Phụ Nữ Việt Nam Qua
Ca Dao
Khi đề
cập đến phụ nữ Việt Nam,
ai ai cũng đều thừa nhận
rằng từ ngàn xưa cho đến
nay họ là những người
đàn bà dịu hiền, thùy mị,
đoan trang, đảm đang,
trung trinh tiết hạnh,
giàu ḷng hy sinh. Trong
gia đ́nh th́ hiếu thảo
với cha mẹ, tảo tần lo
cho chồng con, ra ngoài
là những bậc anh thư
liệt nữ. Chính những đức
tính đẹp nầy đă nâng cao
phẩm giá của người phụ
nữ Việt Nam:
Phụ
nữ Việt Nam trung trinh
tiết hạnh,
Trang điểm cuộc đời muôn cánh hoa thơm. Ra ngoài giúp nước, giúp non, Về nhà tận tụy chồng con một ḷng.
Trong
suốt chiều dài của ḍng
lịch sử và chiều sâu của
ḷng dân tộc, phụ nữ
Việt Nam đă liệt oanh
viết nên những trang sử
vàng son làm vẻ vang
giống ṇi như Bà Trưng,
Bà Triệu; nữ tướng Bùi
Thị Xuân của Quang Trung;
Cô Giang, Cô Bắc của
Việt Nam Quốc Dân Đảng...
C̣n về thi văn, ta có Bà
Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện
Thanh Quan, Bà Hồ Xuân
Hương, Bà Sương Nguyệt
Ánh... đều là những nữ
sĩ tài hoa, nức tiếng
trên văn đàn, là những
cánh hồng tươi thắm
trong vườn hoa văn học.
Ngoài ra, c̣n có biết
bao nhiêu phụ nữ Việt
Nam khác sống một cuộc
sống b́nh thường, thầm
lặng nơi thôn trang, xóm
làng mà những nét đẹp về
tâm hồn của họ được dân
gian ca tụng bằng những
áng văn, những vần thơ,
điệu hát, câu ḥ hay qua
những vần ca dao phong
phú.
Đề cập
đến văn chương, chúng ta
không thể nào bỏ qua nền
thi ca b́nh dân mà ca
dao là một trong những
thể loại quen thuộc nầy.
Từ lâu, ca dao đă đi vào
ḷng dân tộc và lạc vào
rừng ca dao của kho tàng
văn học, ta sẽ bắt gặp
h́nh ảnh của người phụ
nữ Việt Nam qua những
đức tính cao quư của họ:
Nói đến
phụ nữ Việt Nam, trước
hết phải nói đến ḷng
hiếu thảo đối với mẹ cha
và tiết hạnh đối với bản
thân. Không phải chỉ có
một nàng Kiều của cụ
Nguyễn Du mới biết báo
hiếu mà bất cứ người con
gái Việt Nam nào cũng
đều nhớ đến ơn sinh
thành, công lao nuôi
dưỡng bao la của đấng
song thân:
Công
cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một ḷng thờ mẹ, kính cha, Cho tṛn chữ hiếu mới là đạo con. Đó là đối với cha mẹ, c̣n đối với bản thân th́: Trai thời trung hiếu làm đầu, Gái thời tiết hạnh làm câu trao ḿnh.
Người phụ
nữ Việt Nam, ngay từ lúc
c̣n ẵm ngửa cho đến khi
biết lật, biết ḅ lớn
dần trong nhịp vơng đưa
qua tiếng hát của bà ru
cháu, mẹ ru con, chị ru
em:
Nhà
Bè nước chảy chia hai,
Ai về Gia Định, Đồng Nai th́ về. Hay qua điệu hát ầu ơ: Ầu ơ... Bao giờ Chợ Quán hết vôi, Thủ Thiêm hết giặc, em thôi đưa đ̣. Bắp non mà nướng lửa ḷ, Đố ai ve được con đ̣ Thủ Thiêm. Hoặc qua điệu ru ạ ờ: Ạ ờ... Cái ngủ mày ngủ cho lâu, Mẹ mày đi cấy đồng sâu chưa về. Bắt được con cá rô, trê, Tṛng cổ lôi về cho cái ngủ ăn...
