Home Tìm Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
 

Đạo Vợ, Nghĩa Chồng

Ngô Phụng Anh

Nho giáo có câu: “Quân tử chi đạo, tạo đoan hồ phu phu”. Con trai thì phải dựng vợ, con gái thì phải gả chồng. Đạo lớn của người quân tử là phải làm sao cho yên bề gia thất.Tại sao vậy? “Có cột, có kèo, mới có đòn tay”, muốn có con nối dõi, muốn có dòng hậu lai, mà không nên vợ nên chồng thì làm sao mà có được.

Trai mà không có vợ thì cho dù tài ba cách mấy, cũng khó mà giữ gìn được cơ nghiệp, như cái cảnh:

Sớm mai chạy ra mất cái cuốc 
Trưa lại mất cái nồi 
Chiều lại mất ống bình vôi 
Dâm chân ba cái kêu trời 
Vợ con chưa có, coi ngoài mất trong.

Còn con gái lớn mà chưa chồng thì còn ngặt nghèo hơn:

Tròng trành như nón không quai 
Như thuyền không lái, như ai không chồng.

Cho nên chuyện hôn nhân là chuyện hết sức hệ trọng. Ông bà mình có nói là: “Đạo vợ, nghĩa chồng”. Vợ cư xử với chồng là đạo, mà chồng sống với vợ là nghĩa. Cái đạo nghĩa đó ràng buộc cả hai vợ cũng cho tới răng long tóc bạc.

Theo cái hời hợt thông thường của thế sự thì:

Thế nhân mỏng dánh Tựa cánh con chuồn chuồnKhi vui nó đâu, khi buồn nó bay.
Nhưng, đạo vợ nghĩa chồng không phải như vậy:

Đạo vợ chồng không phải là cá tôm Đang mua mớ nọ, chạy chồm lên mớ kia. Xem thế thì vợ chồng phải chung thủy với nhau, trước sao, sau vậy. Bởi vì:

Đứt tay một chút còn đau 
Huống chi nhơn nghĩa lìa sao cho đành.

Vợ chồng ăn ở với nhau, đâu phải lúc nào cũng êm đềm hạnh phúc như lúc nào. “Sông có khúc, người có lúc” nhưng, dù sao đi nữa, cũng phải một mực cư xử với nhau hết lòng hết dạ.

Lúc giàu sang thì:
Cơm trắng ăn với chả chim
Chồng xinh, vợ lịch mãng nhìn mà no. 

Rủi thất cơ lỡ vận, nghèo rớt mùng tơi thì cũng phải tươi cười với nhau, tạo niềm hạnh phúc:

Râu tôm nấu với ruột bầu 
Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon.

Thực sự ra, nếu biết thương yêu nhau, nếu biết chia bùi xẻ ngọt với nhau thì cái chuyện vật chất đâu có phải là nguyên do để làm mất hạnh phúc gia đình: 

Thương nhau chẳng quản chiếu giường 
Một tàu lá chuối che sương cũng tình. 

Vợ chồng ăn ở với nhau cốt là ở tình thương. Người đàn ông, cho dù vợ mình làm sao, cho dù là ốm đau, xấu xí, cho dù là sút tay gãy gọng, đã là vợ chồng, phải thương yêu chiều chuộng:

Lồ mũi mười tám gánh lông 
Chồng thương, chồng bảo râu rồng trời cho 
Đêm nằm ngủ gáy o o 
Chồng thương, chồng bảo ngáy cho vui nhà 
Đi chợ thì hay ăn quà 
Chồng thương, chồng bảo về nhà đỡ cơm 
Trên đầu những rác cùng rơm 
Chồng thương, chồng bảo hoa thơm cài đầu...

Hoặc là:

Trắng như bông lòng anh không chuộng 
Đen như cục than hầm 
Lòng anh muốn, dạ anh thương.

