Home T́m Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
 

Đạo Làm Con Trong Ca-Dao

Con người có bố có ông,
Như cây có cội, như sông có nguồn.
 
 
Người Việt thường lấy chữ hiếu làm trọng. Đă có thời gọi là đạo hiếu hay đạo làm con. Đạo là một lối sống ngang hàng như khuôn phép của một tôn-giáo. Nếu lấy việc thờ Trời là Đạo của người b́nh-dân Việt-nam, th́ việc phụng-dưỡng cha mẹ và thờ cúng ông bà tổ-tiên là thực-hành phần h́nh nhi hạ của đạo thờ Trời. Đó là điểm đặc-sắc của văn-hoá Việt. Ngày nay chúng ta c̣n giữ được đạo hiếu là c̣n giữ được một phần văn-hoá dân-tộc, c̣n giữ được nền-tảng gia-đ́nh Việt-nam.
Làm trai nết đủ trăm đường,
Trước tiên điều hiếu: đạo thường xưa nay.
Công cha đức mẹ cao dày,
Cưu mang trứng nước những ngày ngây thơ.
Nuôi con khó nhọc đến giờ,
Trưởng thành con phải biết thờ hai thân.
Thức khuya dậy sớm cho cần,
Quạt nồng ấp lạnh giữ phần đạo con.
 
Gần gũi nhất, hiếu là sự đối-xử tốt đẹp của con cái đối với cha mẹ. Xa hơn hiếu c̣n là sự kính-trọng biết ơn của con cháu đối ông bà, tổ-tiên.
Vua tôi sẵn có nghĩa dày,
Cha con thân lắm, đấng người nên trông.
Khi ấp lạnh, lúc quạt nồng,
Bữa dâng ngon-ngọt, bữa dùng sớm trưa.
Ở cho thoả chí người xưa,
Đền ơn trả nghĩa thuở xưa bế bồng.
Ca-dao nh́n hiếu một cách thực-tế và gắn liền với cuộc sống hằng ngày. Tuy chỉ là nhũng lời ca ngắn gọn, nhưng cũng bao gồm được nhiều vấn-đề về hiếu rất thú-vị.
 
1. Hiếu Là biết Công-ơn  cha mẹ sinh-thành:
 
Công ơn sinh ra và nuôi dưỡng từ ngày c̣n ấu-thơ:
Ba năm bú mớm con thơ,
Kể công cha mẹ biết cơ-ngần nào!
Dạy rằng chín chữ cù-lao
Bể sâu không ví, trời cao không b́.
 
Trong xă-hội nông-nghiệp, người mẹ thường tự tay nuôi con thơ. Chẳng những cái ăn cái ngủ của con lệ-thuộc vào mẹ; mà chính cái ăn cái ngủ của mẹ cũng tùy thuộc vào con:
Gió mùa thu, mẹ ru con ngủ,
Năm canh chầy, thức đủ năm canh.
 
Nhiều người mẹ đă gầy-ṃn khô-héo v́ thức khuya dậy sớm nuôi con:
Ngày nào em bé con-con,
Bây giờ em đă lớn khôn thế này:
Cơm cha, áo mẹ, công thầy,
Nghĩ sao cho bơ những ngày ước-ao.
Nuôi con cho được vuông tṛn,
Mẹ thầy dầu-dăi, xương ṃn gối long.
Con ơi, cho trọn hiếu trung,
Thảo ngay một dạ, kẻo luống công mẹ thầy.
 
Nhớ công ơn nuôi dưỡng của cha mẹ dành cho ḿnh là khởi đầu của ḷng hiếu thảo:
Ơn cha nặng lắm ai ơi,
Nghĩa mẹ bằng trời, chín tháng cưu mang.
Công ơn cha mẹ mang-mang cùng đất trời. Nh́n vào đâu con-cái cũng thấy công ơn cao dày của cha mẹ:
Công cha như núi ngất trời,
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển đông.
Núi cao biển rộng mênh-mông,
Cù-lao chín chữ, ghi ḷng con ơi!
 
Hiếu là căn-bản của đời sống Việt-nam. Chính cha mẹ cũng luôn nhắc nhỡ con-cái ḿnh về công-ơn lớn-lao như trời biển của đấng sinh-thành dưỡng-dục:
Mẹ nuôi con bấy lâu rồi,
Nuôi con cho đến thành người mới nghe.
 
