Một cách nhận diện ca dao hiện
đại
Nguyễn Hằng Phương
TS.Khoa Ngữ văn.Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên - Đại học Thái Nguyên
Văn học dân gian hiện đại đă từng là vấn đề gây nhiều ư kiến tranh luận
trong giới nghiên cứu nước ta. Đă có không ít ư kiến khẳng định sự tồn
tại tự nhiên và vai tṛ quan trọng của nó trong đời sống của xă hội hiện
đại. Song, bên cạnh đó cũng có một số ư kiến phân vân, thậm chí phủ nhận
cả sự tồn tại của văn học dân gian hiện đại. Nhiều năm đă trôi qua kể từ
khi vấn đề văn học dân gian hiện đại, trong đó có ca dao hiện đại được
chính thức nêu ra tranh luận với tư cách là một thông tin khoa học mang
tính thời sự, ca dao hiện đại vẫn tồn tại và vận động theo quy luật của
nó. Chứng cớ là vẫn có một số cuốn sách sưu tầm, nghiên cứu và những bài
viết quan tâm đến thể thơ dân gian này ra đời. Như vậy, những ư kiến
khẳng định sự tồn tại của văn học dân gian hiện đại trong đó có ca dao
hiện đại đă được thử thách qua thời gian.
Ca dao là một thể loại có sức sống lâu bền của sáng tác dân gian. Nhưng
trên thực tế, ca dao đă có sự vận động, biến đổi. Để có thể tiếp cận ca
dao với tư cách là một thể loại văn học dân gian trong thời kỳ hiện đại,
việc trước tiên là t́m ra những cơ sở khoa học để tiến tới nhận diện nó.
Đó cũng chính là mục đích chúng tôi đặt ra trong bài viết này.
Tuy nhiên, nghiên cứu một hiện tượng văn học nói chung, ca dao hiện đại
nói riêng là vấn đề không đơn giản, cần dựa trên quan điểm khoa học duy
vật biện chứng và phải có trong tay một số lượng tư liệu nhất định về nó.
Do vậy, trước khi t́m cơ sở để định ra tiêu chí nhận diện ca dao hiện
đại th́ việc xác định quan điểm nghiên cứu và tập hợp, sử lư hệ thống tư
liệu là những thao tác khoa học cần thiết phải đặt ra.
1. Cần đứng trên quan điểm "động" khi xem
xét một hiện tượng văn học nói chung, ca dao hiện đại nói riêng và cần
“làm chủ” hệ thống tư liệu nghiên cứu
Đời sống xă hội không ngừng vận động, biến đổi trong tiến tŕnh lịch sử.
Là một h́nh thái ư thức xă hội, có quan hệ mật thiết với đời sống xă hội,
văn học cũng không ngừng vận động, biến đổi. Sự biến đổi không chỉ phụ
thuộc vào sự vận động của môi trường xă hội mà c̣n phụ thuộc vào quy
luật vận động, biến đổi của bản thân văn học nghệ thuật, cụ thể hơn là
của bản thân thể loại văn học đó. Sự vận động, biến đổi của mỗi thể loại
lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố cơ bản như bản chất, đặc trưng và nhất là
chức năng của chính thể loại đó. Chẳng hạn, lịch sử phát triển văn học
nghệ thuật đă chứng kiến sự "một đi không trở lại" của thể loại thần
thoại. Nó cũng chứng kiến sự vận động biến đổi của thể loại truyền
thuyết, ca dao. Có thể nói, giữa văn học nghệ thuật với đời sống xă hội
có mối quan hệ gắn bó, khăng khít. “Nghệ thuật chỉ thực sự phát triển,
đóng góp hữu hiệu cho sự phát triển chung của xă hội, khi nó xác lập
được mối liên hệ vừa sâu sa, vừa trực tiếp với đời sống chính trị, văn
hoá, đạo đức của xă hội , tức là vận động đồng bộ với những h́nh thái ư
thức khác của kiến trúc thượng tầng.”(1) Trong quá tŕnh cùng tồn tại và
vận động ấy, các h́nh thái ư thức xă hội nói trên (kể cả văn học nghệ
thuật) ảnh hưởng qua lại một cách tự nhiên, biện chứng và cùng tác động,
rồi cùng chịu sự tác động của môi trường xă hội, lịch sử.
Bởi vậy, một hiện tượng văn học nghệ thuật nói chung, văn học dân gian
và ca dao hiện đại nói riêng phải được nh́n nhận bằng quan điểm "động".
Có nghĩa là, chúng ta không xem xét một hiện tượng văn học nghệ thuật,
xem xét một thể loại văn học trong tiến tŕnh lịch sử ở tư thế đứng yên,
không vận động, biến đổi, bởi đó là quan điểm siêu h́nh, không biện
chứng. Khoa học đă chứng minh, vạn vật vận động không ngừng, biến đổi
không ngừng. Văn học - một h́nh thái ư thức xă hội đặc thù cũng vận động,
biến đổi không ngừng trước những tác động vô ư thức và có ư thức của con
người. Là một thể loại văn học dân gian tiêu biểu, ca dao cũng không nằm
ngoài quy luật vận động, biến đổi đó.
Thực tế, những lời ca dao hiện đại đă sưu tập có một số đặc điểm khác
với ca dao cổ truyền. Sự khác nhau đó thể hiện ở chỗ nó phản ánh những
mảng hiện thực mới, những nhân vật trữ t́nh mới, ngôn ngữ, thể thơ cũng
có những đặc điểm mới và đặc biệt, nhiều lời ca dao hiện đại có ghi tên
tác giả. Giải thích hiện trạng này, chúng ta không thể không xem xét sự
vận động của hiện thực lịch sử, của quan niệm nghệ thuật dân gian. Như
quan điểm đă nêu ở trên, không thể giữ cái nh́n bất biến về thể loại ca
dao. Không thể lấy những đặc điểm về nội dung, nghệ thuật... của ca dao
cổ truyền làm tiêu chuẩn xem xét ca dao hiện đại. Ca dao hiện đại có
những điểm không tương đồng với ca dao cổ truyền là một hiện tượng b́nh
thường, hợp quy luật. Có điều là trong giai đoạn hiện nay, nhiều sáng
tác văn học quần chúng và chuyên nghiệp chịu ảnh hưởng rơ rệt nghệ thuật
ca dao truyền thống, cho nên phải xem xét ca dao hiện đại như thế nào để
vừa không bỏ qua những tác phẩm ca dao đích thực, vừa không lầm lẫn nó
với thơ ca quần chúng và những sáng tác của các tác giả chuyên nghiệp
mang phong cách dân gian.