Về phía người đàn bà cũng vậy, “khôn ngoan cũng thể chồng người”, chớ lấy chồng người mà so sánh với chồng mình:

Chồng ta áo rách ta thương 
Chồng người áo gấm xông hương mặc người 

Cũng chớ nên thấy chồng người ta áo mũ xênh xang, rồng bay phượng lộn mà chê chồng mình nghèo nàn thấp kém:

Trăm năm trăm tuổiMay rủi một chồng 
Dù ai thêu phụng vẽ rồng mặc ai

Cái thói “giàu đổi bạn, sang đổi vợ” là cái thói của những gã đàn ông vô nghì, mà cái thói mới thấy chồng thất cơ lỡ vận đã lên mặt ruồng rẫy, phụ phàng là cái thói của thứ đàn bà trắc nết, lăng loàn.Người phụ nữ thương chồng, không những chăm lo săn sóc cho chồng, mà còn phải trưởng cái chí cho chồng. Nhiều người đàn ông chí ở tứ phương, tang bồng hồ thỉ. Thương chồng không có nghĩa là bo bo giữ rệt chồng một bên mình, không để cho chồng rời nửa bước, mà là phải lo giúp đỡ cho chồng thực hiện được cái chí nam nhi.Hãy nghe người chồng nói lên cái chí của mình:

Giặc Sài Gòn đánh xuống 
Binh ngoài Huế không vô 
Anh biểu em đừng đợi đừng chờ 
Để anh đi lấy đầu thằng mọi trắng 
Về tế cờ nghĩa quân.

Và người vợ trả lời:

Anh đi đánh giặc Lang sa 
Để thiếp ở nhà lo tần, lo tảo
Chén cơm, manh áo
Nhà cửa ruộng vườn 
Để anh lên ngựa đề thương
Thiếp về mặc thiệp liệu lường nuôi con

Tấm gương của những người vợ không nài khó nhọc gian nan để giúp chồng thành toàn chí nguyện như bà Thái Thị Huyên (vợ của cụ Sào Nam Phan Bội Châu), bà Lê Thị Lễ (vợ của cụ Cử nhân Lương Văn Can, hiệu trưởng trường Đông Kinh Nghĩa Thục), bà Võ Thị Quyền (tục danh là cô Ba Bàn, vợ của nhà cách mạng Trần Cao Vân) vẫn là vằng vặc muôn đời...

Gái đã có chồng phải “tùng nhứt chi dụng”. Mười lăm nam lưu lạc “thanh lầu hai lượt, thanh y hai lần”, đem thân cho thiên hạ mua cười, như Thúy Kiều, mà còn biết nói với Từ Hải: 

...Phận gái chữ tòng 
Chàng đi, thiếp cũng một lòng xin đi. 

Ca dao Việt Nam không thiếu gì những câu để nhắc nhở cái đạo “tùng phu”: 

Có chồng thì phải theo chồng 
Chồng đi hang rắn, hang rồng cũng theo. 

Hay là: 

Lên non cho thiếp lên theo 
Tay vịn, chân trèo, hái trái nuôi nhau. 

Vợ chồng ăn ở với nhau, trông cậy nhau ở lúc lối lửa tắt đèn, bệnh hoạn ốm đau, chớ lúc mạnh khỏe, thảnh mảnh tay chân, dễ gì ai lại cần tới ai: 

Cỏ mọc bờ giếng cheo leo 
Lâm nguy có bậu, hiểm nghèo có qua. 

Vui buồn, sướng khổ, lúc nguy nan, khi túng ngặt thì cũng phải yêu thương đùm bọc nhau, mới là phải đạo: 

Muối mặn ba năm hãy còn muối mặn
Gừng cay chín tháng, gừng hãy còn cay 
Đạo vợ chồng chớ đổi đừng thay 
Dẫu làm nên danh vọng 
Dẫu ăn mày cũng theo nhau. 

Đời không ai tán thành thứ gái mắt la mày lét, đã có chồng mà còn đi tắt về ngang: 

Không chồng đi dọc đi ngang 
Có chồng cứ thẳng một đàng mà đi. 

Cái thứ gái hư, chồng bỏ, lại càng không ưa: 

Mèo lành ai nỡ cắt tai 
Gái hư chồng bỏ khoe tài làm chi. 