Những vần
ca dao mộc mạc, b́nh dị
đă đưa em bé gái Việt
Nam vào giấc ngủ an b́nh
và từ ngày nầy qua ngày
khác, tiếng ru lắng đọng,
thẩm thấu vào tiềm thức
của em bé nên sau nầy
lớn lên thành chị, thành
mẹ, thành bà lại hát để
ru em, ru con, ru cháu
theo nhip vơng đưa kẽo
kẹt đều đều.
Hát ru em,
hát ầu ơ, ạ ờ là một
điệu hát thông dụng được
phổ biến từ thôn xóm,
làng mạc cho đến thị
thành. Hát ru em là một
bản trường ca bất tận
của kho tàng văn chương
Việt Nam. Vào những buổi
trưa vắng lặng hay những
đêm khuya yên tĩnh, cùng
với tiếng vơng đưa,
giọng hát ầu ơ, ạ ờ dịu
dàng, tŕu mến của bà,
của mẹ, của chị vang măi
trong ḷng đứa trẻ ấu
thơ. Tiếng vơng đưa kẽo
kẹt đều đều cùng với
tiếng hát đă văng vẳng
từ bao thề hệ trên đất
nước Việt Nam theo ḍng
sinh mệnh của dân tộc.
Trải qua bao nhiêu thế
hệ, trong mọi gia đ́nh,
nghèo cũng như giàu, cái
nhịp đều đều của tiếng
vơng đưa không bao gời
dứt. Không có người Việt
Nam nào không từng hơn một lần nằm vơng và tiếng vơng đưa ḥa cùng tiếng trẻ khóc, tiếng hát ru đă trở thành điệu nhạc muôn đời của dân tộc ta.
Thấm
thóat, em bé gái Việt
Nam nho nhỏ ngày nào nay
đă lớn dần và có thể
giúp đỡ mẹ những công
việc lặt vặt. Một đôi
khi lầm lỗi trong công
việc bị mẹ quở mắng hay
đánh đ̣n, em không bao
giờ dám oán trách mẹ.
Nếu bị quở mắng th́ nhỏ
nhẹ rằng:
Mẹ ơi
đừng mắng con hoài,
Để con bẻ lựu, hái xoài mẹ ăn.
C̣n nếu
bị đánh đ̣n, nàng chỉ
thỏ thẻ:
Mẹ ơi
đừng đánh con đau,
Để con bắt ốc, hái rau mẹ nhờ.
Theo thời
gian, cô bé Việt Nam bây
giờ đă trở thành thiếu
nữ dậy th́, trước khi
lấy chồng, một đôi lúc
ngồi nh́n những hạt mưa
rơi, nàng nghĩ vẩn vơ:
Thân
em như hạt mưa rào,
Hạt sa xuống giếng, hạt vào vườn hoa. Hay bâng khuâng tự hỏi: Thân em như tấm lụa đào, Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai. Ngồi cành trúc, tựa cành mai, Đông đào, tây liễu biết ai bạn cùng?
Đến tuổi
dậy th́, phụ nữ Việt Nam
trổ mă, đẹp dần lên. Mỗi
nàng một vẻ đẹp riêng,
người th́ đẹp qua đôi
mắt, người khác đẹp ở
mái tóc, có cô đẹp qua
nụ cười, cô khác đẹp
bằng hai má lúm đồng
tiền, có người đẹp với
chiếc eo thon thon, dáng
đi yểu điệu, có người
đẹp trừu tượng qua tâm
hồn... Tóm lại, mỗi
người một vẻ để làm rung
động hay làm xao xuyến
con tim của người khác
phái.
Những phụ
nữ có đôi mắt lá răm,
lông mày lá liễu được ca
dao khen rằng:
Những
người con mắt lá răm,
Lông mày lá liễu đáng trăm quan tiền.
Hay những
người có làn da trắng
nơn, má lại hồng hồng,
môi đỏ thắm:
Ai
xui má đỏ, môi hồng,
Để anh nhác thấy đem ḷng thương yêu.
Đă đẹp
mặt mà c̣n đẹp về vóc
dáng nữa th́ “chim phải
sa, cà phải lặn” cho nên
những phụ nữ có chiếc eo
thon thon:
Những người thắt đáy lưng ong, Đă khéo chiều chồng lại khéo nuôi con.