Công cha như núi Thái-sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một ḷng thờ mẹ kính cha,
Cho tṛn chữ hiếu, mới là đạo con.
 
2. Hiếu là nhớ thương cha mẹ khi xa-cách:
 
Trong xă-hội nông-nghiệp, con-cái khi trưởng thành, thường sống chung hoặc sống gần-gũi với cha mẹ. Con trai thường xa nhà khi đi lính hoặc đi làm quan sau khi đỗ-đạt. Con gái thường xa nhà khi phải lấy chồng xa. Ḷng hiếu được giăi bày qua những lời tâm-sự nhớ thương.
Ngó lên Ḥn Kẽm, Đá Dừng,
Thương cha nhớ mẹ quá chừng bạn ơi.
Ngó lên, ngó xuống th́ vui,
Ngó về quê mẹ ngậm-ngùi nhớ thương.
 
Niềm nhớ thương đằng-đẵng suốt cả cuộc đời:
Ngó lên dàng-dạng da trời,
Thương cha nhớ mẹ biết đời nào nguôi.
Xót xa thay cho nỗi nhớ thương của người con phải ĺa xa cha mẹ:
Vẳng nghe chim vịt kêu chiều,
Bâng-khuâng nhớ mẹ, chín chiều ruột đau.
Thương thay chín chữ cù-lao,
Ba năm nhũ-bộ biết bao nhiêu t́nh.
 
Dù cha mẹ có già-nua đi nữa, việc xa cha mẹ vẫn là một điều đau-khổ cho con cái:
Cha già tuổi đă dư trăm,
Chạnh ḷng nhớ tới, đằm đằm châu sa.
 
Thương cha nhớ mẹ quay-quắt trong ḷng, đôi khi xáo-trộn cả sinh-hoạt hằng ngày. Chỉ nghĩ đến cha mẹ không được săn-sóc cho được ấm no, người con xa nhà khó ḷng vui thú sinh-hoạt hiện-tại dù chỉ là một bữa ăn hằng ngày:
Gió đưa cây cửu lư hương,
Giờ xa cha mẹ thất thường bữa ăn.
Sầu riêng bữa chẳng muốn ăn,
Đă bưng lấy bát lại dằn xuống mâm
 
Ngay cả khi đă lớn, thành vợ thành chồng mà cha mẹ chẳng c̣n th́ hằng ngày ḷng nhớ thương vẫn canh-cánh bên ḷng:
Anh làm rể bên em, có cha mà không có mẹ
Em làm dâu bên anh, có mẹ mà không có cha.
Bữa ăn nước mắt nhỏ sa,
Thân-phụ ơi thân-phụ hỡi, đi đâu mà bỏ con.
 
Câu cuối nghe xót-xa như tiếng khóc nỉ-non trong một đám tang.
Nỗi nhớ thương, ḷng biết ơn sâu-xa càng hiện rơ khi ḿnh nuôi-dưỡng chính con-cái của ḿnh:
Nuôi con mới biết sự t́nh,
Cảm thương cha mẹ nuôi ḿnh ngày xưa.
 
3. Hiếu Là Phụng Dưỡng Mẹ Cha
 
Ngồi buồn thương mẹ nhớ cha,
Gối loan ai đỡ, kỷ trà ai nâng.
 
Không được gần-gũi, kề-cận với cha mẹ già tạo ra nhiều lo-lắng nhớ thương:
Đi đâu mà bỏ mẹ già,
Gối nghiêng ai sửa, chén trà ai dâng?
 
Không phụng-dưỡng được mẹ cha, xem như là bất hiếu:
Mẹ già ở tấm lều tranh,
Đói no không biết, rách lành chẳng hay.
 
Nuôi-dưỡng, săn-sóc cha mẹ khi già-yếu là h́nh-thức hiếu căn-bản trong đời sống gia-đ́nh:
Mẹ già đầu bạc như tơ,
Lưng đau con đỡ, mắt mờ con nuôi.
 
Ngày đêm may vá kiếm tiền,
Trước nuôi cha mẹ, sau tuyền đạo con.
 