Có nhiều người đàn ông, ra đường thì huênh hoang, mà về tới nhà thì hoạnh họe vợ con, thậm chí tới còn tranh ăn với vợ con: 

Ra đồng võng giá nghênh ngang 
Về nhà hỏi vợ: cám rang đâu mày? 
- Cám rang tôi để cối xay 
- Hễ chó ăn hết thì mày chết với ông. 

Có nhiều người đàn bà, mồm loa mép giải, chồng mới lớn tiếng một chút, đã bù lu bù loa, hờ trời hờ đất, kêu cha kêu mẹ, không biết rằng nhu mì vui vẻ là yếu tố để giữ gìn hạnh phúc gia đình: 

Chồng giận thì vợ bớt lời 
Cơm sôi, bớt lửa, biết đời nào khê. 

Hay: 

Chồng giận thì vợ làm lành 
Miệng cười tủm tỉm rằng anh giận gì 
Thưa rằng anh giận em chi 
Muốn lấy vợ bé, em thì lấy cho. 

Vợ chồng ăn ở với nhau, đừng bao giờ để cho đến nỗi phải nhìn nhau theo cái cảnh chó chê, mèo ứ hự:

Chồng gì anh, vợ gì tôi
Chẳng qua là cái nợ đời chi đây?

Đến nỗi vì vậy mà phải xa nhau, lại trách cứ trời xanh:

Đạo vợ chồng đoạn đoạn phân ly 
Chàng mà xa thiếp phen ni bởi trời

Rồi đêm đêm nghĩ lại, câu “đạo vợ nghĩa chồng” mới thấm thía từng hồi:

Lầu nào cao cho bằng lầu ông Chánh 
Bánh nào ông cho bằng bánh bò bông 
Đạo nào sâu cho bằng đạo vợ chồng 
Đêm nằm nghĩ lại nước mắt hồng tuôn rơi.

Nói tóm lại, “đạo vợ, nghĩa chồng” theo ông bà mình ngày xưa, là như thế đó, và nhờ vậy, ít khi có cảnh vợ chồng tan nát, gãy đổ giữa đường. Bởi vì:

Cải bẹ xanh nấu với thịt sườn 
Làm sao cho ớt ngọt như đường 
Khổ qua kia hết đắng 
Thì cái sự cang thường mới hết thương.

 

 

 

Từ Trà Kiệu Đến Mỹ Sơn

 



DS Lê Văn Nhân


Lời giới thiệu:

Tổ Chức Văn Hóa Thế Giới năm 1999 đã công nhận thị xã Hội An và thánh địa Mỹ Sơn ở Quảng Nam là di sản văn hóa thế giới. Các chương trình du lịch trong hay ngoài nước đều có ghé thăm Hội An khi đến Đà Nẵng, nhưng muốn đi Mỹ Sơn thì phải dùng một ngày đi ngoài chương trình. Hiện nay từ Hội An và Đà Nẵng hàng ngày đều có xe buýt lớn đưa du khách vào Mỹ Sơn. Chỉ cần nhờ văn phòng khách sạn giữ chỗ và xe sẽ đến đón.

Từ Đà Nẵng, theo Quốc Lộ I, đi theo hướng nam qua khỏi thị xã Vĩnh Điện, đến cầu Câu Lâu và khi đến trạm Nam Phước xe rẽ phải chạy theo tỉnh lộ vào huyện Duy Xuyên. Đoạn đường này đang sửa chữa, xây cống thoát nước hai bên đường. Đi thêm 9km sẽ đến nhà thờ Trà Kiệu ở đồi Bửu Châu và nhà thờ Thiên Chúa Giáo xây ngay bên ngôi thành này. Tiếp tục chạy theo tỉnh lộ, đoạn đường từ đây trải nhựa và ít bị mưa lụt tàn phá nên đường khá tốt. Đến An Hòa, trước đây là dự án khu kỹ nghệ thời chính phủ Ngô Đình Diệm, kế hoạch dùng than Nông Sơn làm nhà máy phát nhiệt điện để phát triển, bây giờ chỉ thấy một xưởng gạch. Từ đây có một đường rẽ trái và sau khi qua một ngọn đèo nhỏ, xe sẽ dừng ở bãi đậu xe. Du khách sẽ đi bộ khoảng 100m để mua vé, và có 2 chiếc xe jeep đưa du khách lên xuống đồi. Ngồi xe jeep rất xóc và bụi khiến ta có cảm tưởng đang đi trên đường Trường Sơn.

