|
-
Thân em...
-
-
Trải
qua bao năm tháng, ca dao vẫn là tiếng nói ân t́nh, thổ lộ những tâm
tư t́nh cảm của người b́nh dân xưa. Ca dao đă ăn sâu vào tâm hồn
người Việt – đặc biệt là mảng ca dao viết về đề tài thân phận người
phụ nữ trong xă hội cũ có rất nhiều câu ca dao bắt đầu bằng mô - típ
“Thân em...”.
-
Ở những câu, bài ca dao có
“Thân em...” mang nghĩa là thân phận, cuộc đời của người phụ nữ.
Những thân phận, cuộc đời này thường có số kiếp hẩm hiu, bạc bẽo. Đa
phần những câu ca dao với mô - típ này thường mang giai điệu buồn tẻ,
chán ngán, chỉ một số ít mang âm hưởng tươi tắn, lạc quan hơn. “Thân
em...” phản ảnh sự lệ thuộc, thể hiện nỗi đau của người phụ nữ trong
xă hội cũ:
-
“Thân em như thể bèo trôi
-
Sóng dập gió dồi biết tấp vào đâu”
-
-
“Thân em như miếng cau khô
-
Người thanh tham mỏng, người
thô tham dày”
-
Hay:
-
“Thân em như cá giữa rào
-
Kẻ chài, người lưới biết vào
tay ai ?”
-
-
Đối với bà con Nam bộ, họ lại lấy thứ
trái cây rất b́nh thường, dân dă để so sánh với “Thân em...”:
-
“Thân em như trái bần trôi
-
Sóng dập gió dồi biết tấp
vào đâu”
-
Ở
những câu ca dao này đă liên tưởng, thể hiện nỗi cảm thông sâu sắc
đối với thân phận người phụ nữ. Cuộc đời người phụ nữ xưa kia bị lệ
thuộc, ràng buộc bằng nhiều sợi dây, hữu h́nh và vô h́nh, khiến họ
không thể vươn lên:
-
“Thân em như cá vô lờ
-
Mắc hom chật hẹp biết bao
giờ mới lộn ra”
-
-
Những câu ca dao mở đầu bằng
yếu tố “Thân em...”, người b́nh dân c̣n muốn thể hiện nỗi đau khổ,
bất hạnh của người phụ nữ khó có thể giăi bày trong xă hội đương
thời. Họ phải gửi gắm ḷng ḿnh qua những câu ca dao thật khắc
khoải:
-
“Thân em như lá đài bi
-
Ngày th́ dăi nắng, đêm th́
dầm sương”
-
Và:
-
Thân em như giẻ chùi chân
-
Chùi rồi lại vứt ra sân...”
-
Nỗi đau ấy đâu phải ai ai
cũng thấu hiểu cho họ, lắm lúc bề ngoài trông họ tươi tắn mà ruột
gan rối bời:
-
“Thân em như cây sầu đâu
-
Ngoài tươi trong héo, giữa
sầu tương tư”
-
Thật là nỗi sầu trăm mối!
Dẫu trải qua bao giông tố cuộc đời, số kiếp có bạc bẽo đến đâu th́
người phụ nữ vẫn vẹn toàn đức hạnh. Họ vẫn son sắt, dào dạt t́nh
thương:
-
“Thân em như cam quưt bưởi
ḅng
-
Ngoài tuy cay đắng trong ḷng ngọt
ngon”
-
“Thân em như cây quế trên non
-
Trăm năm khô rụi vỏ c̣n dính
cây”
-
-
Hơn hết, họ vẫn muốn khẳng
định giá trị và sự cần thiết của ḿnh:
-
“Thân em như cây cải mùa
đông
-
Non th́ làm ghém, có ngồng
làm dưa”
-
-
Thế mới biết, người phụ nữ
Việt Nam dù trong khó khăn, thử thách họ vẫn thể hiện bản lĩnh. Tác
giả b́nh dân đă tự hào ca ngợi vẻ đẹp cả h́nh thức lẫn tâm hồn của
người phụ nữ, thể hiện giá trị vốn có của họ:
-
“Thân em như chim phượng
hoàng
-
Khi bay qua bể, khi đậu ngàn sơn
lâm”
-
“Thân em như thể chuông vàng
-
Ở trong thành nội có một
ngàn quân lính hầu”
-
Quả vậy, “Thân em...” thật
đẹp đẽ và cao quư lắm thay:
-
“Thân em như cá hóa long
-
Chín tầng mây phủ, ở trong
da trời”
-
Cũng liên tưởng đến “tấm lụa
đào” nhưng lắm khi họ không phải bị cảnh “phất phơ giữa chợ” mặc cho
thiên hạ kẻ bán người mua, nhưng họ đă biết khẳng định ḿnh:
-
“Thân em như tấm lụa đào
-
Đă đông nơi chuộng lại nhiều nơi ưa”.