Sự phụng-dưỡng không đ̣i hỏi phải cao-sang. Cung-cách phụng-dưỡng mới nói lên được ḷng hiếu-thảo:
Anh đi vắng cửa vắng nhà,
Giường loan gối quế, mẹ già ai nuôi!
Cá rô anh chặt bỏ đuôi,
Tôm càng bóc vỏ, anh nuôi mẹ già.
 
Ba tiền một khứa cá buôi,
Cũng mua cho được mà nuôi mẹ già.
 
Người Huế có thêm một cách phụng-dưỡng rất địa-phương:
Tôm rằn lột vỏ, bỏ đuôi,
Gạo de An-cựu mà nuôi mẹ già.
 
Con-cái ăn ǵ th́ cha mẹ già ăn thứ đó, không đ̣i-hỏi phải cao-sang. Với gia-đ́nh b́nh-dân th́ cơm với cá là món ăn căn-bản cho cha mẹ. Nếu có một chút hy-sinh quyền-lợi căn-bản của chính ḿnh, như nhịn phần cơm của ḿnh để nuôi cha mẹ, th́ ḷng hiếu mới trọn vẹn.
Đói ḷng ăn hột chà-là,
Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng.
Đói ḷng ăn trái ổi non,
Nhịn cơm nuôi mẹ, cho tṛn nghĩa xưa.
 
Ngày nay chúng ta vẫn c̣n tiết-kiệm từng miếng ăn, từng mảnh áo, để có ít tiền gởi về cho cha mẹ ở nơi xa. Đáng kính thay ḷng hiếu-thảo của người con Việt-nam.
Ḷng hiếu của người b́nh-dân thiết-tha, đậm-đà và thực-tế hơn cảnh cắt thịt của ḿnh cho cha mẹ ăn, hay ôm gốc măng mà khóc như trong Nhị thập tứ hiếu của Nho-gia.
Nếu phải xa nhà v́ công việc làm ăn, người chồng dặn-ḍ người vợ trẻ một vài phương cách phụng-dưỡng mẹ già thay ḿnh.
Liệu mà thờ kính mẹ già,
Đừng tiếng nặng nhẹ, người ta chê cười.
Dù no dù đói cho tươi,
Khoan ăn bớt ngủ, liệu bài lo toan.
 
 
4. Hiếu  là thành đạt:
 
Thành-công trong công việc làm ăn, đạt được công-danh qua việc học-hành thi-cử cũng là một h́nh-thức báo-hiếu, tức là làm rạng-rỡ danh-giá tổ-tiên, nhưng cũng là phương-cách có nhiều tiền để giúp cho việc phụng-dưỡng mẹ cha được chu-đáo hơn, mới gọi là đền ơn cha mẹ cho tṛn chữ hiếu.
Ngó lên trời, trời cao lồng-lộng,
Ngó xuống đất, đất rộng mênh-mông.
Biết răng chừ cá gáy hóa rồng,
Đền ơn thầy mẹ ẳm bồng ngày xưa.
 
Quan-niệm này vẫn c̣n ảnh-hưởng đến chúng ta cho đến ngày nay. Nhiều phụ-huynh đă khuyến-khích, đă hy-sinh tốn kém cho con-cái học xong bốn năm đại-học. Phần lớn con em chúng ta đạt được cấp bằng tiến-sĩ, cử-nhân đủ mọi ngành. Đó là thành-quả đẹp, khởi đi từ lời ca văng-vẳng từ ngàn xưa:
Con ơi muốn nên thân người,
Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha.
Gái thời dệt gấm thêu hoa,
Khi vào canh-cửi, khi ra thêu-thùa.
Trai thời đọc sách ngâm thơ,
Dùi mài kinh-sử để chờ kịp khoa.
Mai sau nối được nghiệp nhà,
Trước là đẹp mặt, sau là ấm thân.
 
Cần-cù chăm-chỉ cấy-cày cũng là hiếu, v́ hoa-màu thu-hoạch lại được dùng trong việc phụng-dưỡng mẹ cha:
Em th́ đi cấy ruộng bông,
Anh đi cắt lúa để chung một nhà.
Đem về phụng-dưỡng mẹ cha,
Muôn đời tiếng hiếu người ta c̣n truyền.
 
Làm ăn được mùa cũng dễ-dàng thực-hiện ḷng hiếu-thảo:
Trời cho cày cấy đầy đồng,
Xứ nào xứ ấy trong ḷng vui ghê.
Một mai gặt lúa mang về,
Thờ cha kính mẹ nhiều bề hiếu trung.
 