Rơ ràng là, sự vận động, biến đổi của văn học nghệ thuật nói chung và ca
dao hiện đại nói riêng diễn ra đa dạng, phức tạp dưới sự chi phối mạnh
mẽ của đời sống xă hội và các h́nh thái ư thức xă hội khác. Do vậy, quan
điểm nh́n nhận khoa học và phù hợp ở đây là: coi văn học nghệ thuật nói
chung và ca dao nói riêng như một thực thể có vận động, có biến đổi
trong tiến tŕnh lịch sử. Quan điểm trên sẽ chi phối việc nghiên cứu để
định ra tiêu chí nhận diện ca dao hiện đại.
Song, ở bất cứ lĩnh vực khoa học nào, việc cần thiết trước khi tiến hành
nghiên cứu là xem xét hệ thống tư liệu. Hệ thống tư liệu được xác định
rơ và càng phong phú bao nhiêu th́ độ tin cậy khoa học càng chắc chắn
bấy nhiêu. Điều khó khăn đối với tác giả bài viết này là sự chưa phong
phú về tư liệu và t́nh trạng chưa thật thống nhất của giới nghiên cứu về
hệ thống tư liệu ca dao hiện đại.
Hệ thống tư liệu về ca dao hiện đại chưa phong phú. Đó là một thực tế.
Nếu thống kê trên các đầu sách chúng tôi hiện có th́ số lời ca dao hiện
đại là 1.170 lời. So với 11.825 lời ca dao cổ truyền đă được sưu tập
trong Kho tàng ca dao người Việt, đó quả là con số ít ỏi, chưa kể khi đă
đưa ra được tiêu chí nhận diện ca dao hiện đại, có thể có một số lời
được gọi là ca dao trong các sách sưu tầm không đủ tiêu chuẩn cơ bản để
xếp vào hệ thống những lời ca dao hiện đại với tư cách là một thể loại
của sáng tác dân gian. Song, thực ra, khoảng thời gian sáng tác và lưu
truyền ca dao hiện đại mới hơn nửa thế kỷ. Khoảng thời gian đó nếu so
với thời gian sáng tác, lưu truyền ca dao truyền thống th́ c̣n quá ngắn
ngủi. Hơn nữa, số lời ca dao hiện đại chưa được sưu tầm chắc chắn cũng
không phải là nhỏ.
T́nh trạng chưa thật thống nhất của giới nghiên cứu về hệ thống tư liệu
ca dao hiện đại cũng là một thực tế. Nhưng đó là sự hoài nghi khoa học
cần thiết. Như ở trên đă nêu, ca dao có sự vận động, biến đổi. Song vận
động biến đổi đến đâu và lấy ǵ làm thước đo sự vận động biến đổi đó th́
chưa được các nhà khoa học giải quyết triệt để.
Trong t́nh trạng tư liệu như vậy, chúng tôi chọn phương án tạm thời sử
dụng một số cuốn sách ca dao có ghi nguồn gốc, cách thức sưu tầm biên
soạn và coi đó là tiêu chí đầu tiên để lựa chọn tư liệu nghiên cứu.
Chúng tôi xin nêu vài ví dụ:
Cuốn Ca dao sưu tầm (Từ 1945 đến nay) tập hợp hơn 400 lời ca dao và sắp
xếp thành 12 mục: Ḷng dân đối với Bác và Đảng, Bộ đội chiến đấu, Chiến
tranh du kích, Dân công tiếp vận ... Số lời ca dao có ghi tên tác giả
22%). Theo Lời nhà xuất bản th́ đây là cuốn sách»là
90/410 lời (chiếm “Sưu tầm lại những lời ca dao từ hơn 15 năm nay” (Tính
đến thời điểm xuất bản 1962) và trong đó “Một số ca dao có mang tên tác
giả; một số khác khuyết danh. Số này hoặc của quần chúng nhân dân sáng
tác ra, hoặc do những ng̣i bút chuyên nghiệp nhưng lâu ngày, nhập vào
quần chúng đă trở thành cái gia tài chung của nhân dân rồi”.(2) Sự thật
th́ nhiều lời ca dao trong cuốn sách này mang “dáng dấp” của những lời
ca dao cổ truyền . Thí dụ: Đêm khuya ai gọi sang đ̣ của Hoàng Tuyên, Cơm
ăn một bát sao no của Kinh Đào, Hỡi cô má đỏ hây hây (không ghi tên tác
giả )...
Cuốn Ca dao chống Mỹ cứu nước tập ba cũng là một tư liệu khá dầy dặn gồm
100 lời ca dao sắp xếp theo 4 mục: Chiến đấu, Sinh hoạt, T́nh cá nước,
Nhân dân anh hùng. ở cuốn sách này, tất cả các lời ca dao đều ghi tên
tác giả và hầu hết đều có độ dài từ 6 ḍng lục bát trở lên. Trong lời
cuối sách Chọn lấy những hạt vàng hạt ngọc, nhà xuất bản ghi: “Nhiều
đồng chí yêu thích ca dao đă nhiệt liệt hưởng ứng phong trào, vừa sáng
tác vừa sưu tầm, đă góp phần xứng đáng vào các tập Ca dao chống Mỹ đă
xuất bản và sẽ tiếp tục xuất bản (...) Chúng tôi nghĩ rằng một người
sáng tác hàng trăm bài ca dao mà có vài ba bài có giá trị phổ biến, được
lưu truyền trong nhân dân đă là một thành công...”(3) Điều đó hé mở cho
chúng tôi suy nghĩ: nhiều lời ca dao có ghi tên tác giả nhưng có thể do
đồng đội sưu tầm trong quần chúng gửi đến nhà xuất bản và biết đâu đó đă
là dị bản. Trong tập ca dao này, có một số lời rất đáng để chúng ta lưu
ư, chẳng hạn: Con kiến mày leo cành đa của Nguyễn Thế Vinh, Mắt em sắc
như dao cau của Nguyễn Ngọc Lư, Cưới xưa thách lợn thách vàng của Việt
Cường, Hoa thơm thơm cả cánh đồng của Nguyễn Thị Ngân Hà...