-
Người phụ nữ Việt Nam thật đáng yêu, không phải họ chỉ đẹp bằng h́nh
ảnh khăn nhung, mỏ quạ của xứ kinh kỳ, bằng chiếc nón lá rất
Huế hay bằng một chiếc áo bà ba dịu dàng Nam bộ mà họ c̣n đẹp
về tâm hồn và phẩm hạnh. Quả thật, họ như bông sen mọc giữa đầm lầy,
đậm sắc và ngát hương.
-
Những câu ca dao bắt đầu mô-típ “Thân em...” c̣n thể hiện nỗi khát
khao về một t́nh yêu đẹp, một cuộc hôn nhân hạnh phúc. Bởi thế,
những người phụ nữ thật dịu dàng và nhu ḿ trong trường liên tưởng:
-
“Thân em như trến mít chạm rồng
-
Thân anh như kèo chua chạm
phụng, đẹp vô cùng anh ơi!”
-
Thật đẹp đôi và hạnh phúc biết bao!
-
Người b́nh dân c̣n hào sảng đặt thân phận người phụ nữ một địa vị
cao hơn, hơn cả “Thân anh”. Thậm chí, nhiều câu ca dao phủ định vai
tṛ tối thượng của người đàn ông trong xă hội cũ; qua đó thể hiện sự
phản kháng, vùng dậy của nữ giới. Họ cũng có nhu cầu được hạnh phúc,
được là chính ḿnh. Bởi thế lắm lúc họ ngang nhiên thách thức:
-
“Thân em như thể xuyến vàng
-
Thân anh như manh chiếu rách bạn
hàng bỏ quên”
-
“Thân em như hột gạo lắc trên sàng
-
Thân anh như hột lúa lép
giữa đàng gà bươi”
-
Vậy
mới biết, “Thân em...” cũng có ba bảy kiểu, đâu chỉ biết buông xuôi
cam chịu!
-
Đa
phần những câu, bài ca dao này được làm bằng thể thơ lục bát, một số
ít được làm theo thể song thất lục bát. Tuy nhiên, về h́nh thức thể
hiện, theo khảo sát của chúng tôi có gần 30% câu, bài ca dao làm
theo thể lục bát biến thể. Điều này minh chứng cho bản tính phóng
khoáng, nghĩ sao viết vậy, không e dè câu chữ của người b́nh dân.
Chính đặc điểm này đă để lại dấu ấn rất riêng, rất dân tộc. Do thể
thơ lục bát có tính hàm súc, biểu cảm cao và dễ thuộc, dễ hiểu nên
hiệu quả của việc thể hiện nội dung rất lớn.
-
Dân
gian thường dùng những từ ngữ rất b́nh dân, mang đậm phong cách khẩu
ngữ, bên cạnh đó là lớp từ địa phương: đọi, vô,... hay từ láy: lắc
lẻo, dập dồi, đứt đoác... Từ những sự vật, h́nh ảnh cụ thể, rất thực,
người b́nh dân xưa đă thổi hồn vào nó, mang đến cho người đọc những
ư nghĩa rất sâu sắc, nhân văn, thể hiện tâm hồn nghĩa t́nh của người
dân Việt.
-
Một
thành công rất đáng trân trọng của những câu ca dao loại này là sử
dụng biện pháp tu từ so sánh. Người b́nh dân thường sử dụng những
h́nh ảnh rất đa dạng, phong phú nhưng đều rất quen thuộc với đời
sống nông thôn: cá vô lờ, chẽn lúa đ̣ng đ̣ng, trái bần,... Những
h́nh ảnh, sự vật này người ta đă biết rơ đặc điểm, thuộc tính cơ bản
của chúng, nhờ vậy người đọc rất dễ h́nh dung và nhận biết.
-
Những bà mẹ- người nghệ sĩ của t́nh thương đă ngân lên những giai
điệu hát ru đẹp và ngọt ngào bằng chính những câu ca dao. Thật vậy,
ca dao đă đi sâu vào tiềm thức và tâm hồn của người b́nh dân. Bằng
những câu ca dao với mô-típ “Thân em...”, dân gian đă thốt lên những
tiếng đời than thân, trách phận. Bên cạnh đó họ c̣n thể hiện thái độ
phản kháng, đấu tranh cho quyền lợi của người phụ nữ, làm giàu thêm
cho ca dao người Việt.
- Đặng Duy Khôi
|