-
- Người đàn bà Việt thường cần-cù
chăm-chỉ làm-ăn trong việc ruộng vườn cũng như việc buôn-bán để lo cho chồng
con:
- Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,
/ Chồng cầy vợ cay con trâu đi bừa.
- Em thời canh cửi trong nhà, /
Nuôi anh ăn học đăng-khoa bảng vàng.
-
- Quanh năm buôn bán ở mom sông,
/ Nuôi nấng năm con với một chồng (Thơ
Trần Tế Xương, “Đưa Cho Vợ”).
-
- Đốt than nướng cá cho vàng, /
Dành tiền mua rượu cho chàng uống chơi.
- Uốn tay dệt vải cho ngoan, /
Lấy tiền đóng góp việc quan cho chồng.
-
- Đàn bà Việt đa-số đều chu-toàn
mọi bổn-phận của người con thảo, người vợ hiền và đảm-đang, người mẹ giỏi, và là
người công-dân tốt:
- Má ơi đừng đánh con đau, / Để
con bắt ốc hái rau má nhờ.
- Trời mưa cho lúa chín vàng, /
Cho anh đi gặt cho nàng đem cơm.
- Anh đi em ở lại nhà, / Hai vai
gánh vác mẹ già con thơ.
- Lầm-than bao-quản nắng mưa, /
Anh ơi anh liệu tranh-đua với đời.
- Tháng Năm gặt hái đă xong, /
Nhờ trời một mẫu năm nong thóc đầy.
- Năm nong thóc đầy, em xay, em
giă, / Trấu ủ phân, cám bă nuôi heo.
- Sang năm lúa tốt tiền nhiều, /
Em đem đóng thuế, đóng sưu cho chồng.
-
- Đàn bà Việt có giáo-dục thường
có những đức-tính: hiền-ḥa, nhân-đức, hiếu-hạnh, mực-thước, khôn-ngoan,
thủy-trung, trinh-tiết, biết kính cha mẹ, biết chiều chồng, nuôi con nên người,
đối-xử tốt với anh em họ hàng, và quán-xuyến việc gia- đ́nh một cách chu-đáo.
Đâư là những bậc hiền-phụ. Tuy-nhiên, cũng có một thiểu-số đàn bà Việt được coi
là ác-phụ. Số này rất ít.
-
- II. Truyền-Thống Căn-Bản của
Đàn Bà Việt và Đàn Ông Việt
-
- Trinh-tiết là điều căn-bản mà
đàn bà Việt phải giữ. Trung-hiếu là điều căn- bản mà đàn ông Việt phải theo.
Người ta lấy hai điều đó làm căn-bản để đánh giá-trị con người Việt rồi sau mới
đến điều khác. Chính v́ thế mà khi người đàn ông có vợ nọ con kia th́ người ta
vẫn chấp-nhận và tha-thứ. C̣n nếu người đàn bà có chồng mà đi với trai th́ không
ai tha-thứ được.
-
- Những câu ca-dao nói về
trung-hiếu và trinh-tiết của đàn ông và đàn bà Việt:
- Trai th́ trung-hiếu làm đầu,
/ Gái th́ tiết-hạnh làm câu sửa ḿnh.
- Đă sinh ra kiếp ở đời, / Trai
thời trung-hiếu đôi vai cho tṛn.
- Gái thời trinh-tiết ḷng son,
/ Sớm hôm ǵn-giữ kẻo c̣n chút sai.
- Làm tài trai lấy năm lấy bảy,
/ Gái chính chuyên chỉ có một chồng.
- Dù chàng năm thiếp bảy thê, /
Cũng không tránh khỏi gái sề này đâu.
- Chàng ơi phụ thiếp làm chi, /
Thiếp như cơm nguội đỡ khi đói ḷng.
- Chồng giận th́ vợ làm lành, /
Miệng cười hớn hở rằng anh giận ǵ?
- Anh ơi đừng giận em chi, /
Muốn lấy vợ bé em th́ cưới cho.
- Trồng trầu th́ phải khai mương,
/ Làm thân hai vợ phải thương cho đồng.
-
- Trong bất-cứ hoàn-cảnh nào chăng
nữa, trung-hiếu và trinh-tiết là điều quan-trọng nhất của đàn ông và đàn bà Việt
từ thời xưa cho đến cả thời nay trong cuộc sống gia-đ́nh cũng như ngoài xă-hội.