Hai cuốn sưu tập ca dao xuất bản gần đây mà chúng tôi sử dụng làm tư
liệu nghiên cứu là Ca dao Việt Nam 1945-1975 (4) và Cụ Hồ ở giữa ḷng
dân. (5) Đây cũng là những cuốn tư liệu có cơ sở để tin cậy. Trong cuốn
Ca dao Việt Nam 1945-1975, tác giả Nguyễn Nghĩa Dân đă tập hợp được 745
lời ca dao từ nhiều nguồn và sắp xếp theo trật tự chữ cái. Và chính cách
sắp xếp đó đă giúp chúng ta phần nào nhận thức rơ hơn về diện mạo ca dao
hiện đại. Cuốn Cụ Hồ ở giữa ḷng dân do hai tác giả Lê Tiến Dũng và Trần
Hoàng sưu tầm, biên soạn cũng là một tư liệu rất đáng trân trọng. Chỉ
sưu tầm riêng ca dao về đề tài Bác Hồ lưu truyền ở B́nh Trị Thiên đă có
tới gần 200 lời.
Một số tư liệu chúng tôi điểm qua ở trên là cơ sở để chúng ta tin tưởng
và hy vọng vào sự tồn tại và vận động của thể loại ca dao trong đời sống
hiện tại. Tuy nhiên, chúng ta sẽ phải thực hiện thao tác rà soát lại tư
liệu khi đă đưa ra được những tiêu chí cơ bản dùng để nhận diện ca dao
hiện đại. Những vấn đề nêu trên mới là kết quả bước đầu của tác giả bài
viết trong việc tập hợp và sử lư hệ thống tư liệu về ca dao hiện đại
trước khi tiến hành xem xét những cơ sở khoa học để định ra tiêu chí
nhận diện nó.
2. Vấn đề tiêu chí nhận diện ca dao hiện
đại
Trong một bài viết về vấn đề nghiên cứu văn học dân gian hiện đại, tác
giả Chu Xuân Diên đă nêu quan điểm: "Nếu xem xét văn học dân gian hiện
đại hay văn học dân gian mới là giai đoạn phát triển của văn học dân
gian truyền thống trong những điều kiện lịch sử mới sau cách mạng, th́
trước tiên cần phải thống nhất nhận định về bản chất thẩm mỹ, về đặc
trưng loại biệt của văn học dân gian nói chung"(6). Đó là một trong
những đề xuất lư luận có tính chất gợi mở về hướng nghiên cứu văn học
dân gian nói chung, văn học dân gian hiện đại nói riêng. Ca dao hiện đại
là một bộ phận thơ dân gian tồn tại và phát triển trong những điều kiện
lịch sử mới cũng cần được xem xét theo định hướng nghiên cứu trên. Việc
định ra tiêu chí nhận diện ca dao hiện đại cũng phải bắt đầu từ việc xem
xét bản chất thẩm mỹ và những đặc trưng cơ bản không chỉ của văn học dân
gian cổ truyền mà c̣n của văn học dân gian hiện đại.
Văn học dân gian do nhân dân lao động sáng tác và lưu truyền. Bởi vậy,
nó mang tính tập thể và truyền miệng. Theo các nhà nghiên cứu, đó là
những đặc trưng cơ bản nhất, phân biệt văn học dân gian với văn học
thành văn. Nếu không có cái nh́n sâu sắc về những đặc trưng vừa nêu, có
thể chúng ta sẽ sa vào quan niệm phiến diện, h́nh thức chủ nghĩa dẫn đến
những hiểu biếtchưa thấu đáo, thậm chí lệch lạc về những đặc trưng quan
trọng của bộ phận văn học loại biệt này.
Tính tập thể và tính truyền miệng là những phương thức sáng tác, lưu
truyền của văn học dân gian. Vấn đề đó đă được các nhà nghiên cứu thống
nhất xác định. Đối với văn học dân gian hiện đại, nó là vấn đề c̣n gây
tranh luận, chưa kể có ư kiến phủ nhận cả sự tồn tại của bản thân văn
học dân gian hiện đại.
Nhưng, trước tiên, chúng tôi muốn t́m hiểu tính tập thể và tính truyền
miệng không chỉ với tư cách là những phương thức sáng tác và lưu truyền,
mà c̣n với tư cách là những phạm trù thẩm mỹ của văn học dân gian. Ngay
cả nghiên cứu tính tập thể và tính truyền miệng với tư cách là những
phương thức sáng tác và lưu truyền cũng cần thận trọng, tránh nhận định
một cách chung chung, thiếu cơ sở khoa học. Chẳng hạn, một nhà nghiên
cứu văn học dân gian có tên tuổi đă nhận xét một cách có cơ sở về tính
tập thể với tư cách là phương thức sáng tác lưu truyền như sau: "đằng
sau khái niệm "sáng tác tập thể" (...) vẫn tồn tại một cách hiểu mơ hồ
và trừu tượng về vấn đề tác giả văn học dân gian. Thực chất của cách
hiểu này là phủ nhận vai tṛ của cá nhân trong sự sáng tác văn học dân
gian, đồng nhất tính tập thể với tính phi cá nhân..." Và ông cho rằng: "
Tập thể không phải là một thứ "công ty vô danh". Lịch sử folklore các
dân tộc ghi nhận vai tṛ của các nghệ nhân dân gian ngay từ thời cổ"
(7).
Do đó, một mặt không thể phủ nhận vai tṛ quan trọng là những phương
thức sáng tác, lưu truyền của tính tập thể và tính truyền miệng, mặt
khác, không thể không đi sâu t́m hiểu bản chất thẩm mỹ của các đặc trưng
này.