Mái tóc
cũng đóng vai tṛ quan
trọng trong việc trang
điểm vẻ đẹp của người
phụ nữ Việt Nam:
Tóc em dài em cài bông hoa lư, Miệng em cười anh để ư anh thương.
Mái tóc
dài, đẹp c̣n làm xao
xuyến ḷng người:
Tóc đến lưng vừa chừng em bới, Để chi dài bối rối dạ anh.
Nụ cười
là nét duyên dáng, nét
quyến rũ của người phụ
nữ. Từ xưa cho đến nay
có rất nhiều đàn ông đă
chết v́ nụ cười của phái
đẹp:
Trăng rằm mười sáu trăng nghiêng, Thương em chúm chím cười duyên một ḿnh.
Cũng thế,
ta thường nghe ai đó
ngâm hai câu ca dao:
Nàng về nàng nhớ ta chăng, Nàng về ta nhớ hàm răng nàng cười.
Và ca dao
cũng không quên ca tụng
nét đẹp tâm hồn của phụ
nữ Việt Nam:
Chim khôn hót tiếng rảnh rang, Người khôn ăn nói dịu dàng dễ thương.
Phụ nữ
Việt Nam vốn cháu con
Quốc Mẫu Âu Cơ, ḍng dơi
tiên nên nhu ḿ, thùy mị
được tiếng là đẹp, rất
đẹp, nhất là trong chiếc
áo dài tha thướt với
vành nón lá che nghiêng
nghiêng mái tóc xơa bờ
vai. Có biết bao nhiêu
chàng trai đă trồng cây
si ở cổng trường Trưng
Vương, Gia Long, Đồng
Khánh, Sương Nguyệt Ánh,
Bùi Thị Xuân... v́ những
tà áo dài thướt tha nầy
và mái trường đă từng là
chứng nhân của những mối
t́nh đẹp tựa bài thơ,
đẹp như đêm trăng huyền
ảo. Trước cái đẹp của
phụ nữ Việt Nam, mấy ai
thuộc phái nam đă không
từng cất giấu trong tim
một bóng hồng của thời
yêu thương ướt át:
Một
thương tóc bỏ đuôi gà,
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên. Ba thương má lúm đồng tiền, Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua. Năm thương cổ yếm đeo bùa, Sáu thương nón thượng quai tua dịu dàng. Bảy thương nết ở khôn ngoan, Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh. Chín thương em ở một ḿnh, Mười thương con mắt đưa t́nh với anh.
Nét đẹp
của phụ nữ Việt Nam c̣n
làm cho trái tim nhà vua
đập sai nhịp v́ bị
“tiếng sét ái t́nh”:
Kim Luông có gái mỹ miều, Trẫm thương, trẫm nhớ, trẫm liều, trẫm đi..
Dân tộc
Việt Nam là dân tộc hiền
hậu, hiếu ḥa, cần cù
nhẫn nại lại trọng đạo
lư cho nên khi con cái
vừa lớn khôn th́ được
gia đ́nh, nhà trường, xă
hội dạy những bài học
luân lư về cung cách ở
đời, ăn ở có nhân có
nghĩa theo đạo lư làm
người và phụ nữ Việt Nam
cũng được giáo huấn:
Con ơi mẹ bảo con này, Học buôn, học bán cho tày người ta. Con đừng học thói điêu ngoa, Họ hàng ghét bỏ, người ta chê cười.
Nhờ được
giáo huấn cho nên phụ nữ
Việt Nam đoan trang,
thùy mị, nết na:
Sáng nay tôi đi hái dâu, Gặp hai anh ấy ngồi câu thạch bàn. Hai anh đứng dậy hỏi han, Hỏi rằng cô ấy vội vàng đi đâu? Thưa rằng tôi đi hái dâu, Hai anh mở túi đưa trầu mời ăn. Thưa rằng bác mẹ tôi răn, Làm thân con gái chớ ăn trầu người. Và xa hơn nữa: Ở nhà c̣n mẹ, c̣n cha, Lẽ đâu tôi dám nguyệt hoa cùng người.
Phụ nữ
Việt Nam khi đến tuổi
bước vào con đường yêu
đương th́ yêu nhẹ nhàng,
kín đáo. Nhẹ nhàng đến
nỗi t́nh yêu của nàng
len lén len lỏi vào tim
hồi nào mà chàng trai
không hay:
Vói tay ngắt lấy cọng ng̣, Thương anh muốn chết giả đ̣ ngó lơ.