Trai có trung-hiếu, gái có tiết-hạnh th́ gia đ́nh mới yên-vui, đất nước mới có
trật-tự và thanh-b́nh.
-
- III. Vũ-Phu và Ác-Phụ
- Tuy đa-số những bà vợ và ông
chồng người Việt đều là người tốt, nhưng vẫn có một thiểu-số hư-hỏng và bị gọi
là “vũ-phu” và “ác-phụ.”
-
- Những người chồng đánh vợ được
xếp vào hạng vũ-phu. Những người đàn bà có thái-độ chua-ngoa, cay-độc, lẳng-lơ,
khinh chồng như chó, chửi con có ngành có ngọn, mắt quằm-quặm như diều-hâu, mồm
toang-toác như quạ, ghen-tuông không biết điều, và lăng-loàn đều được xếp vào
loại ác-phụ.
-
- Bởi v́ có trường hợp người vợ
đảm và ngoan mà gặp phải người chồng vũ-phu hoặc người chồng tốt mà gặp phải
người vợ là ác-phụ, nên mới có cảnh chồng thượng cẳng chân hạ cẳng tay đánh vợ
đánh con, và gia đ́nh tan-nát v́ có người vợ lăng- loàn trắc-nết. Thường th́
vũ-phu gặp ác-phụ v́ vung nào úp nồi ấy. Chính v́ thế mà có cảnh chồng đánh vợ
và vợ chửi rủa chồng không thể nào tránh được. Đó là lỗi của cả hai bên:
- Tại anh tại ả, / Tại cả hai
bên, / Hai đàng cùng tại.
-
- Để giúp cho những bà vợ tránh
được các lỗi lầm, tiền-nhân ta đă có luật “Thất-Xuất.” Điều này có nghĩa là 7 (thất)
điều cấm-kỵ do tiền-nhân đưa ra để bắt các bà vợ phải tránh hầu khỏi bị chồng
đuổi đi (xuất): không có con, dâm-dật, không thờ cha mẹ chồng, lắm-điều, trộm
cắp, ghen-tuông, và có ác-tật. Nếu bà vợ nào có một trong 7 điều “Thất-Xuất”
này th́ bị ông chồng đuổi ra khỏi gia-đ́nh. Tuy-nhiên, tiền-nhân ta lại c̣n cố
giúp các cặp vợ chồng được yên-ổn nếu bà vợ nào đă làm được 3 điều gọi là “Tam
Bất-Xuất” th́ ông chồng không được phép bỏ vợ. “Tam Bất-Xuất” gồm có: đă từng để
đại-tang (3 năm) cho nhà chồng, trước nghèo sau giầu, và không có chỗ nương-tựa.
-
- IV. Những Câu Ca-Dao Củng-Cố
Hạnh-Phúc của Đạo Vợ Chồng
-
- Phần đông vợ chồng người Việt có
giáo-dục th́ thương yêu nhau, tương-kính như tân (“tân” nghĩa là khách), và
lịch-sự với nhau. Giáo-dục ở đây không có nghĩa nói về học cao và bằng nọ cấp
kia mà có ư nói về những người biết cách cư-xử đúng đạo làm người.
- Những người vợ Việt nam có
giáo-dục th́ có thái-độ như sau:
- Chồng tới th́ vợ phải lui, /
Chồng tới vợ tới th́ dùi vào lưng.
- Giơ roi đánh thiếp sao đành, /
Anh không nhớ thuở rách lành có nhau?
- Chồng giận th́ vợ bớt lời, /
Cơm sôi bớt lửa không đời nào khê.
- Ghe bầu trở lái về Đông, / Làm
thân con gái thờ chồng nuôi con.
- Anh đi em ở lại nhà, / Hai vai
gánh vác mẹ già con thơ.
- Vợ chồng là nghĩa già đời, /
Ai ơi chớ nghĩ những lời thiệt hơn.
- Vợ chồng là nghĩa tào-khang, /
Chồng ḥa, vợ thuận mà thường yên vui.