Với tư cách là những phạm trù thẩm mỹ của văn học dân gian, tính tập thể
và truyền miệng sẽ được nh́n nhận từ góc độ sâu hơn, với diện bao quát
hơn, trong sự vận động xa hơn. Trên cơ sở đó, chúng ta có điều kiện xem
xét văn học dân gian đúng như sự tồn tại của bản thân nó - một thực thể
sống và vận động trong quá tŕnh lịch sử.
Tính tập thể được nh́n nhận với tư cách là một phạm trù thẩm mỹ thể hiện
rơ nét ở chỗ: những hiện thực đời sống khách quan được phản ánh trong
tác phẩm là những hiện tượng đời sống gây được tác động mạnh mẽ vào nhận
thức không chỉ của một cá nhân nào đó mà của cả một cộng đồng người nhất
định. Từ nhận thức đó sẽ nảy sinh những sáng tác dân gian tập thể. Theo
các nhà nghiên cứu, những sáng tác dân gian đó mang tâm lư sáng tác tập
thể. Như vậy, đặc trưng tập thể không chỉ phản ánh thực tế sáng tác (sáng
tác tập thể) mà c̣n bộc lộ những giá trị thẩm mỹ (là một phạm trù thẩm
mỹ) của tác phẩm dân gian. Những giá trị thẩm mỹ dân gian này không mang
dấu ấn nghệ thuật độc đáo cá nhân mà mang dấu ấn nghệ thuật độc đáo tập
thể.
Có thể nói, ở ca dao cổ truyền , tính tập thể thường thể hiện ở cả hai
phương diện: là phương thức sáng tác lưu truyền và là phạm trù thẩm mỹ
của tác phẩm. Chẳng hạn, thống kê những lời ca dao cổ truyền bắt đầu
bằng “Đêm khuya” trong Kho tàng ca dao người Việt (56 lời), chúng ta
thấy hầu hết các lời đều có dung lượng ngắn (2 đến 4 ḍng lục bát) phù
hợp với sự sáng tác và lưu truyền tập thể, song vẫn phản ánh được những
hiện tượng đời sống gây tác động mạnh mẽ vào cộng đồng những người sáng
tạo ra nó.
Chúng tôi xin đơn cử vài ví dụ:
288. Đêm khuya chong ngọn đèn ngồi
Bâng khuâng nhớ bạn bồi hồi lá gan.
298. Đêm khuya kẻ trộm vào nhà
Làm thinh nhắm mắt để mà mất trâu
300. Đêm khuya lặng gió thanh trời
Khuyên chàng bớt ngủ nghe lời em than (8)
vv...
ở ca dao hiện đại , t́nh h́nh có khác. Điều đáng lưu ư là, tính tập thể
với tư cách là một phạm trù thẩm mỹ có vai tṛ quan trọng trong việc
nhận diện tác phẩm văn học dân gian hiện đại nói chung, ca dao hiện đại
nói riêng khi trong quá tŕnh vận động lịch sử, tác phẩm không mang đặc
trưng tập thể với tư cách là phương thức sáng tác lúc nó mới ra đời.
Chẳng hạn, cũng bắt đầu bằng “Đêm khuya”, lời ca dao sau lúc đầu là do
một người sáng tác, song trong quá tŕnh lưu truyền, nó đă trở thành tài
sản chung của dân gian. Điều đáng nói là, lời ca dao chứa đựng những giá
trị thẩm mỹ tập thể và đă có dị bản:
Đêm khuya ai gọi sang đ̣
Có phải thóc thuế th́ cho xuống thuyền
Thóc thuế chở không lấy tiền
Có nước nóng uống chèo liền sang ngay
Mặc trời gió rét đêm nay
Thịt da tê buốt cứng tay cũng chèo.
Hoàng Tuyên (9)
Dị bản:
Đêm khuya có tiếng gọi đ̣,
Có phải thóc thuế th́ cho xuống thuyền.
Thóc thuế xin chở trước tiên,
Có nước nóng uống chèo liền sang ngay.
Mặc dù gió rét đêm nay,
Thịt da tê buốt cứng tay cũng chèo.(10)
Tính truyền miệng với tư cách là một phạm trù thẩm mỹ cũng cần được xem
xét. Vẫn c̣n có người quan niệm tính truyền miệng ở văn học dân gian là
hệ quả tất yếu của tŕnh độ văn hóa của nhân dân lao động trước Cách
mạng hoặc tính truyền miệng đơn thuần là phương thức sáng tác và lưu
truyền văn học dân gian. Quan niệm như vậy sẽ dẫn đến chỗ lạc hậu hóa
văn học dân gian, đơn giản hóa một đặc trưng quan trọng của văn học dân
gian, thậm chí phủ nhận cả sự tồn tại của văn học dân gian hiện đại. Như
đă nêu, tính truyền miệng của văn học dân gian có liên quan tới những
điều kiện sống của nhân dân lao động thời xưa, đặc biệt, nó có quan hệ
mật thiết với hoàn cảnh lịch sử của h́nh thức văn học sơ khai buổi đầu.
Nhưng, tính truyền miệng không chỉ là một phương thức sáng tác và lưu
truyền mà c̣n là một đặc trưng thẩm mỹ của văn học dân gian. Có thể nói,
càng ngày ư nghĩa thẩm mỹ của tính truyền miệng càng đóng vai tṛ quan
trọng trong sự tồn tại và phát triển của văn học dân gian. Nhà nghiên
cứu Chu Xuân Diên c̣n cho rằng đến văn học dân gian hiện đại, ư nghĩa
thẩm mỹ trở thành ư nghĩa duy nhất của tính truyền miệng và "ư nghĩa
thẩm mỹ của tính truyền miệng trong văn học dân gian làm cho văn học dân
gian trong phần lớn trường hợp mang tính chất là một thứ nghệ thuật biểu
diễn "(11). Điều đó phần nào lư giải hiện tượng: đă có chữ viết, thậm
chí ngày nay có rất nhiều phương tiện, cách thức chuyển tin, song văn
học dân gian vẫn chủ yếu lưu truyền bằng truyền miệng. Ca dao chống Mỹ
là một ví dụ tiêu biểu.Nó không chỉ xuất hiện trên báo tường, trong các
cuộc thi sáng tác ca dao mà c̣n được cất lên trên đường hành quân, bên
đôi bồ tiếp vận, trong những dịp thanh niên nam nữ gặp gỡ nhau khi sản
xuất và chiến đấu...Chính trong những thời điểm giao tiếp trực tiếp sinh
động cảm tính ấy, ca dao hiện đại mới phát huy tối đa giá trị thẩm mỹ
của lời ca. Trong thực tế, có những lời ca dao hiện đại mang dấu ấn rơ
rệt của lối đối đáp nam nữ - một h́nh thức diễn xướng dân gian, có giá
trị nghệ thuật biểu diễn dân gian.