 
5. hiếu là biết phụng-thờ tổ-tiên
 
Trứng rồng lại nở ra rồng
Hạt thông lại nở cây thông rườm-rà.
Có cha có mẹ mới có ta,
Làm nên thời bởi mẹ cha vun trồng.
Khôn-ngoan nhờ đức cha ông,
Làm nên phải đoái tổ-tông phụng-thờ.
Đạo làm con chớ hững-hờ:
Phải đem chữ hiếu mà thờ từ-nghiêm.
 
Thờ, ngày xưa c̣n có nghĩa là phụng-dưỡng cha mẹ với ḷng tôn-kính. Ngày nay thờ  mang nặng ư-nghĩa tôn-giáo, chỉ dành cho người quá cố.
Ngó lên trời thấy cặp cu đang đá
Ngó ra ngoài biển thấy cặp cá đương đua
Đi về lập miễu thờ vua,
Lập trang thờ mẹ, lập chùa thờ cha.
 
Đó là những lời ca mẹ ru con ngủ. Nghe măi nghe hoài con trẻ cũng nhớ vào ḷng. Lập trang ở trong nhà để được giữ h́nh-ảnh mẹ bên cạnh. C̣n cha th́ thờ ở chùa là nơi công-cộng trong xóm làng, nơi làm sáng danh gia-đ́nh với xă-hội.
Người Việt đi đâu cũng mang theo gia-đ́nh. Ngày trước khi di-cư vào nam, chúng ta mang theo cả gia-đ́nh. Ngày nay di-tản ra hải-ngoại, chúng ta không chỉ mang theo vợ chồng con-cái, mà c̣n mang theo cả ông bà, cha mẹ.
Thờ cha mẹ, ở hết ḷng,
Ấy là chữ hiếu dạy trong luân thường.
 
Phụ mẫu bên anh cũng như phụ-mẫu bên nàng,
Lẽ thường anh cũng phải tạc đá bia vàng để thờ chung.
Một điểm đặc-biệt trong văn-hóa gia-đ́nh Việt-nam là con rể hay con dâu đều gọi cha mẹ chồng hay cha mẹ vợ là cha mẹ. Cha mẹ hai bên là tứ thân phụ-mẫu. Xem dó là liên-hệ trực-tiếp trong gia-đ́nh. Cha mẹ chồng, cha mẹ vợ đều được gọi là cha me, cùng một từ như cha mẹ ruột. Cha mẹ gọi con dâu hay con gái với một từ chung là con. Từ con do cha mẹ gọi ra không có sự phân-biệt con trai hay con rể. Việc gọi chung từ con, cha, mẹ  không thể là sự ngẫu-nhiên của ngôn-ngữ, mà là một điểm son của văn-hóa gia-đ́nh. Việt-nam rất giàu từ-ngữ để chỉ sự khác biệt về sự liên-hệ gia-đ́nh gián-tiếp như: nội-ngoại,  bác-bác, chú-thím, cậu-mợ, cô-dượng, d́-dượng, anh-chị ...
Thực-tế có sự khác-biệt về t́nh-cảm và huyết-tộc giữa cha mẹ ruột với cha mẹ chồng hoặc cha mẹ vợ, nhưng tập-tục và đời sống khi thực-hành chữ hiếu đă nâng tứ thân phụ mẫu ngang hàng với nhau:
Phụ-mẫu thiếp cũng như phụ-mẫu chàng,
Hai bên phụ-mẫu tạc bốn chữ vàng thờ chung.
 
Ngay cả khi vợ chồng xa nhau rồi, ḷng hiếu với cha mẹ đôi bên cũng không hề thay đổi. Đáng cảm-phục thay t́nh gia-đ́nh của người b́nh-dân Việt-nam.
Phụ-mẫu t́nh thâm,
Phu-thê nhân ngăi trọng,
Một mai anh có xa em rồi, em thờ vọng mẹ cha.
 
Anh đi ghe cá cao cờ,
Ai nuôi cha mẹ, ai thờ tổ-tiên?
 
