|
"Câu - cá" trong ca dao Nam bộ
21/01/2008
Ts. TRẦN VĂN NAM
Trong bài viết nầy, chúng tôi khảo sát hình ảnh “cá, câu-cá” chủ yếu trên
phương diện phương tiện nghệ thuật của ca dao. Với tư cách phương tiện nghệ
thuật, trong quá trình biểu trưng hóa (quá trình chuyển nghĩa để những hình
ảnh trở thành những ẩn dụ, những biểu trưng nghệ thuật) hình ảnh cá, câu-cá
với những nét nghĩa biểu trưng của nó, đã để lại dấu ấn văn hóa của cư dân
nông nghiệp vùng sông nước. Phần đông người Việt nói chung, cư dân Nam bộ nói riêng làm nông nghiệp.
Chính vì vậy mà con cá có một vị trí khá đặc biệt trong đời sống người Nam
bộ. Con cá trong đời sống vật chất thường nhật được nhìn nhận trong ca dao.
Cá ở Nam bộ không chỉ được ăn tươi mà còn được làm mắm, làm khô để tích trữ
ăn dần. Hiện thực nầy cũng để lại dấu ấu trong ca dao Nam bộ, cụ thể là
trong lời ru của người mẹ:
- Con ơi ở lại với bà,
Má đi làm mắm tháng ba má về, Má về có mắm con ăn, Có khô con nướng, có em con bồng.
Xem hình ảnh cá như một phương tiện nghệ thuật, tác giả dân gian Nam bộ đã
tiến tới miêu tả đặc điểm của cá nói chung, từng loại cá nói riêng để nói về
con người: Cá lưỡi trâu sầu ai méo miệng, Cá trèn bầu nhiều chuyện trớt môi.
Quá trình biểu trưng hóa để hình ảnh con cá biểu trưng cho nhân vật trữ tình
trong ca dao là một quá trình liên tưởng, so sánh. Đặc điểm chung nhất của
các loài cá là sống trong nước. Nước trong một không gian cụ thể là biển,
sông, kinh, đìa, ao. Cá trong nước ( hoặc trong chậu, lờ, lưới ) dễ dàng
được hình dung như con người trong cuộc đời với những hoàn cảnh cụ thể khác
nhau: Bể sâu con cá vẫy vùng, Trời cao muôn trượng, cánh chim hồng cao bay.
Đôi ta như con cá ở đìa, Ngày ăn tán lạc, tối về đủ đôi.
Với cặp biểu trưng câu - cá thì cá luôn luôn đại diện cho cô gái, còn câu
đại diện chàng trai - hoặc là thái độ tình cảm của chàng trai. Câu cá là một
hình thức lao động sản xuất của cư dân sông nước. Việc câu cá không dành
riêng cho bất cứ ai, ai cũng có thể câu được bởi công việc nầy tương đối dễ
dàng. Tuy vậy, trong ca dao Nam bộ chỉ có chàng trai mới câu và câu là chàng
trai: Anh ngồi bực lở anh câu, Khen ai khéo mách, cá sầu không ăn.
Câu vàng lưỡi bạc nhợ tơ, Câu thời câu vậy cá chờ có nơi.
Liều mình lội xuống ao sâu, Đặng đo miệng cá uốn câu cho vừa. Anh ơi, gá duyên đừng kén đừng lừa, Cụm mây kia đen đặc, ngọn gió lùa còn tan.