Ví dụ:
74. Dù anh văn hoá lớp mười
Anh chưa ra trận, em thời không yêu
Dù anh sắc sảo, mỹ miều
Nếu không ra trận, không yêu làm chồng.
75. Dù em nhan sắc tuyệt vời
Em không đánh Mỹ, anh thời không yêu
Dù em duyên dáng, mỹ miều
Nếu không đánh Mỹ, đừng kêu muộn chồng. (12)
Trong ca dao cổ truyền, những lời mang dấu ấn của lối đối đáp và “thứ
nghệ thuật biểu diễn” dân gian hồn nhiên như trên được sử dụng khá nhiều.
Thí dụ:
467. Đêm trăng thanh , anh mới hỏi nàng:
“Tre non đủ lá đan sàng nên chăng?”
- Đan sàng thiếp cũng xin vâng
Tre vừa đủ lá, non chăng hỡi chàng?
301. Bây giờ em mới hỏi anh
Trầu vàng nhá với cau xanh thế nào?
- Cau xanh nhá với trầu vàng
T́nh anh sánh với duyên nàng đẹp đôi
137. Dù ai cho bạc cho tiền
Không bằng em được đứng liền với anh
Dù ai cho bạc cho chinh
Không bằng thiếp đứng với ḿnh, ḿnh ơi!
Dù ai cho bạc cho vàng
Không bằng em đứng với chàng, chàng ơi! (13)
Một đặc trưng nữa của văn học dân gian mà ngày nay chúng ta cần xem xét
một cách linh hoạt khi nghiên cứu là tính dị bản. ở bộ phận văn học dân
gian cổ truyền, tính dị bản được coi là đặc trưng tất yếu và phổ biến;
tuy nhiên, như vậy, không có nghĩa là tất cả các tác phẩm văn học dân
gian cũ đều có dị bản hay nói chính xác hơn là đều đă sưu tầm được dị
bản. ở bộ phận văn học dân gian hiện đại, số lượng tác phẩm có dị bản
c̣n rất thưa thớt. Chẳng hạn, trong cuốn Ca dao Việt Nam 1945 -1975, tác
giả Nguyễn Nghĩa Dân chỉ sưu tập được dị bản của một số lời ca dao. Đó
là các lời C 92, Ch 130, L 248, L 249, Q367, A 476, D 544, Tr 732. Song,
không thể căn cứ vào hiện tượng đó mà đi đến chỗ nghi ngờ sự tồn tại của
văn học dân gian hiện đại. Có thể nghĩ đến nhiều nguyên nhân: Thời gian
chưa đủ để nảy sinh dị bản, c̣n nhiều dị bản lưu truyền trong dân gian
mà ta chưa sưu tầm khai thác được, v.v... Bởi vậy, hiện tại, đối với văn
học dân gian hiện đại nói chung, ca dao hiện đại nói riêng, vấn đề dị
bản chưa thể đặt ra như một đặc trưng bắt buộc phải có. Nhưng, đă là
sáng tác dân gian th́ sớm muộn ǵ tác phẩm cũng sẽ có dị bản nếu chúng
ta vẫn tạo điều kiện cho nó tồn tại và phát triển. Nên, việc theo dơi sự
vận động của tác phẩm và có h́nh thức sưu tầm, nghiên cứu kịp thời vẫn
là hướng đi có cơ sở khoa học và cần thiết.
Chúng ta không thể nói đến sự tồn tại và phát triển của văn học dân gian
hiện đại, của ca dao hiện đại mà không t́m hiểu về tính truyền thống và
sự vận động, biến đổi của tính truyền thống trong tiến tŕnh lịch sử.
Các nhà nghiên cứu folklore đă bàn khá nhiều về tính truyền thống và mối
quan hệ gắn bó khăng khít giữa truyền thống và ứng tác. ở bài viết này,
chúng tôi muốn nói đến vai tṛ của tính truyền thống không chỉ trong
sáng tác lưu truyền mà c̣n trong việc nhận diện tác phẩm . Vậy, tính
truyền thống trong văn học dân gian được hiểu như thế nào?
Chúng ta biết rằng, khi đă có một số lượng nhất định tác phẩm, quá tŕnh
lựa chọn những truyền thống nghệ thuật h́nh thành. Những truyền thống
nghệ thuật nào phù hợp với tâm lư tập thể, phù hợp với sự sáng tác và
lưu truyền bằng miệng sẽ được lưu giữ và trở thành "vốn liếng nghệ
thuật" cho các cá nhân tiếp tục khai thác để tham gia ứng tác, ngược
lại, nếu không phù hợp sẽ bị đào thải.
Như vậy, truyền thống không chỉ bao gồm những nhân tố cũ mà c̣n gồm
những nhân tố cũ đă được cải biên và những nhân tố mới được h́nh thành
nếu như những nhân tố mới đó phù hợp với nhu cầu thẩm mỹ, với tâm lư tập
thể của nhân dân lao động trong từng giai đoạn lịch sử. Và, sự h́nh
thành truyền thống diễn ra liên tục theo quy luật lựa chọn của quá tŕnh
sáng tạo văn học nghệ thuật dân gian. Bởi vậy, tính truyền thống trong
văn học dân gian cần phải được nghiên cứu theo quan điểm lịch sử. Nghĩa
là, tính truyền thống trong văn học dân gian phải được phải được nghiên
cứu trong sự vận động, biến đổi của lịch sử xă hội.