Để giúp quý vị không thất vọng khi chỉ thấy một số kiến trúc đổ nát, chúng tôi trình bày một số thông tin cần thiết về lịch sử và văn hóa của người Chàm.

Một chút lịch sử:

Sự hiện diện của người Chàm được ghi chép lần đầu tiên trong sử Trung Quốc năm 192 sau Công Nguyên, trong khi Việt Nam đang chìm đắm trong sự đô hộ triền miên của người Hoa, thì dân của quận Tượng Lâm (rừng và voi) nổi dậy chống người Hoa, mở đầu cho một quốc gia độc lập ở phương nam kéo dài hơn 1000 năm. Biên niên sử Trung Quốc gọi quốc gia này từ năm 192 đến 758 là Lâm Ấp (Lin Yi), sau năm 758 đổi là Hoan Vương và từ năm 875 đổi thành Chang Chen phiêm âm từ tên "Champapura" có nghĩa là thành phố Chàm. Người Việt Nam lại phiên âm Chang Chen thành Chiêm Thành.

Vương quốc Champa kéo dài từ đèo Ngang ở tỉnh Quảng Bình đến Thuận Hải ngày nay với 4 khu vực: phía bắc gồm Amaravati từ Quảng Bình đến Quảng Ngãi và Vijaya từ Bình Định đến Phú Yên, phía nam có Kauthara (Khánh Hòa) và Panduranya (Thuận Hải).

Có lẽ vương quốc Champa giàu có và hùng mạnh khi Việt Nam còn dưới thời Bắc thuộc, nên khi tướng quân Lê Hoàn nhà Tiền Lê cho sứ vào giao hảo, vua Chàm đã nhốt sứ giả khiến nhà vua phải ngự giá thân chinh. Quân Chàm dùng hải thuyền đánh phá miền nam quân Giao Châu, cho đến năm 446 Thứ Sử Giao Châu là Đàn Hòa Chi cùng một số tướng lãnh phá tan tiền đồn quân Chàm ở vùng đất Thuận Hóa rồi tiến đánh kinh đô Trà Kiệu, đốt sạch kinh đô này và đem về Trung Hoa rất nhiều tượng vàng khoảng 100 ngàn lượng. Cuối thế kỷ thứ IV, vua Chàm Badravarman xây dựng lại kinh đô Trà Kiệu và những vị vua tiếp theo nối tiếp xây dựng thánh địa Mỹ Sơn theo Ấn Độ Giáo (Hinduism) và năm 875 xây đền thờ Phật tại Đông Dương ở phủ Thanh Bình Quảng Nam ngày nay. Đền Đông Dương có kiến trúc khác với các tháp Chàm, và là sự kết hợp giữa Ấn Độ Giáo và Phật Giáo Mật Tông. Bàn thờ Phật cũng đặt ở hướng tây, nhưng tượng Phật ngồi trên ngai chân giẫm trên đất chứ không ngồi trên tòa sen như ta thường thấy.