E thẹn,
giả đ̣ ngó lơ, len lén
ngó mà không dám ngó lâu
là những cử chỉ yêu
đương nhẹ nhàng, kín đáo
rất dễ thương của người
phụ nữ Việt Nam:
Ngó anh không dám ngó lâu, Ngó qua một chút đỡ sầu mà thôi.
Nhưng khi
đă yêu th́ phụ nữ Việt
Nam yêu một cách đứng
đắn, yêu đậm đà, tha
thiết với tất cả con tim
ḿnh:
Qua đ́nh ghé nón trông đ́nh, Đ́nh bao nhiêu ngói, thương ḿnh bấy nhiêu. T́nh yêu của nàng c̣n sâu đậm hơn nữa: Yêu chàng lắm lắm chàng ôi, Biết đâu thanh vắng mà ngồi thở than.
Khi yêu,
ngoài t́nh yêu đậm đà,
tha thiết, phụ nữ Việt
Nam lại c̣n chung t́nh:
Bao giờ cạn lạch Đồng Nai, Nát chùa Thiên Mụ mới phai lời nguyền. Và chung t́nh cho đến chết vẫn c̣n chung t́nh: Hồng Hà nước đỏ như son, Chết th́ chịu chết, sống c̣n yêu anh.
Trước khi
lấy chồng, phụ nữ Việt
Nam cũng có thừa thông
minh để lựa chọn ư trung
nhân:
Lấy chồng cho đáng tấm chồng, Bơ công trang điểm má hồng lâu nay.
Hay mượn
những vần ca dao nhắn
nhủ với giới mày râu
rằng muốn kết duyên vợ
chồng, gá nghĩa trăm năm
với phụ nữ Việt Nam th́:
Đèn Sài G̣n ngọn xanh, ngọn đỏ, Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ, ngọn lu. Anh về học lấy chữ nhu, Chín trăng em đợi, mười thu em chờ.
Đến ngày
bước lên xe hoa về nhà
chồng, phụ nữ Việt Nam
không quên lạy tạ ơn
sinh thành của cha mẹ:
Lạy cha ba lạy, một qú, Lạy mẹ bốn lạy, con đi lấy chồng.
Khi cất
bước ra đi về làm dâu
nhà chồng, một lần cuối
nàng cố ghi lại những kỷ
niệm của thời thơ ấu vào
tâm khảm:
Ra đi ngó trước, ngó sau, Ngó nhà mấy cột, ngó cau mấy buồng.
Rồi lúc
đă có chồng, người phụ
nữ Việt Nam luôn luôn
tâm niệm:
Chưa chồng đi dọc, đi ngang, Có chồng cứ thẳng một đàng mà đi.
Hay:
Đă thành gia thất th́ thôi, Đèo ḅng chi lắm tội Trời ai mang.
Lấy chồng,
người phụ nữ Việt Nam
đẹp duyên cùng chồng:
Trầu vàng ăn với cau xanh, Duyên em sánh với t́nh anh tuyệt vời.
Và có
h́nh ảnh nào đẹp hơn vợ
chồng hạnh phúc trong
cảnh thanh bần:
Râu tôm nấu với ruột bầu, Chồng chan, vợ húp gật đầu khen ngon.
Dù nghèo,
thanh bần nhưng phụ nữ
Việt Nam học theo triết
lư an phận, vẫn chung
t́nh với chồng, không
đứng núi nầy trông núi
nọ:
Chồng ta áo rách ta thương, Chồng người áo gấm, xông hương mặc người.
Tinh thần
chịu khó, chịu cực và
khuyến khích chồng ăn
học cho thành tài được
diễn đạt qua những vần
cao dao làm nổi bật đức
tính hy sinh của phụ nữ
Việt Nam:
Canh một dọn cửa, dọn nhà. Canh hai dệt cửi, canh ba đi nằm. Canh tư bước sang canh năm, Anh ơi dậy học chớ nằm làm chi. Mốt mai chúa mở khoa thi, Bảng vàng chói lọi kia đề tên anh. Bơ công cha mẹ sắm sanh, Sắm nghiên, sắm bút cho anh học hành.