Tính truyền thống có vai tṛ đặc biệt quan trọng trong quá tŕnh sáng
tác và lưu truyền. Đó là điều không thể phủ nhận. Song, điều muốn nhấn
mạnh ở đây là, trên cơ sở tính truyền thống, người nghiên cứu có thể đưa
ra những tiêu chí nhận diện các sáng tác dân gian hiện đại trong đó có
ca dao hiện đại. Chẳng hạn, tiếp cận hai lời ca dao sau: C̣n trời, c̣n
nước c̣n non / C̣n người thất học, ta c̣n phải lo (14), C̣n trời, c̣n
nước c̣n non / C̣n lúa chính phủ, em c̣n cứ đi (15), chúng ta có thể
nhận định rằng: đó là những lời ca dao hiện đại được h́nh thành trên cơ
sở “cải biên” lời ca dao cổ truyền C̣n trời, c̣n nước c̣n non/ C̣n cô
bán rượu, anh c̣n say sưa (16). Hay lời ca dao Con gà tốt mă v́ lông/
Răng đen v́ thuốc, rưọu nồng v́ men (17) trong ca dao cổ truyền được tác
giả dân gian dùng để tạo ra lời ca dao hiện đại trên cơ sở tiếp nối “tứ
thơ” rất tự nhiên và tài t́nh: Con gà tốt mă v́ lông/ Răng đen v́ thuốc,
rưọu nồng v́ men/ ở đời muốn được tiếng khen/ I tờ đi học, đua chen với
đời (18)
Trên đây là một số phân tích về bản chất thẩm mỹ, về những đặc trưng
loại biệt của văn học dân gian. Nghiên cứu sâu về những vấn đề đó chắc
chắn sẽ phát hiện ra quy luật vận động của văn học dân gian nói chung,
của ca dao nói riêng; đồng thời cũng là để tiến tới giải quyết những vấn
đề c̣n tồn tại của việc nghiên cứu văn học dân gian hiện đại và ca dao
hiện đại; nhất là những vấn đề có liên quan đến tiêu chí nhận diện ca
dao hiện đại - một bộ phận của thể loại văn học dân gian có sức sống
mạnh mẽ, bền bỉ cho đến tận ngày nay.
Thực tế cho thấy, ranh giới giữa một số thể loại của văn học dân gian cổ
truyền và văn học dân gian hiện đại, giữa ca dao cổ truyền và ca dao
hiện đại đôi khi chưa có sự phân định rơ ràng. Chẳng hạn, đối với thể
loại ca dao, các nhà nghiên cứu lấy mốc lịch sử là cách mạng Tháng Tám
năm 1945 để phân biệt hai bộ phận ca dao cổ truyền và hiện đại. Đó là
cách phân chia có cơ sở khoa học, phù hợp với sự phát triển của xă hội,
văn hóa, lịch sử. Song, nếu chúng ta quan niệm những lời ca dao cổ
truyền đă sưu tầm ở dạng "tĩnh" và những lời ca dao cổ truyền c̣n sống
trong môi trường sinh hoạt của dân chúng là những lời ca dao cổ truyền ở
dạng "động" th́ sẽ xảy ra t́nh trạng: ở dạng ”động”, chúng có thể tồn
tại dưới hai h́nh thức. Thứ nhất, chúng vận động trong môi trường sinh
hoạt và những đặc điểm của truyền thống nghệ thuật cũ đă có sự cải biên.
Về vấn đề này, tác giả Chu Xuân Diên trong bài viết Vấn đề nghiên cứu
văn học dân gian hiện đại đă có những kiến giải thoả đáng và định hướng
nghiên cứu cụ thể. Thứ hai, chúng vận động trong môi trường sinh hoạt
nhưng không có sự biến đổi. Những lời ca dao đó vẫn mang những đặc điểm
của truyền thống nghệ thuật cũ. H́nh thức thứ hai vừa nêu không nhiều
song không thể nói là không có. Với những trường hợp ấy, tiêu chí nhận
diện là mốc lịch sử rơ ràng chưa thỏa đáng.
Sự phân tích có tính chất khái quát ở trên đă phản ánh phần nào quy luật
vận động của văn học dân gian trong tiến tŕnh lịch sử. Chúng tôi muốn
lưu ư thêm rằng: một bộ phận văn học dân gian, trong đó có ca dao, tồn
tại trong môi trường sinh hoạt mà vẫn giữ nguyên toàn bộ những đặc điểm
nội dung, h́nh thức nghệ thuật như chúng vốn có trước cách mạng th́
không có lư do ǵ để xếp nó vào văn học dân gian hiện đại, cụ thể là ca
dao hiện đại được.
Thực ra, vấn đề truyền thống “động” vừa nói ở trên hết sức phức tạp. Nó
liên quan đến công tác sưu tầm, nghiên cứu trên phạm vi lớn mà hiện nay
chúng ta chưa có điều kiện thực hiện. Nhưng nó không nằm trong phạm vi
nghiên cứu của bài viết này nên được nêu ra như một hướng suy nghĩ chứ
chưa phải là một hướng nghiên cứu.
Vấn đề chúng tôi quan tâm hơn là ranh giới giữa ca dao hiện đại với thơ
của các tác giả chuyên nghiệp và thơ ca trong phong trào sáng tác văn
nghệ quần chúng. Vấn đề này thực sự là mấu chốt gây ra những tranh luận
về sự tồn tại hay không tồn tại ca dao hiện đại và như thế nào được coi
là ca dao với tư cách là một thể loại của sáng tác dân gian?... Điều
phức tạp gây ra những tranh luận vừa nêu suy cho cùng bắt nguồn từ chỗ
chúng ta chưa chú ư t́m ra quy luật vận động của văn học dân gian nói
chung và ca dao nói riêng, chưa nghiên cứu một cách cụ thể bộ phận ca
dao hiện đại và nhất là chưa định ra được tiêu chí nhận diện nó.
Căn cứ vào thực tế, theo chúng tôi, việc định ra tiêu chí nhận diện ca
dao hiện đại là cần thiết và các tiêu chí đó phải thỏa măn một cách
tương đối những yêu cầu cụ thể về xác định ranh giới nêu trên.