Phụng-thờ tổ-tiên là điểm đặc-biệt của văn-hóa Việt-nam. Người b́nh-dân sống tự-nhiên thoải mái với việc cầu Trời và thờ Ông bà tổ-tiên của ḿnh. Xem việc phụng-thờ ông bà tổ-tiên là lối sống tự-nhiên, là một phương-cách biểu-lộ ḷng hiếu-thảo với cha mẹ. Khi cha mẹ, ông bà đă qua đời, hiếu được bày tỏ qua sự tôn-kính phụng thờ:
Công danh hai chữ tờ-mờ,
Lăy ǵ khuya sớm phụng thờ tổ-tiên.
 
Khi cha mẹ già yếu thường ở chung với con cái. Khi cha mẹ ốm đau con cái tự tay săn-sóc. Khi cha mẹ lâm-chung con cái thường gần-gũi bên cạnh. Nếu không được như vậy th́ ít nhất cũng phải chịu tang. Kim-Trọng từ-giă Thúy-Kiều để về thọ tang cha, Nguyễn đ́nh Chiểu bỏ thi để về chịu tang mẹ.
Chữ rằng: vấn tổ tầm tông,
Cháu con nỡ bỏ cha ông sao đành.
 
Đau xót nhất là sự chia xa đôi ngả âm dương. Chúng ta từng biết nhiều bài điếu văn xót-xa thắm-thía giữa người ở lại khóc kẻ ra đi. Trong văn-chương b́nh-dân cũng có vài bài văn tế. Đặc-biệt nhất là bài ca-dao tế mẹ: lời lẽ thiết-tha, ư-t́nh thống-thiết:
 
Trời hỡi Trời ! Sao dời vật đổi.
Nên chi cỏ héo hoa sầu !
Kể từ ngày nương tựa lều tranh
Công ơn mẹ kể không xiết kể !
Tuần cay đắng chín trăng có lẻ
Chữ sinh-thành nghĩa mẹ tày non
Bên ướt mẹ nằm bên ráo phần con.
Mẹ nuôi con vuông tṛn khôn lớn
Cho con xin đền miếng ngọt mùi ngon.
Nào hay đâu bóng xế đầu non
Trong phút chốc đă phân chia đôi ngả!
Đêm năm canh nghe con ve kêu giục-giă
Ngày sáu khắc nh́n đèn hắt-hiu!
Con đương mơ-màng, sực tiếng mẹ kêu
Muốn t́m mẹ, t́m sao đặng mẹ ?
Ba tấc đất, táng an theo lệ
Tấm ḷng thành chưa thỏa ḷng con.
Chốn mộ phần con gởi nước non
Một chén rượu ngọt, giă-từ thân mẹ.
Ô hô ! Ai tai ! Phục duy thượng hưởng!
Xa đồng mà không trông thấy ! U hu!
Mai đà hạc lánh h́nh du
Tây phương đất Phật, mẹ đi không về!
 
Mồ yên mả đẹp cũng là một h́nh-thức báo hiếu.  Điều này vẫn c̣n ở trong ḷng những người con phải đi lập nghiệp phương xa. Khi điều-kiện kinh-tế cho phép, một trong những việc hiếu đầu-tiên là chỉnh-trang nhà thờ và lăng-mộ tổ-tiên.
Ơn cha ba năm t́nh thâm lai-láng,
Nghĩa mẹ đậm-đà chín tháng cưu mang.
Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn.
Biết lấy chi đền nghĩa khó-khăn,
Đôi đứa ta lên non xắn đá, xuống xây lăng phụng thờ.
 
Việc kỵ-giỗ, chú trọng đến ḷng kính-mến nhớ thương. Bàn thờ lạnh-tanh, không hương khói ấm cúng, là điều đau ḷng cho con-cái.
Ngó lên nhang tắt, đèn mờ,
Mẫu thân đâu vắng, bàn thờ lạnh tanh.
 
Ngay cả cổ bàn khi kỵ-giỗ cũng đơn-giản thôi. Đó là những món ăn thân-thiết, b́nh-dị, dân-dă trong đời sống hằng ngày như rau muống, nước tương mà cô thôn-nữ đă dùng để phụng-dưỡng cha mẹ già.
Nhà em có vại cà đày,
Có ao rau muống, có đày chum tương.
Dù không mỹ-vị cao-lương,
Trên thờ cha mẹ, dưới nhường anh em.
Một nhà vui-vẻ êm-đềm,
Đói no tùy cảnh, không thèm lụy ai.
 
