| |
|
Dị bản Thúng Xôi Rền
Hà Phương Hoài
Lịch sử nam tiến của dân tộc ta cho ta thấy tại vùng
định cư mới, dân nhập cư dù cố vẫn giữ gia sản văn hóa
nguyên gốc nhưng lần lần cũng đă hài ḥa với phong tục
tập quán, ngôn ngữ, giọng nói của bản địa mà tạo thành
một nếp sống mới. Ca Dao cũng theo họ và rồi từ từ đổi
thay
theo sự suy tư hợp với phong tục và ngôn ngữ mới.
Bài Ca Dao Một Thúng Xôi Rền
Mẹ em tham thúng xôi rền (dền)
Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh Hưng.
Em đă bảo mẹ rằng đừng
Mẹ hấm (lườm) mẹ hứ (nguưt) mẹ bưng ngay (xôi) vào
Bây giờ chồng thấp vợ cao
Như đôi đũa lệch so sao cho bằng (vừa).
(e-cadao.com Câu số 3975 )
Đă biến dạng như Dị bản Khánh Ḥa (Quả Xôi Rền):
Hai tay bưng quả xôi rền
Cha ham con heo trắng, mẹ ham tiền cảnh Hưng
Buổi xưa kia thưa thiệt xin đừng
Cha mẹ ép uổng biểu ưng kẻo già (cho rồi)
Bây giờ nghiệp báo oan gia
Nó đánh trong nhà, nó đánh ra sân
Mồ cha tám kiếp nợ trần
Đi bán trầu héo mà bưng (mua) con về
(e-cadao.com Câu số 39047 )
Xôi
Theo Từ điển bách khoa toàn thư th́ XÔI là món ăn
bằng gạo nếp ngâm nước, đồ chín bằng hơi nước, làm cho
hạt gạo dẻo dính. Là lương thực chính của hầu khắp các
cư dân nông nghiệp trồng lúa thời sơ khai ở Đông Nam Á.
Về sau, cơm tẻ mới trở thành lương thực chính ở nhiều
dân tộc v́ lúa tẻ dễ trồng hơn và cho năng suất cao.
Hiện nay, ở một số cư dân vùng núi (như Tây Bắc, dọc
Trường Sơn - Tây Nguyên…) vẫn tồn tại tập quán dùng Xôi
trong bữa ăn hàng ngày. Xôi thường được đồ lẫn với lạc,
đỗ đen, đỗ xanh (để làm Xôi xéo, Xôi hoa cau, Xôi ṿ),
gấc, dừa, ngô, sắn...; ở miền núi c̣n có Xôi nếp cẩm (loại
có màu tím) thường ăn với mật ong. Ở Nam Bộ có Xôi nướng
(Xôi trắng, gói lá chuối tươi nướng trên than hồng). Ở
nhiều dân tộc, Xôi là thức ăn ngon dùng để đăi khách.
Xôi c̣n là lễ vật quan trọng dùng để dâng cúng tổ tiên
và thần linh.
Rền
• Dẻo đều: Xôi rền; Bánh chưng rền.
• Liên tiếp từng hồi: Sấm rền; Đi chơi rền. Chẵn rền, lẻ
rền. Chẵn liền hoặc lẻ liền mấy ván xóc đĩa.