Sách Thủy Kinh Chú ghi chép khoản thế kỷ thứ VII mô tả kinh đô Trà Kiệu như sau:

Kinh đô Trà Kiệu lúc đó gọi là thành phố sư tử (Simhapura), giống tên thành phố Singapore cũng có nghĩa là thành phố sư tử. Thành này nằm ở bờ tây con sông, cách bờ biển khoảng 40 lý, đông nam có núi che chở cho ngôi thành. Phía đông nam bên ngoài các hào này, sông chảy dọc theo bờ thành. Hướng đông tây dài trong khi hướng tây bắc hẹp. Sông bắt đầu từ hướng tây chảy vào thành ở hướng bắc. Chu vi thành đo được 8 lý 120 bộ. Thành cao 2 trượng. Gần thành là một bức tường gạch cao 1 trượng với một cái cổng hình vuông, bên trên là một cái sàn gỗ nâng hai cái tháp. Một cái cao 5 trượng và cái kia khoảng 7 trượng. Cách kiến trúc chắc chắn nhưng không đẹp. Bên trong thành là một cái thành khác chu vi 230 bộ. Lâu đài và phòng tiếp tân không mở theo hướng bắc nam. Mái nhà hai đầu hướng theo bắc nam. Dãy nhà đối diện ở hướng nam gọi là chánh tây...

Trường Viễn Đông Bác Cổ 1927-1928 đã khai quật vùng Trà Kiệu và tìm được chân thành Trà Kiệu giống như sách Thủy Kinh Chú mô tả. Chu vi ngôi thành rộng khoảng 4000m và bức thành xây bằng gạch được dân chúng gọi là thành vua.

Trong thập niên 1980, người ta tìm được nhiều vật dụng nhỏ bằng vàng như nữ trang hình mặt trăng, mặt trời, ngôi sao, những bức tượng rỗng hình các vị thần và thú vật và những quyển sách kinh bằng vàng dày 1cm ghi chữ Phạn và những đồng tiền vàng hình tròn dày 1cm ghi chữ Ả Rập. Trọng lượng các vật dụng tìm được nặng nhiều kilogam.

Một nghi vấn ở đây là khoảng đầu Tây Lịch, hầu hết các dân tộc đều ở thời kỳ bán khai, làm sao kinh đô Trà Kiệu có nhiều vàng như vậy? Có thể nêu ra giả thuyết quanh vùng đó có một suối vàng hay một mỏ vàng dễ khai thác bằng phương tiện thô sơ chăng? Nếu có được bản đồ chụp từ vệ tinh có thể chúng ta còn phát hiện được nhiều điều hay về vùng này.

Chúng tôi cũng đoán lúc đó đất bồi chưa đủ vùng hạ lưu nên Hội An chưa hình thành, phải đợi đến kinh đô Trà Kiệu không còn nữa, Hội An mới bắt đầu phát triển. Nhưng chắc chắn phải nhờ truyền thông giao lưu ngày xưa ở Trà Kiệu, các thương nhân mới theo bước cũ đến mua bán làm ăn ở Hội An.

Di tích Trà Kiệu ở Cổ Viện Chàm Đà Nẵng:

Trong Cổ Viện Chàm, chúng ta sẽ thấy một số thần ở Ấn giáo:

- Vishnu thần tượng trưng cho sự sống và bảo quản
- Garuda chim thần
- Rama thần sáng tạo và sinh sản
- Sarasvati vợ thần Rama, nữ thần tiếng nói linh thiêng, vật tượng trưng cho con thiên nga
- Shiva thần chết, vật tượng trưng là linga hình ống tròn
- Skandra thần chiến tranh, con trai của thần Shiva và Una dưới dạng chim công
- Ganesha thần hòa bình, cũng là con trai thần Shiva và Uma. Vì không vâng lời nên bị thần Shiva chặt đầu. Khi Uma cầu xin các vị thần khác tha thứ, họ cho phép ghép đầu con vật đầu tiên gặp được, và đó là cái đầu voi.

Ngoài ra hoa văn hình vú phụ nữ khắc trên bệ đá gọi là Uroga tượng trưng cho sự sung mãn.

Bàn thờ đặt chính giữa Trà Kiệu kể lại chuyện thần thoại Ấn Giáo nhìn từ trái sang phải theo chiều kim đồng hồ: thần Rama thành công bẻ gãy chiếc cung thần, được phép lấy con gái vua Janak là công chúa Sita; vì vua thay cha, vua Videha và vua Dasaratha nói chuyện với nhau; sau đó là đám cưới.