Chỉ những người giàu sang, mới có cổ bàn đầy xôi thịt:
Cồng-cộc bắt cá dưới bàu,
Cha mẹ mày giàu, đám giỗ đầu heo.
 
Trong việc thờ phụng hiếu với mẹ cha được xem trọng hơn là nghĩa vợ chồng:
Anh chết ba năm sống lại một giờ,
Để xem người ngọc phụng-thờ ra sao ?
Thờ chàng đĩa muối đĩa rau,
Thờ cha kính mẹ mâm cao cỗ đầy.
 
Kỵ-giỗ là một phương-cách tuyệt-vời để duy-tŕ và phát-huy tinh-thần gia-tộc. Trong mùi trầm hương lâng-lâng ngào-ngạt của một lễ giỗ rất dễ cho ta nhận ra tinh-thần ông bà tổ-tiên hiện-hữu qua h́ng-dạng, qua phong-cách của chúng ta và của đám con cháu đang quay-quần trước bàn thờ. V́ tính-cách nhân-bản và thiết-thực của việc thờ cúng ông-bà tổ-tiên, mà các tôn-giáo khi du-nhập vào Việt-nam đă dễ-dàng ḥa-đồng với niền tin này. Nho, Thích, Lăo đă được thờ chung với ông-bà tổ-tiên. Gần đây giáo-quyền Công-giáo đă có tông-thư để giáo-hữu tham-dự hay tổ-chức lễ giỗ ông-bà tổ-tiên. Dù theo tôn-giáo nào, người Việt-nam cũng giữ việc thờ-kính tổ-tiên.
 
6. Phân vân giữa hiếu và t́nh
 
Đă có nhiều thiếu-nữ quyết-định không lập gia-đ́nh riêng v́ muốn gần-gũi cha mẹ để lo tṛn chữ hiếu. Thay cha mẹ để nuôi dưỡng em-út cũng là một cách thực-hành chữ hiếu. Cũng có nhiều người chị cả không chịu lấy chồng, ở vậy để nuôi-nấng đàn em khi mẹ cha không may đă qua đời quá sớm.
Ơn hoài thai như biển,
Ngăi dưỡng-dục, tợ sông.
Em nguyền ở vậy pḥng không,
Lo đàng cha mẹ cho hết ḷng phận con.
 
Ơn mẹ như biển, nghĩa cha như sông. Biển bao-la rông lớn hơn sông. Ơn mẹ thật-sự lớn hơn nghĩa cha.
Niềm kim thạch, nghĩa cù lao,
Bên t́nh bên hiếu, ở sao cho tuyền.
 
Con trai mới lớn, c̣n ở với mẹ cha đôi khi gặp khó-khăn giữa việc: hiếu với mẹ cha hay trọn t́nh với người yêu:
Chim kêu ải Bắc, non Tần,
Nửa phần thương mẹ, nửa phần thương em ?
 
Th́ người con gái thường giúp cho người yêu hoàn-thành chữ hiếu để giữ trọn chữ t́nh:
Anh đà có vợ hay chưa,
Mà anh ăn nói gió đưa ngọt-ngào?
Mẹ già anh ở nơi nao?
Để em t́m vào hầu-hạ thay anh.
 
Người con trai muốn sống trọn hiếu và t́nh, thường đặt câu hỏi với người yêu để thay cho lời trần t́nh, hay lời cầu xin:
Đèo nào cao cho bằng đèo Châu-đốc,
Đất nào dốc cho bằng đất Nam-vang.
Một tiếng em than: hai hàng lụy nhỏ,
Anh có mẹ già biết bỏ ai nuôi.
Nước chảy xuôi, con cá buôi lội ngược,
Anh muốn thương nàng, biết được hay không?
 
Các nàng này thực-tế và khôn-ngoan, biết rằng con trai khi đă hiếu với mẹ th́ thường yêu-thương và chung t́nh với vợ, nên các nàng không ngần-ngại trả lời:
Mẹ già là mẹ già chung,
Anh lo thang thuốc, em giùm cháo cơm.
 
Mẹ già hai đứa nuôi chung,
Đứa lo cơm cháo, đứa giùm thuốc-thang.
 