Bài ca dao “Quả Xôi Rền” đă thay đổi hầu như toàn diện
dù rằng vẫn giữ được kết cấu và ư nghĩa nguyên thủy của
bài “Thúng Xôi Rền” – “Cha mẹ muốn cho con ḿnh được
hạnh phúc trong đời sống hôn nhân dựa trên căn bản vật
chất, tiền tài”
“Mẹ em tham thúng xôi rền (dền)” (Nguyên bản)
“Hai tay bưng quả xôi rền” (Dị bản Khánh Ḥa)
Bài nguyên gốc người con gái kết án ngay rằng người mẹ
tham “thúng xôi rền” và:
“Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh Hưng.” (Nguyên
bản)
Nhưng dị bản th́ nhẹ nhàng hơn, v́ khi thấy sự kiện xảy
ra:
“Hai tay bưng quả xôi rền”. (Dị bản Khánh Ḥa)
Dù nhẹ nhàng nhưng khi đi vào điểm chính th́ sự trách
móc cha mẹ làm lỡ duyên ḿnh cũng gay gắt như nhau, có
thể c̣n nặng nề hơn và đă kéo người cha vào trận:
“Cha ham con heo trắng, mẹ ham tiền cảnh Hưng” (Dị bản
Khánh Ḥa)
Ở bản gốc: Người con gái than dù đă cương quyết bảo
"mẹ
đừng nhận quà lễ của người ta":
“Em đă bảo mẹ rằng đừng” (Nguyên bản)
Người mẹ thấy con gái ḿnh ương ngạnh, bà đă nổi giận,
bất chấp ư kiến của con:
“Mẹ hấm (lườm) mẹ hứ (nguưt) mẹ bưng ngay (xôi) vào”
(Nguyên bản)
Trong khi dị bản Khánh Ḥa th́ nàng năn nỉ cha mẹ xin
đừng nhận mâm lễ:
“Buổi xưa kia thưa thiệt xin đừng” (Dị bản Khánh Ḥa)
và cha mẹ không mắng mỏ mà chỉ khuyên ngọt:
“Cha mẹ ép uổng biểu ưng kẻo già (cho rồi)”
Ở bản gốc cho ta thấy rằng sau khi về nhà chồng người
con gái mới chưng hửng là đức ông chồng của ḿnh thuộc
loại người thiếu thước không cân xứng với tầm vóc của
nàng.
“Bây giờ chồng thấp vợ cao
Như đôi đũa lệch so sao cho bằng (vừa)” (Nguyên bản)
Ở dị bản Khánh Ḥa hoàn cảnh của người vợ do sự sắp đặt
của cha mẹ đă trở thành quá tồi tệ, nàng phải chịu bao
đ̣n hằn v́ anh chồng thô lỗ cọc cằn.
“Bây giờ nghiệp báo oan gia
Nó đánh trong nhà, nó đánh ra sân” (Dị bản Khánh Ḥa)
Nàng rơi vào hoàn cảnh đau thương nhưng không biết làm
sao để thoát khỏi cho nên đă thốt lên những lời cay đắng:
“Mồ cha tám kiếp nợ trần
Đi bán trầu héo mà bưng (mua) con về” (Dị bản Khánh Ḥa)
Trong thời phong kiến việc quyết định việc chung thân
cho trai hay gái đều do bậc phụ huynh quyết định và
tuyển chọn. Phận con cái chỉ biết cúi đầu vâng theo.
Ngoài hai bài “Thúng Xôi Rền” và “Quả Xôi Rền” trên, kho
tàng ca dao có rất nhiều bài tả duyên phận éo le trắc
trở của người đàn bà:
Con chim bị ná,
Con cá bị câu,
Anh với em ư hợp tâm đầu,
Hai bên cha mẹ là sầu đôi ta
Đôi ta như lúa đ̣ng đ̣ng
Đẹp duyên nhưng chẳng đẹp ḷng mẹ cha
Đôi ta như chỉ xe ba
Cha mẹ xe ít, đôi ta xe nhiều
Dĩa nghiêng mài mực
Bút chực đề thơ,
Phụ mẫu ơi nghĩ lại cho con nhờ,
Khoan khoan hạ bút, kẻo hư tờ giấy thơm.
Trách ḷng cha mẹ vụng toan,
Bông búp chẳng bán để tàn ai mua
Sở dĩ đôi trai gái yêu nhau, thề nguyền sống với nhau
cho đến đầu bạc răng long mà phải chịu cảnh chia ĺa
cũng chỉ v́ Đạo Hiếu: Con cái không thể tự quyết
định cho duyên phận của ḿnh:
Phụ mẫu sơ sinh để cho phụ mẫu định
Em nỡ nào trái lịnh mẹ cha
Phụ mẫu tôi già đầu bạc như hạt đậu nhành dưa
Ơn tôi chưa đền, nghĩa tôi chưa trả
Anh bảo tôi giục ngựa, buông cương sao đành
Anh thương em c̣n sợ nỗi mẹ cha
Thuở nay áo mặc khó qua khỏi đầu
Đạo mẹ cha mất đà khó kiếm
Nghĩa can thường chẳng hiếm chi nơi!