Khái niệm về kiến trúc tổng quát các tháp Chàm:

Người Chàm gọi tháp thờ chính là "kalan", chung quanh có thể có nhiều tháp phụ và một số kiến trúc khác. Kalan tượng trưng cho tiểu vũ trụ trong hoàn vũ. Ngôi tháp được xem là bàn thờ và mái tháp tượng trưng cho đỉnh núi Meru, chỗ ở của các vị thần. Mặt chính của ngôi tháp xoay về hướng đông, hướng mặt trời mọc, bắt đầu cho sự di chuyển của vũ trụ. Đặc biệt tại Mỹ Sơn, Kalan A-1 là một ngoại lệ, mắt hướng về cả hai phía đông và tây. Trong bệ thờ có một cái bục với một vòi nước quay về hướng bắc. Bục này để chứa nước rửa tượng. Đôi khi còn có một bể nước hình vuông dưới bàn thờ với chỗ nước rỉ tuôn vào hồ này. Quanh bệ thờ là một hành lang để tín đồ đi vòng khi tới chiêm bái. 

Cổng đi vào tiền sảnh có hai cây cột đá hình tròn, vuông hay bát giác khắc chữ trên đó. 

Kiến trúc mỗi kalan gồm thân tháp hình vuông và nóc hình tháp gồm 3 tầng và chóp bằng sa thạch.

Kalan gồm 3 phần:

- Phần nền tượng trưng cho thế giới con người (Bhurloka)
- Phần thân tháp tượng trưng cho thế giới linh hồn (Bhurvaloka)
- Phần mái tháp tượng trưng cho thế giới ling thiêng (Svarloka)

Kiến trúc của tháp Chàm gồm:

- Kalan nằm chính giữa
- Đối diện với kalan là tháp cổng Gopura với hai cửa chính mở theo hướng đông tây. Trước tháp cổng là mandapa - một căn nhà dài lợp mái ngói với nhiều cửa sổ và 2 cửa chính mở ra hướng đông và tây. Đây là tiền sảnh mà tín đồ cần phải tự thanh khiết và cầu nguyện trước khi bước vào kalan để làm lễ. Trong nhiều trường hợp, mandapa nằm giữa kalan và cổng tháp.

Phía trước và bên phải kalan là một nhà chứa phẩm vật dâng cúng làm bằng gạch với mái cong như chiếc thuyền, với hai cửa chính tượng trưng cho nữ thần thịnh vượng và may mắn, và hai cửa sổ hướng đông và tây.

Quanh Kalan và các kiến trúc phụ là một bức tường gạch hình vuông bao bọc chứa luôn cổng tháp. Bên ngoài tường có thể có một số văn bia.

Di tích Mỹ Sơn gồm hơn 80 tháp đã bị hư hại nhiều trong chiến tranh trước 1975, nhưng còn những nét rất đẹp so với các ngôi tháp khác. Nên lấy bản đồ ở phòng bán vé để hiểu được các vị trí trong khu vực này. Mặc dầu nhân viên hướng dẫn du lịch có thể nói chuyện bằng tiếng Anh hay tiếng Pháp khá rõ ràng, kiến thức họ không nhiều. Do đó nên tìm đọc một số thông tin trước thì khi đi thăm sẽ thấy thích thú hơn.

Trên đường về, nếu trời tốt, nên đổi phương tiện đi ghe để nhìn sông nước phong cảnh hai bên bờ sông cho đến Hội An.

Liệu nền văn minh của người Chàm trước đây có liên quan gì đến văn minh ở gò Óc Eo miền nam không? Nếu đo được niên đại những vật dụng tìm được ở gò Óc Eo và ở Trà Kiệu, nếu cùng thời kỳ, thì chúng ta có thể phỏng đoán cách đây gần 2000 năm đã có giao thương nhộn nhịp giữa Chàm và các nước ven biển Nam Hải, Ấn Độ Dương. Biết đâu trong thư viện các nước này có ghi những di tích lịch sử khác của nền văn hóa bị mai một này.

 

Post ngày: 10/19/17 

 

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui lòng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những gì liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 10/19/17