Việc câu trong ca dao Nam bộ là sự thuyết phục, là bày tỏ tình yêu của chàng
trai. Trong thực tế đời sống của cư dân Nam bộ, công việc câu cá cũng là một
hoạt động lao động kiếm sống. Người ta hay dùng hai từ “ câu cơm “ để chỉ
một hoạt động nào đó nhằm mục đích kiếm tiền, cụ thể hơn là kiếm tiền cho
cuộc sống thường nhật của gia đình và bản thân. Có lẽ ngay từ những ngày đầu
khai phá vùng đất mới nầy, việc bắt cá, câu cá là việc phổ biến, thường
xuyên đồng thời là việc buộc phải làm. Cá trong sông, rạch rất nhiều nhưng
phải câu, bắt mới có. Do vậy “ cá ăn câu “ trong ca dao mang ý nghĩa là một
kết quả tốt cho chàng trai. Hình ảnh câu- cá khá phổ biến trong ca dao các miền. Sau đây là một trường
hợp được ca dao Bắc bộ sử dụng:
Anh ngồi vực lở anh câu, Khen ai xui giục con cá sầu không ăn, Con cá không ăn câu anh con cá dại, Con cá ăn câu anh thì có ngãi có nhân. Hình ảnh câu- cá được tác giả sử dụng theo lối tư duy thuận chiều: cô gái
yêu chàng trai thì mọi việc đều tốt đẹp, còn như không yêu là mất mát, dại
khờ. Ca dao Nam bộ một mặt tiếp nối kiểu suy nghĩ ấy:
Cá không ăn câu thật là con cá dại, Bởi câu anh cầm, câu ngãi câu nhân.
Nhưng mặt khác, tác giả ca dao Nam bộ lại suy nghĩ theo kiểu “phản đề”:
không phải lúc nào yêu anh cũng đều tốt đẹp cả:
Cá không ăn câu thật là con cá dại, Vác cần câu về nghĩ lại con cá khôn.
Cá không ăn câu chê rằng con cá dại, Cá mắc câu rồi nói tại cá tham ăn.
Đó là kiểu tư duy phóng khoáng, luôn dành cho đối tượng nhiều khả năng lựa
chọn, thậm chí là sự lựa chọn ngược lại với ý định ban đầu. Vấn đề chỉ có chàng trai câu mà cô gái không câu trong ca dao Nam bộ, có thể
lý giải rằng đây là phản ánh một tập quán xã hội: chàng trai phải bày tỏ
tình yêu trước, phải chủ động trong quan hệ lứa đôi. Cô gái trong ca dao Nam
bộ - với hình ảnh con cá - có thể chủ động chờ đợi, một hình thức tạo điều
kiện thuận tiện cho đối tượng:
Con cá vẩn vơ núp tại bóng cầu, Chờ anh khác thể sao hầu chờ trăng.
*** Hình ảnh “ cá hóa rồng “ ( cá hóa long ) gắn với một khía cạnh khác của văn
hóa. Đó là sự sùng bái đối với loài cá chép ( cá lý ngư). Cá chép có thể hóa
rồng bay lên mây, là loại cá thiêng cho các vị thần tiên cỡi về trời mang
theo những thông điệp của trần gian. Đặc biệt, trong tín ngưỡng dân gian Nam
bộ cá sấu cũng có thể trở thành rồng. Quá trình cá sấu đắc đạo là quá trình
từ khi hình thành cho đến khi sụp lở của một cù lao. Hiện tượng cù lao sụp
lở gọi là cù dậy.Khi cá sấu bắt đầu tu là khi nó nằm im dưới đáy sông. Phù
sa của dòng sông theo thời gian ngưng tụ lại trên mình cá sấu, trở thành cù
lao. Đến lúc cá sấu đắc đạo thành rồng, cựa mình, vụt bay lên không trung
thì cù lao sụp lở. Có thể nói niềm tin cá hóa rồng là niềm tin về hiện tượng
thăng hoa diễn ra trong vũ trụ và trong cả cuộc đời trần tục. Từ trong sâu
thẳm, đó còn là ước vọng về sự chiến thắng của cái thiện trước cái ác, về
khả năng cải tạo cái ác, cái xấu. Trong ca dao Nam bộ, “cá hóa rồng” mở ra
hướng phát triển tiến tới sự hoàn thiện hơn. Do vậy mà trong một số trường
hợp, cá biểu trưng cho một nhân cách thanh cao dạng tiềm ẩn hoặc là hướng
tới một kết qủa tốt đẹp: Trên trời có cây hóa kiểng, Dưới biển có cá hóa long, Con cá lòng tong ẩn móng ăn rong Anh đi lục tỉnh giáp vòng, Đến đây trời khiến động lòng thương em (1).