Dù t́nh đă nặng nhưng câu hỏi “liệu mẹ cha có bằng ḷng
hay không?” vẫn đè nặng trong tâm tư của đôi lứa:
Tàu Nam Vang chạy ngang sông Hậu
Tàu Vĩnh Thuận hay đậu Tam B́nh
Đôi ta nặng nghĩa nặng t́nh
Biết cha với mẹ hay chuyện chúng ḿnh ra sao?
Để mong rằng cha mẹ thương tưởng mà tác thành cho!!!
Ḍm lên trời đang mưa, đang chuyển
Ḍm xuống biển bên đây lở, bên kia bồi.
Đôi ta thương lỡ nhau rồi
Chàng than, thiếp thở, phụ mẫu ngồi sao yên
Chữ môn đăng hộ đối là điều quan tâm lớn lao giữa
bậc cha mẹ cho nên ngoài việc xét đến chọn một cô dâu
hay chàng rể xứng hợp, đủ điều kiện vật chất bảo đảm
được hạnh phúc và sự thịnh vượng cho gia đ́nh mới của
con ḿnh hay không, sui gia cũng không kém phần quan
trọng. Nhiều trường hợp, mọi sự đều tốt đẹp duy chỉ ông
sui hoặc bà sui có chút bất ḥa nào đó th́ chuyện hợp
duyên của đôi trẻ cũng bất thành, trong văn chương Tây
Âu cũng có truyện Roméo and Juliette:
Cây đa trốc gốc, thợ mộc đương cưa
Anh với em bề ngang cũng xứng, bề đứng cũng vừa
Bởi tại cha với mẹ kén lừa sui gia.
Hai đứa ḿnh ḥa, phụ mẫu không ḥa,
Tỉ như nước lạnh, pha trà sao ra?
Và:
Nhà giàu ngồi mát bát vàng
Nàng tham chốn ấy anh sang làm ǵ.
Xưa kia nói nói thề thề
Cá trê chui ống lọt về giếng khơi
Mới hay lấy vợ trên đời
Chẳng tại trời, tại không tiền nằm không.
Dù em nên vợ nên chồng
Con bế con bồng nghĩ lại duyên xưa
Trời có mây mà chẳng có mưa
Sao em lại nỡ đong đưa với t́nh?
Mới hay duyên nợ ba sinh
Nhà giàu cướp cả cái t́nh đôi ta
Anh chẳng trách mẹ trách cha
Trách đời chênh lệch hóa ra thế này!
Trai gái khi đến tuổi yêu nhau dù thành hay không, ngoài
trông nhờ vào người mai mối, trên phương diện tâm linh,
ca dao thường nhấn mạnh đến một yếu tố đậm nét đó là
Ông Tơ, Bà Nguyệt.
Theo điển tích: Ông Tơ, c̣n gọi là Nguyệt Lăo/Bà
Nguyệt: Ông lăo tóc và râu bạc phơ ngồi dưới bóng
trăng, tức vị thần xe duyên cho những cặp trai gái nào
có căn tiền định, người ta gọi là Ông Tơ hay Bà Nguyệt.
Do sự tích ông Vi Cố trong lúc đi ngoạn cảnh vào một đêm
trăng, thấy có ông lăo tóc bạc phơ ngồi dưới bóng trăng,
trước một ṭa cổ miếu bên đường, tay ông lăo cầm một
quyển sổ và mớ chỉ hồng. Thấy lạ, Vi Cố hỏi th́ ông lăo
nói :" Ta đây là Nguyệt Lăo, cuốn hôn thư này dùng để
ghi tên những đôi trai gái phải lấy nhau và những sợi
chỉ hồng này dùng để cột họ lại thành đôi vợ chồng". Nói
xong, Nguyệt Lăo cho Vi Cố xem, bên trong cuốn sổ có ghi
chép rất nhiều tên tuổi của những đôi trai gái, mà họ sẽ
được nên duyên chồng vợ với nhau.