Tự-lực văn-đoàn với chủ-trương ‘hoàn-toàn theo mới’ đă nặng tay đả-kích cảnh mẹ chồng nàng dâu của ảnh-hưởng Nho-giáo, mà bỏ qua những t́nh-hiếu đẹp-đẽ của nàng dâu và mẹ chồng trong nếp sống b́nh-dân.
Trong ca-dao t́nh và hiếu giao-ḥa với nhau, tạo nên t́nh gia-đ́nh tŕu-mến hạnh-phúc. Nhiều thiếu-nữ cũng gặp khó-khăn trên. Họ đ̣i hỏi người yêu phải thông-cảm:
Chàng ơi: ơn thầy ba năm cúc-dục,
Nghĩa mẹ chín tháng cưu mang.
Ai đền ơn cho thiếp,
Mà nhủ thiếp trao ân t́nh.
 
Chẳng lo thân bậu với qua,
Lo chút mẹ già đầu bạc tuổi cao.
Chim c̣n mến cội mến cành,
Anh cũng biết cho em
C̣n mến nghĩa sinh-thành của mẹ cha.
 
Cho đến ngày cưới, người con gái thích thưa tŕnh và tạ ơn cha mẹ trong khuông phép lễ-nghi của gia-đ́nh.
Con lạy cha hai lạy một quỳ,
Lạy mẹ bốn lạy, con đi lấy chồng.
 
Nếu có người con gái nhẹ dạ theo chàng, nàng phân-vân đặt câu hỏi cho chính ḿnh hay cho chàng:
Nhớ hồi mẹ đẻ thiếp ra,
Nhai cơm sún nước, lớn mà chừng ni.
Nghe lời chàng, bỏ mẹ ra đi,
Thất hiếu với phụ-mẫu,
Có hề chi không, hỡi chàng ?
 
th́ người thanh-niên cũng nhẹ-nhàng khuyên-nhủ người yêu hăy lo công cha nghĩa mẹ trước:
Công cha nghĩa mẹ ai đền,
Mà em ôm áo, ôm mền theo anh?
 
Với người con gái chữ hiếu thường nặng hơn chữ t́nh:
Công sinh-dục bằng công tạo-hóa,
Có mẹ cha, sau mới có chồng.
Em nhớ khi d́u-dắt ẳm bồng,
Nay em lao-khổ năo-nùng, không than.
 
Nếu t́nh-duyên trắc-trở, th́ phụng-dưỡng mẹ già cũng là một phương-cách giải-quyết tốt đẹp:
Nên th́ lập kiểng trồng hoa,
Chẳng nên đá kiểng trồng cà dái dê.
Chẳng nên thiếp trở lộn về,
Dưỡng nuôi từ-mẫu trọn bề hiếu trung.
 
7. Hiếu  và bỏ nhà đi tu
 
Đi tu đối với người b́nh dân là cắt đứt mọi liên-lụy t́nh-cảm, trong đó có t́nh gia-đ́nh. Điều này không được chấp-nhận. Đối với họ: hiếu cũng là tu. Đạo hiếu thực-tế hơn.
Tu đâu cho bằng tu nhà,
Thờ cha kính mẹ ấy là chân tu.
 
Hiếu là đạo sống của người b́nh-dân Việt-nam. Nếu phải lựa chọn, chắc-chắn người con có hiếu sẽ chọn việc đền-đáp công-ơn mẹ trước khi bỏ nhà lên chùa với Phật.
Lên chùa thấy Phật muốn tu,
Về nhà thấy mẹ công-phu chưa đền.
 
Chính giáo-lư nhà Phật cũng quan-niệm: cha mẹ ở nhà như là Phật ở trần thế:
Có hai Phật sống trong nhà:
Sớm hôm lễ niệm đi xa đâu cần.
Hoặc mạnh-dạn và rơ-ràng hơn:
Cha già là Phật Thích-ca,
Mẹ già đích thị Phật bà Quan-âm.
 
Nếu phải lo tṛn chữ hiếu rồi mới được vào chùa, th́ việc tu-hành sẽ khó đạt được với người con có lời cầu-xin cha-mẹ sống đời với con:
Đêm đêm thắp ngọn đèn trời,
Cầu cho cha mẹ sống đời với con
 
Và như vậy, dù cha mẹ không sống đời với con th́ trách-nhiệm với cha mẹ cũng c̣n măi cho đến ngày để chế mang tang cho cha mẹ:
Một mai bóng xế cội tùng,
Mũ rơm ai đội, áo thùng ai mang.
 