Bậu chê anh quân tử lỡ thì, Anh tỷ như con cá ở cạn chờ khi hóa rồng
Ngày nào nên ngãi vợ chồng, Đôi lứa ta như thể cá hóa rồng lên mây (2).
Mù u nhỏ rễ ăn lan, Sợ mình nói gạt qua đàng đấy thôi. Phụng hoàng chấp cánh bay xuôi, Liệu bề thương đặng, mình ơi, tôi chờ. Nước lên khỏi bực tràn bờ, Thương mình thương vậy, biết chờ đặng không? Đặng không tôi cũng gắng công, Đợi cho con cá hóa rồng sẽ hay. Gặp mình may quá là may, Trông cho trời tối bắt tay đặng về (3).
Ở (1), hình ảnh “ cá hóa long “ chưa mang ý nghĩa biểu trưng rõ ràng, nó chỉ
phản ánh cách suy nghĩ gắn với tín ngưỡng về một loài cá thiêng. Ở (2) nghĩa
biểu trưng của “cá hóa rồng” được thiết lập bằng hình thức so sánh. Cơ sở
hình thành nghĩa biểu trưng trong hai bài ca dao nầy chính là tín ngưỡng vừa
nói. Ở (3), hình ảnh “cá hóa rồng” là một ẩn dụ tượng trưng. Nghĩa bóng của
nó đã được tác giả dân gian sử dụng như là ý nghĩa duy nhất của hình ảnh nầy. Như vậy, hình ảnh cá, câu-cá trong ca dao Nam bộ phản ánh một nét của nền
văn hóa vật chất, đó là công việc đánh bắt thủy sản, trường hợp cụ thể ở đây
là nghề câu cá. Mối tương quan giữa câu và cá ở một số trường hợp, trong một
chừng mực nào đó thể hiện cách suy nghĩ phóng khoáng của người Việt Nam bộ.
Quan niệm về một loài cá thiêng có thể hóa thành rồng, phản ánh tín ngưỡng
sùng bái loài vật, một tín ngưỡng của người Việt thời cổ còn lưu giữ. Do tác động của thủy triều, trên các dòng sông Nam bộ thường xuyên có những
cù lao, cồn cát hình thành và sụp lở. Hiện thực này được nhìn nhận theo
chiều hướng tốt đẹp: đó là quá trình hoàn thiện của tạo vật. Đáng nói hơn,
đó là tư tưởng hướng thiện của người Nam bộ. Chính tư tưởng này mà con người
tìm thấy trong cái đổ vỡ (cù lao sụp) một điều gì đó tốt đẹp hơn (rồng bay
lên). Không phải ngẫu nhiên mà hình ảnh thuyền (ghe, tàu, đò, xuồng) xuất hiện với
tần số dày đặc trong ca dao Nam bộ. Sự xuất hiện của chúng bắt nguồn từ thực
tế ứng xử của người Việt Nam bộ với môi trường sông nước. Nói khác đi, đó là
chứng tích của một nền văn minh sông nước trong ca dao, bởi vì con thuyền,
chiếc ghe, chiếc xuồng... từ bao đời nay đã gắn chặt với đời sống miền sông
nước, chúng đi vào tiềm thức con người và xuất hiện trở lại trong ca dao.
Tương tự như vậy, hình ảnh cá, câu-cá trong ca dao Nam bộ cũng là biểu hiện
của nền văn minh kinh rạch.
------------- Tư liệu tham khảo: 1. Jean Chevalier, Alain Gheebrant ( 1997), Từ điển biểu tượng văn hóa thế
giới (Nhiều người dịch), Nxb Đà Nẵng, TP. HCM. 2. Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát, Trần Tấn Vĩnh, Bùi Mạnh Nhị(1984), Ca
dao dân ca Nam Bộ,Nxb TP. HCM. 3. Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật...(1995), Kho tàng ca dao người Việt (KTCDNV),
Nxb Văn hóa, Hà Nội. 4. Trần Ngọc Thêm (1997), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Trường đại học KHXH và NV
TP. HCM. 5.Lê Trí Viễn (chủ biên) (1986), Thơ văn Đồng Tháp tập I, Nxb Tổng hợp Đồng
Tháp.
|