-
- Những người chồng Việt có
giáo-dục th́ rất cần-kiệm, tuân giữ phép-nước, chí-thú làm-ăn, lấy lễ-nghĩa làm
trọng, tính-nết thực-thà, trung-hậu, khảng-khái, chánh-trực, can-đảm, quả-quyết,
cố chí học-hành, lập-nghiệp, có tư-cách, nghĩa-khí, khoan-dung độ-lượng, thích
làm việc nghĩa, hào-hoa phong-nhă, và thương vợ quí con, v.v.:
- Làm trai chí ở cho bền, / Đừng
lo muộn vợ, chớ phiền muộn con.
- Làm trai có chí lập thân,/ Rồi
ra gặp hội phong vân có ngày.
- Làm trai quyết chí tang bồng,
/ Sao cho tỏ mặt anh hùng mới cam.
- Làm trai cờ bạc th́ chừa, /
Rượu làng th́ uống, rượu mua th́ đừng.
- Làm trai quyết chí tu thân, /
Công danh chớ vội, nợ nần chớ lo.
- Làm trai nết đủ trăm đường, /
Trước tiên điều hiếu, đạo thường xưa nay.
-
- Muốn đời sống của vợ chồng có
hạnh-phúc th́ vợ chồng phải thương-yêu nhau, kính-trọng nhau, nhường-nhịn nhau,
lấy lời-lẽ hơn-thiệt ngọt-ngào sửa-chữa lỗi-lầm cho nhau, tránh to tiếng và đánh
đập nhau, giữ thể-diện cho nhau để ư săn-sóc và chiều sở-thích của nhau, và vợ
làm việc nọ th́ chồng đỡ đần việc kia, v.v.:
-
- Xấu chàng hổ thiếp.
- Thuận vợ thuận chồng tát
Bể-Đông cũng cạn.
- Một câu nhịn là chín câu lành.
- Đạo vợ chồng khó lắm bạn ơi, /
Chẳng dễ như ong bướm đậu rồi lại bay.
- Đạo vợ chồng chẳng dễ đổi thay,/
Dầu làm nên vơng giá hay rủi ăn mày cũng cứ theo nhau.
- Đạo cương thường không phải
như cá với tôm,/Đương mua mớ nọ lại chồm mớ kia.
- Anh ơi anh ở lại nhà, / Anh
đừng vui thú nguyệt hoa chơi bời.
- C̣n tiền kẻ rước người mời, /
Hết tiền chẳng thấy một người vào ra.
- Ai ơi đừng phụ bát đàn, / Nâng
niu bát sứ vỡ tan có ngày.
- Đôi ta cố sức lên gềnh, / Em
ra đứng mũi cho anh chịu sào.
- Vợ chồng là nghĩa tào-khang, /
Chồng ḥa vợ thuận nhà thường yên vui.
-
- Mai sau dù có làm sao, / Cũng
xin giữ trọn t́nh cao nghĩa dày (Thơ
Khải Chính, “Từ Duyên Bằng Hữu Đến Nghĩa T́nh.”)
-
- Vợ chồng có ḥa-thuận, gia-đ́nh
mới hạnh-phúc, con cái mới thành người tốt, và nhiên-hậu xă-hội đất-nước mới an-vui.
Có được việc ḥa-thuận này phần lớn là nhờ người đàn bà Việt-Nam là những đấng
hiền-phụ. Khi chồng là đấng trượng-phu và vợ là đấng hiền-phụ th́ không có cảnh
xáo-trộn trong gia đ́nh:
-
- Xét ra trong đạo vợ chồng, /
Cùng nhau nương cậy để pḥng nắng mưa.
- Rương xe ch́a khóa em cầm, /
Giang sơn anh gánh, nợ-nần em lo!
- Đôi ta như rắn liu-điu, / Nước
chảy mặc nước ta d́u lấy nhau.
- Đôi ta là nghĩa tào-khang, /
Xuống khe bắt ốc lên đàng hái rau.
- Đôi ta như thể con tằm, / Cùng
ăn một lá cùng nằm một nong.
- Đôi ta như thể con ong, / Con
quấn con quít, con trong con ngoài.
- Đôi ta như thể con bài, /
Chồng đánh vợ kết chẳng sai quân nào.
- Đôi ta cố sức lên ghềnh, / Em
ra đứng mũi cho anh chịu sào.
- Đốn cây, ai nỡ đốn chồi, / Đạo
chồng nghĩa vợ, giận rồi lại thương.
- Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,
/ Chồng cầy vợ cấy con trâu đi bừa.