Và nếu đă đi tu rồi, th́ cũng khó tránh được miệng tiếng của thế-gian:
Tiểu kia đến ở chùa ta,
Một là giận mẹ, hai là giận thân.
Đêm nằm mà nghĩ xa gần,
Con người như thế đem thân ở chùa.
Ở chùa ăn những tương chua,
Ăn rau muống héo, ăn dưa cần già.
Sao không nghĩ đến cửa nhà,
Bát cơm manh áo, mẹ già ai nuôi?
 
Có suy-nghĩ xa gần đó, nhưng vẫn thấy việc lo bát cơm manh áo cho mẹ già là quan-trọng hơn, là đáng làm trước khi đem thân ở chùa.
Chúng ta phải nể-phục người b́nh-dân trong việc hội-nhập giáo-lư Phật-giáo vào văn-hóa dân-tộc. 
 
8.  Một triết-lư dân-tộc Việt trong  ca-dao
 
Trên đây chúng tôi chỉ sưu-tập và tŕnh-bày sơ-lược một số câu ca-dao theo chủ-đề chữ hiếu, chưa đến lúc đi sâu vào nội-dung từng bài để tổng-hợp rồi tŕnh-bày như là một quan-điểm triết-lư cho đời sống của người b́nh-dân Việt-nam. Thật ra người b́nh-dân không cần những điều mà tôi muốn làm. Họ chỉ cần những bài ca để ru con. Những bài ca chan-chứa t́nh người, t́nh gia-đ́nh. Họ hát lên như một lối tŕnh-bày, như một lời cầu mong, như một sự gởi-gắm. Họ mong rằng con cháu nghe qua, tự rút ra cho ḿnh những t́nh-cảm, những phương-cách sống về sự liên-hệ giữa con cái với cha mẹ, ông bà.
Nhưng không phải v́ sự b́nh-dị, đơn giản của người b́nh-dân mà chúng ta lại cho rằng người Việt-nam không có một nền triết-học dân-tộc như của Tàu, của Tây. Họ có đó, nhưng muốn hiểu được triết-lư của họ, chúng ta phải trở về với họ bằng tâm-t́nh, bằng hồn dân-tộc, hơn là bằng khoa-học lư-trí.  Tôi cảm thấy không vui lúc biết các cụ đồ Nho đùa-bỡn văn-học b́nh-dân bằng câu: Nôm-na là cha mách-qué, Mách-qué là mẹ nôm-na.
Ngày nay chủ thuyết vô gia-đ́nh và tự-do cá-nhân đă đưa đến cảnh: con phê-phán mẹ cha, hoặc thoát-ly gia-d́nh quá sớm. Cả hai chủ-thuyết trên đă làm tan-ră gia-đ́nh, gây nhiều khó-khăn cho đời sống của con-cái và làm lung-lay ḷng hiếu-thảo của người Việt-nam.          
 Nguyễn văn Mỹ
10, 2007
 Tài-liệu tham-khảo:
- Phong-tục miền nam qua mấy vần ca-dao của Đào văn Hội do Nhà sách Khai-trí, Saigon 1961.
- Việt-nam thi-văn hợp tuyển của Trần trọng Kim do Bộ Giáo-dục tái-bản, Sài-g̣n 1968
- Kinh thi Việt-nam của Trương Tửu, do Xuân-Thu tái-bản, Texas 1984.
- Về với Ca-dao của Duyên Anh do Vũ Trung Hiền xuất-bản, California 1995.
-Kho tàng ca-dao người Việt  của nhóm Nguyễn xuân Kính do Văn-hóa xuất-bản, Hà-nội 2001
- Hương Hoa Dân Việt  của Lă Mộng Thường do Xuân-Thu phát-hành, Texas, không ngày tháng.
- Ngôn-sứ Thời-đại Mới  của Nguyễn Chính Kết do Hy-vọng xuất-bản, Hoa-kỳ 2001.
- Sưu tập Ca dao Việt-nam của Hà Phương Hoài trong e.cadao.com, Chicago 2003

 

 

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui ḷng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những ǵ liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 10/19/17