Sẵn dịp, Vi Cố nhờ Nguyệt Lăo xem giùm căn duyên của
ḿnh, th́ Nguyệt Lăo cho Vi Cố biết rằng, người vợ tương
lai của Vi Cố sẽ là đứa con gái của mụ ăn mày trước chợ.
Tin vào lời của vị tiên tri, nên Vi Cố sợ bị nhục, bèn
lấy dao ra chợ chém vào đầu đứa con gái của mụ ăn mày,
làm máu chảy đầm đ́a, rồi sau đó Vi Cố trốn đi mất.
Sau này Vi Cố lấy đứa con gái của một vị quan làm vợ.
Khi t́nh cờ thấy trên đầu của người vợ ḿnh có vết thẹo
lớn, hỏi ra mới biết nàng đúng là đứa con gái của mụ ăn
mày trước chợ đă bị chính Vi Cố chém vào đầu, v́ bị bỏ
rơi, nên đă được một vị quan mang về nuôi nấng cho đến
ngày khôn lớn.
Người xưa tin rằng: chuyện duyên nợ là do Trời định, nên
khi những cặp uyên ương đă trót thề nguyền yêu thương
nhau, nhưng lại không được thành vợ thành chồng, là bởi
Nguyệt Lăo không chịu xe duyên cho:
Căn duyên ai đă phá rồi
Ông Tơ ông buộc ông Trời biểu không
Phải gặp ông Tơ hỏi sơ cho biết
Gặp bà Nguyệt gạn thiệt cho rành
V́ đâu hoa nọ ĺa cành
Nợ duyên sớm hết cho đành dạ con
* Có bản khác: Căn duyên ai phá cho rồi
Bắc thang lên đến tận (lên hỏi) Trời
Bắt ông Nguyệt Lăo đánh mười cẳng tay
Đánh rồi lại trói vào cây
Hỏi ông Nguyệt lăo: đâu dây tơ hồng ?
Nào dây xe bắc xe đông
Nào dây xe vợ, xe chồng người ta
Ông vụng xe tôi lấy phải vợ già
Tôi th́ đốt cửa, đốt nhà ông đi
Bắt ông tơ đánh sơ vài chục,
Bắt bà nguyệt nếm mấy mươi hèo,
Người ta năm bảy vợ theo
C̣n tôi đơn chiếc như mèo cụt đuôi!
Ngoài các sự kiện nêu trên, để bảo đảm cho hạnh phúc
tương lai của con ḿnh các cụ thường xem trọng “Bói
toán”, và v́ bói toán cũng làm lỡ duyên bao cặp t́nh yêu
nhau thắm thiết:
Cọp mà vật mấy ông thầy địa
Voi mà giày mấy lăo coi ngày
Trớ trêu họ khéo đặt bày,
Đôi ta thương nhau thiệt, lẽ nào trời không định đôi.
Nhiều cặp bất chấp những dị biệt, khó khăn trắc trở
quyết cùng nhau đi hết đoạn đường đời với nhau.
Cá lưỡi trâu dầm trong nước mắm
Qua với nàng duyên thắm mấy trăng
Cha mẹ tuy chẳng bằng ḷng
Nợ duyên đă gắn, chữ đồng quanh năm
Bằng không th́:
Xin người hiếu tử gắng khuyên
Kịp thời nuôi nấng cho tuyền đạo con
Kẻo khi sông cạn đá ṃn
Thơ ngâm nga đọc có c̣n thấy chi
Hoặc:
Bước xuống ruộng sâu, sầu đầy tấc dạ
Tay ôm bó mạ, nước mắt hai hàng
Ai làm trễ chuyến đ̣ ngang
Cho sông cạn nước, đôi đàng biệt ly
Hà Phương Hoài (10-2009) |
|