Ca dao cổ truyền mang những truyền thống nghệ thuật cũ, c̣n ca dao hiện
đại mang những truyền thống nghệ thuật cũ đă được cải biên và những
truyền thống nghệ thuật mới được định h́nh trong thời điểm lịch sử hiện
tại. Như vậy, dấu ấn truyền thống đọng lại trong từng lời ca dao và đó
là điều mà chúng tôi đặc biệt lưu ư khi t́m kiếm những tiêu chí nhận
diện ca dao hiện đại với tư cách là văn bản văn học dân gian đă định
h́nh, với tư cách là những văn bản ở "một thời điểm xuất hiện của tác
phẩm folklore, nó thể hiện một cách đầy đủ nhất các phẩm chất của tác
phẩm folklore ở thời điểm ấy" (19). Có thể nói rằng, ranh giới giữa ca
dao cổ truyền và ca dao hiện đại xác định không gặp nhiều trở ngại lắm.
Ranh giới giữa ca dao hiện đại với thơ ca của các tác giả chuyên nghiệp,
thơ ca nảy sinh trong phong trào văn nghệ quần chúng khó xác định hơn
rất nhiều bởi giữa chúng có mối liên hệ chằng chịt, đôi khi có những
thời điểm chúng “gặp nhau, trùng lặp với nhau, hoà vào với nhau làm
một.” (20) Song, giữa chúng vẫn có sự khác biệt bởi cuộc sống của chúng
cơ bản là khác nhau. ở ca dao hiện đại chẳng hạn, với tư cách là một bộ
phận của thể loại sáng tác dân gian, đương nhiên ít nhiều nó cũng phải
vận động theo quy luật riêng của thơ ca dân gian và mang những truyền
thống nghệ thuật của thể loại trữ t́nh này. Chẳng hạn, là sáng tác dân
gian, tác phẩm sẽ mang đặc trưng tập thể, ít nhất với tư cách là một
phạm trù thẩm mỹ, mang những đặc điểm nghệ thuật dân gian truyền thống
và vận động theo quy luật của sáng tác dân gian như quy luật kế thừa
truyền thống, quy luật chọn lọc tập thể... và những quy luật vận động
biến đổi của lịch sử xă hội. Lời ca dao có tên tác giả sau có thể xác
định là tác phẩm ca dao hiện đại dù nó chưa hội đủ tất cả các đặc trưng
của sáng tác dân gian truyền thống bởi nó mang tâm lư sáng tác tập thể,
mang dấu ấn nghệ thuật dân gian truyền thống:
“Con kiến mày leo cành đa
Leo phải cành cụt leo ra leo vào
Thằng Mỹ cũng chẳng khác nào
Miền Nam leo vào miền Bắc leo ra
Loay hoay hơn chục năm qua
Leo vào rồi lại leo ra cùng đường...”
Nguyễn Thế Vinh (21)
Nếu ở ca dao cổ truyền, hiện thực đời sống khách quan thu hút sự chú ư
của tác giả dân gian là những vấn đề thiên về tâm sự riêng tư trong cuộc
sống lứa đôi, th́ ở ca dao hiện đại những sự kiện được quần chúng nhân
dân chú ư nhất lại là những vấn đề liên quan tới vận mệnh dân tộc như
kháng chiến, xây dựng, Tổ quốc đất nước.
Có một số đặc điểm nghệ thuật được duy tŕ khá bền vững từ ca dao cổ
truyền đến ca dao hiện đại là cách diễn đạt giản dị, mộc mạc và lời ca
dao thường được làm theo thể thơ dân tộc - thể lục bát. Có lẽ bởi đây là
thể thơ có “niêm luật (...) khá giản dị” (22) mà vẫn có sức biểu đạt
lớn. Tuy nhiên, không phải lục bát là độc quyền của sáng tác dân gian,
song trong ca dao, lục bát được sử dụng với tỷ lệ rất cao (khoảng > 90%)
và là phương tiện biểu đạt nội dung hữu hiệu, sâu sắc.
C̣n thơ ca thành văn và thơ ca trong phong trào văn nghệ quần chúng chắc
chắn cũng có quy luật vận động và đặc điểm nội dung, nghệ thuật riêng
biệt. Về vấn đề này, có thể tham khảo thêm bài viết Vấn đề nghiên cứu
văn học dân gian hiện đại của tác giả Chu Xuân Diên (23). ở đây, chúng
tôi muốn lưu ư thêm rằng: quan điểm và thao tác nghiên cứu cần thiết là
xem xét các h́nh thức thơ ca đó trong cùng một lát cắt đồng đại, trong
mối quan hệ qua lại biện chứng song đồng thời cũng phải chia tách để
khám phá chúng từ nhiều b́nh diện, đặng có cái nh́n toàn diện và sâu sắc
hơn về bản chất nghệ thuật của từng loại.
Từ những t́m ṭi nghiên cứu trên, chúng tôi xin nêu ra một số suy nghĩ
để trên cơ sở đó có thể nhận diện ca dao hiện đại:
1) Ca dao hiện đại là những tác phẩm ca dao mang đặc điểm nghệ thuật dân
gian truyền thống, phù hợp với quan niệm nghệ thuật mới và hiện thực đời
sống của nhân dân trong thời kỳ hiện đại. Ở đây, chúng tôi xin làm rơ
hai điểm:
Truyền thống nghệ thuật dân gian phù hợp với quan niệm nghệ thuật mới và
hiện thực đời sống của quần chúng nhân dân trong thời kỳ hiện đại gồm
những truyền thống nghệ thuật của ca dao cổ truyền được cải biên và
những truyền thống nghệ thuật mới được định h́nh trên cơ sở tiếp thu
những truyền thống nghệ thuật cổ truyền.
- Truyền thống nghệ thuật dân gian bao gồm cả nội dung và h́nh thức nghệ
thuật song thể hiện rơ nét nhất ở h́nh thức nghệ thuật như ngôn ngữ, thể
thơ, các mô típ mở đầu trong các lời ca dao,... Như thế, cũng có nghĩa
đây chủ yếu là tiêu chí nhận diện về mặt h́nh thức - mặt tác động vào
giác quan của người tiếp nhận trước tiên và mạnh mẽ nhất.
