quảng Trị là không có
quy tắc mà hoàn toàn tuỳ theo cảm hứng của người ḥ,
sao cho tṛn ư nghĩa là được.
Sự hợp vần trong
cac dao thường thay đổi, hết gieo vần lưng lại gieo
vần chân, như quy luật hợp vần của thể lục bát và
song thất lục bát, nhưng một số ít câu ca dao của
Quảng Trị lại có lối gieo ở vần chân.
Nghệ thuật chơi
chữ trong ca dao Quảng Trị cũng khá phong phú. Ta sẽ
gặp ở đây những loại từ đối nghĩa, đối ư trong dân
ca đối đáp:
- Bánh cả mâm răng
gọi là bánh ít
Trầu cả chợ răng
nói trầu không
Trai nam nhơn đối
đặng sẽ làm chồng nữ nhi
- Chuối không qua
Tây răng gọi là chuối sứ ?
Cây không biết chữ
răng gọi là thông ?
Nam nhơn đà đối
đặng quyết làm chồng nữ nhi
Trong lời ḥ đối
đáp, lối ứng xử thật thông minh:
Ngồi buồn nói
chuyện trên non
Một trăm thứ cá có
con không thằng
- Thầy ơi chớ nói
bao đồng
Một trăm thứ cọp
có ông không bà
Khi chọc ghẹo nhau
vẫn giữ lối văn nhă:
Em mở khuôn ra cho
anh đúc lấy lượng vàng
Hoạ may may hoạ
thiếp với chàng dùng chung
- Anh về thưa với
hai họ rơ ràng
Mời thân nhân lại
, em mở khuôn vàng cho coi
Quảng Trị là vùng
đất thành lập sau khi nước ta đă định h́nh hàng
ngh́n năm trước. Văn học dân gian vùng này là sản
phẩm của những con người có gốc từ Thanh Nghệ truyền
vào. Qua cuộc sống chung với dân bản địa ở vùng đất
mới, dần dần con người ở đây mới tạo được một phong
cách riêng.
Sự giao lưu văn
hoá thế tất phải xảy ra. Ca dao là thể loại để lại
những dấu vết rơ rệt trong ngôn ngữ văn học. Câu ḥ
đối đáp nam nữ ở Quảng Trị hẳn là do ảnh hưởng lời
đối đáp giữa Phan Bội Châu với các cô giá phường
vải:
Em trao cho anh
một nắm bắp rang
Anh trỉa làm sao
cho mọc, thiếp với chàng trao duyên
Đồn bên em có
miếng đất hoang
Mưa ba năm không
ướt, hạn chín tháng nỏ khô
Đến đây anh trỉa,
trỉa vô mọc liền
Thiếp trao cho
chàng một nắm ngô rang
Chàng đúc nơi mô
cho mọc thiếp thắp nhang mời về
Chỗ nào mà nắng
không khô
Mà mưa không ướt
đúc vô mọc liền
Văn học dân gian
Quảng Trị là sản phẩm của người dân ở vùng đất mới,
chứng tỏ sức sống mănh liệt của ḍng văn học truyền
khẩu. Xét giá trị nội dung và nghệ thuật, văn học
dân gian Quảng Trị có những nét riêng, đóng góp cho
văn học dân gian Việt nam thêm phần phong phú.
-
Nguồn: quangtrinet.com
|
|