Đă có
chồng con, người phụ nữ
Việt Nam lại càng đảm
đang, vừa lo cho con vừa
lo toan mọi công việc
nhà chồng:
Có con phải khổ v́ con, Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng.
Hoặc:
Có con phải khổ v́ con, Có chồng phải ngậm bồ ḥn đắng cay.
Có con,
người phụ nữ Việt Nam
lại gánh thêm trách
nhiệm làm mẹ với t́nh
mẫu tử thiêng liêng:
Gió mùa thu mẹ ru con ngủ, Năm canh chầy thức đủ năm canh.
T́nh mẫu
tử của những bà mẹ Việt
Nam bao la như trời bể,
luôn luôn bảo bọc, che
chở cho con:
Nuôi con chẳng quản chi thân, Chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo con lăn.
Ngoài ra,
phụ nữ Việt Nam c̣n phải
đối diện với cảnh làm
dâu nhà chồng. Trước đây,
xă hội ta đă quan niệm
sai lầm rằng người con
dâu phải phục vụ gia
đ́nh nhà chồng gần như
một người đầy tớ và một
số bà mẹ chồng rất khắc
nghiệt với nàng dâu gây
nên nhiều cảnh thương
tâm cho người phụ nữ
Việt Nam. Tự Lực Văn
Đoàn đă đưa ra nhiều
cuốn tiểu thuyết luận đề
để đả phá quan niệm sai
lầm nầy và ca dao ta
cũng lên tiếng thở than
dùm cho các nàng dâu
Việt Nam:
Làm dâu khổ lắm ai ơi, Vui chẳng dám cười, buồn chẳng dám than.
C̣n nếu
đất nước gặp thời chinh
chiến, người phụ nữ Việt
Nam không bịn rịn mà
hăng hái khuyến khích
chồng hành trang lên
đường trả nợ núi sông:
Anh đi em ở lại nhà, Hai vai gánh vác mẹ già, con thơ. Lầm than bao quản muối dưa, Anh đi anh liệu chen đua với đời.
Phụ nữ
Việt Nam, ngoài những
đức tính đảm đang, giàu
ḷng hy sinh, nết na,
thùy mị c̣n là người con
rất mực hiếu thảo:
Ơn cha nặng lắm ai ơi, Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang,
Ḷng nhớ
công ơn cha mẹ sinh
thành, nuôi dưỡng của
người phụ nữ Việt Nam
c̣n đươc diễn đạt qua
mấy câu:
Ân cha lành cao như núi Thái Đức mẹ hiền sâu tợ biển khơi. Dù cho dâng trọn một đời, Cũng không trả hết ân người sinh ta.
Những món
quà nho nhỏ như buồng
cau, đôi giày nhưng nói
lên ḷng hiếu thảo, ḷng
nhớ ơn công cha nghĩa mẹ
của người phụ nữ Việt
Nam:
Ai về tôi gởi buồng cau, Buồng trước kính mẹ, buồng sau kính thầy
Hay là:
Ai về tôi gởi đôi giày, Pḥng khi mưa gió để thầy mẹ đi.
Khi phải
đi xa hay lấy chồng xa,
người phụ nữ Việt Nam
luôn luôn tưởng nhớ về
mẹ cha:
Chiều chiều ra đứng ngơ sau, Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.
Phụ nữ
Việt Nam c̣n gắn liền
với dân tộc và lịch sử
v́ thế khi tổ quốc lâm
nguy, khi sơn hà nguy
biến người phụ nữ Việt
Nam hăng hái đưa vai
gánh vác giang sơn như
trường hợp Bà Trưng, Bà
Triệu và những vị anh
hùng liệt nữ khác.