2) Ca dao hiện đại là những tác phẩm ca dao mang tâm lư sáng tác tập
thể. Nói cách khác, đối tượng được phản ánh trong tác phẩm là những hiện
tượng đời sống gây tác động vào một tập thể nhất định chứ không chỉ gây
tác động vào từng cá nhân.
Ở đây cũng có hai điểm xin nêu rơ:
- Tâm lư sáng tác tập thể nảy sinh từ quá tŕnh nhận thức và sáng tạo
tập thể. ở ca dao hiện đại, chúng tôi thấy càng cần nh́n nhận đặc trưng
tập thể sâu hơn về phương diện nó là một phạm trù thẩm mỹ của văn học
dân gian. Không nên máy móc xem xét tính tập thể với tư cách là phương
thức sáng tác lúc ca dao hiện đại mới ra đời để phán xét nó.
- Tâm lư sáng tác tập thể cũng in dấu ấn ở h́nh thức nghệ thuật. Thí dụ,
điều đó thể hiện ở việc nhiều người cùng ưa thích sử dụng những thể thơ,
những biện pháp nghệ thuật, những biểu tượng tạo nên từ những sự vật
quen thuộc trong đời sống của cộng đồng,... Tuy nhiên, tâm lư sáng tác
tập thể biểu hiện chủ yếu ở nội dung tư tưởng tác phẩm. Bởi vậy, tiêu
chí này nghiêng về nhận diện ca dao hiện đại từ góc độ nội dung tác
phẩm.
3) Ca dao hiện đại có thể ra đời từ nhiều nguồn: từ những sáng tác mô
phỏng của các tác giả chuyên nghiệp, từ những sáng tác của phong trào
văn nghệ nghiệp dư, từ trong sinh hoạt văn hóa dân gian. Điều quan trọng
là, những tác phẩm ca dao hiện đại ấy phải được lưu truyền rộng răi
trong dân gian bằng phương thức truyền miệng, mang ư nghĩa thẩm mỹ của
tính truyền miệng.
Ở mục thứ ba này, chúng tôi chưa đặt vấn đề xem xét tính dị bản của ca
dao hiện đại dù biết rằng tính dị bản là hệ quả tất yếu của tính tập thể
và tính truyền miệng, v́ những lư do đă tŕnh bày ở phần phân tích
chung. Chúng tôi muốn nh́n nhận ca dao hiện đại với tư cách là những tác
phẩm được lưu truyền rộng răi trong dân gian, đặc biệt là phải mang ư
nghĩa thẩm mỹ của tính truyền miệng, thích hợp với nghệ thuật diễn xướng
dân gian.
Trên đây là một số vấn đề xoay quanh việc nhận diện ca dao hiện đại mà
theo chúng tôi nên xem xét trong nghiên cứu thể loại ca dao nói chung,
bộ phận ca dao hiện đại nói riêng. Lư giải một cách có cơ sở và đưa ra
được những tiêu chí nhận diện ca dao hiện đại c̣n là công việc khó giải
quyết một cách thỏa đáng. Chúng tôi hy vọng rằng, những phân tích ở trên
ít nhiều sẽ góp phần định ra được tiêu chí nhận diện ca dao hiện đại,
góp phần hiểu đúng bản chất ca dao hiện đại - một bộ phận thơ dân gian
vẫn đang tồn tại và vận động trong đời sống xă hội hiện nay.
=================
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Hà Minh Đức (Chủ biên): Lư luận văn học, (Tái bản lần thứ 6), Nxb
Giáo dục, Hà Nội, 2000, trang 12.
2. Ca dao sưu tầm (Từ 1945 đến nay), Nxb Văn học, Hà Nội, 1962. trang 06
3. Ca dao chống Mỹ cứu nước, tập ba, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội,
1972, trang 66, 67, 71
4. Nguyễn Nghĩa Dân: Ca dao Việt Nam 1945-1975, Nxb Văn hoá thông tin,
Hà Nội, 1997
5. Lê Tiến Dũng - Trần Hoàng (Sưu tầm và biên soạn): Cụ Hồ ở giữa ḷng
dân, Bảo tàng Hồ Chí Minh /Thừa Thiên Huế, Nxb Thuận Hoá, Huế, 5 /2000.
6. Chu Xuân Diên: “Vấn đề nghiên cứu văn học dân gian hiện đại”, Tạp chí
Văn học, số 4/1969, trang 39.
7. Đỗ B́nh Trị: Văn học dân gian Việt Nam (Tập I), Nxb Giáo dục, Hà
Nội,1991, trang 11.
8. Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật (Chủ biên): Kho tàng ca dao người
Việt (4 tập), Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội 1995. Lời Đ288, Đ298, Đ300
9. Ca dao sưu tầm, tài liệu đă dẫn
10. Nguyễn Nghĩa Dân: tài liệu đă dẫn, lời Đ153
11. Chu Xuân Diên, tài liệu đă dẫn, trang 43.
12. Ca dao chống Mỹ cứu nước, Tập IV, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội,
1974, lời D74, D75
13. Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật (Chủ biên), tài liệu đă dẫn , Lời
Đ467, B301, D137.
14. Nguyễn Nghĩa Dân, tài liệu đă dẫn, lời C 79
15. Ca dao sưu tầm, tài liệu đă dẫn, trang 51
16. Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật (Chủ biên), tài liệu đă dẫn, Lời
C805.
17. Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật (Chủ biên), tài liệu đă dẫn, Lời
C638.
18. Nguyễn Nghĩa Dân, tài liệu đă dẫn, lời C75
19. Trần Đức Ngôn: “Một số vấn đề lư luận chung quanh việc nghiên cứu
văn bản văn học dân gian ”, Tạp chí Văn hoá dân gian số 3/1990, trang 17
20. Chu Xuân Diên, tài liệu đă dẫn, trang 50.
21. Ca dao chống Mỹ cứu nước, tập ba, tài liệu đă dẫn, trang 70.
22. Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức: Thơ ca Việt nam (h́nh thức và thể
loại), Nxb KHXH, Hà Nội 1971, trang 172
23. Chu Xuân Diên, tài liệu đă dẫn, trang 50, 51.
Tác giả: Nguyễn Hằng Phương
|