Hai chị
em Bà Trưng là Trưng
Trắc và Trưng Nhị, quê
quán làng Cổ Lai, đất Mê
Linh. Lúc ấy nước nhà
đang bị người Tàu cai
trị bằng chính sách hà
khắc khiến dân ta vô
cùng khốn khổ. Rồi vào
năm 40, sau Tây Lịch,
Thái Thú Tô Định lại bắt
giết ông Thi Sách, chồng
Bà Trưng Trắc làm cho nợ
nước chồng chất thêm thù
nhà cho nên Bà Trưng
Trắc cùng em là Bà Trưng
Nhị đứng lên chiêu tập
binh mă, anh hùng hào
kiệt khắp nơi để đánh
đuổi quân xâm lăng bạo
tàn. Quân binh của Hai
Bà chiến đấu rất dũng
mănh, chiếm được 65
thành, đánh đuổi quân Tô
Định chạy về Tàu. Sau
khi đánh đuổi được quân
xâm lăng ra khỏi bờ cơi,
dân chúng tôn Bà Trưng
Trắc lên làm Nữ Vương, đóng đô ở Mê Linh. Đến năm 42, vua Tàu là Quang Vũ nhà Đông Hán sai Mă Viện kéo quân qua phục thù. Trước địch quân hùng hậu, quân ta chống cự không lại nên Hai Bà đă gieo ḿnh xuống gịng Hát Giang tuẫn tiết. Không có h́nh ảnh nào vừa hào hùng, vừa lăng mạn cho bằng h́nh ảnh của hai vị liệt nữ anh hùng gieo ḿnh xuống gịng nước trả nợ núi sông và để lại gương “Thiên thu thanh sử hữu anh thư”. Hai Bà Trưng làm vua được 3 năm, từ năm 40 đến năm 43. Khi vua Tự Đức đọc đoạn sử Hai Bà Trưng, ngài đă ngự phê: “Hai Bà Trưng thuộc phái quần thoa thế mà hăng hái quyết tâm khởi nghĩa làm chấn động cả triều đ́nh Hán. Dẫu rằng thế lực cô đơn, không gặp thời thế nhưng cũng đủ làm phấn khởi ḷng người, lưu danh sử sách”. Và Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca đă ghi lại công nghiệp của Hai Bà bằng những vần ca dao lịch sử: Bà Trưng quê ở Châu Phong, Giận người tham bạo, thù chồng chẳng quên. Chị em nặng một lời nguyền, Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân. Ngàn Tây nổi áng phong trần, Ầm ầm binh mă xuống gần Long Biên, Hồng quần nhẹ bước chinh yên, Đuổi ngay Tô Định, dẹp yên biên thành.
C̣n Bà
Triệu, tên thật là Triệu
Thị Trinh cùng anh là
Triệu Quốc Đạt khởi
nghĩa vào năm 248, sau
Tây Lịch để chống lại
quân xâm lăng Đông Ngô
của Tàu. Bà c̣n trẻ
nhưng rất can đảm, Bà
thường nói: “Tôi muốn
cỡi gió mạnh, đạp làn
sóng dữ, chém ḱnh ngư ở
biển đông, quét sạch bờ
cơi để cứu dân cứu nước
chứ không thèm bắt chước
người đời c̣ng lưng làm
t́ thiếp người ta”. Ra
trận Bà cỡi voi mặc giáp
vàng trông rất oai phong
làm quân Ngô khiếp sợ.
Nghĩa binh tôn Bà là
Nhụy Kiều Tướng Quân. Bà
Triệu đă anh dũng đền nợ
nước khi Bà mới có 23
tuổi:
Ru con, con ngủ cho lành, Để mẹ gánh nước rửa bành con voi. Muốn coi lên núi mà coi, Có Bà Triệu Tướng cỡi voi bành vàng.
Bà Trưng,
Bà Triệu là những bậc nữ
lưu anh hùng đầu tiên
trong lịch sử thế giới
nổi lên sớm nhất chống
ngoại xâm giành độc lập
cho dân tộc. Rất lâu về
sau nầy nước Pháp mới có
nữ anh hùng Jeanne D'
Arc nhưng sự nghiệp của
Bà Jeanne D' Arc cũng
không lẫm liệt bằng công
nghiệp to lớn, lẫy lừng
của Bà Trưng, Bà Triệu.
Thật xứng đáng:
Phấn
son tô điểm sơn hà,
Làm cho tỏ mặt đàn bà Việt Nam!
Mẹ tôi là
phụ nữ Việt Nam, tôi rất
hănh diện được làm một
người con của phụ nữ
Việt Nam. Tôi hết ḷng
kính yêu mẹ tôi và tôi
cũng hết ḷng kính mến
người phụ nữ Việt Nam
qua những cái đẹp và
những đức tính cao quư
của họ.
LÊ THƯƠNG
Richmond - Virginia |