|
Tính cách
Nam bộ qua biểu trưng ca dao Trần Văn Nam Biểu trưng nói một cách đơn giản là dùng cái A để nói cái
B. Chẳng hạn, cặp biểu trưng "cá chậu - chim lồng" biểu trưng cho cảnh
tù túng của một ai đó, trong ca dao thường có biểu trưng cho người con
gái có chồng (mà không hạnh phúc).
Biểu trưng bao giờ cũng gắn với văn hóa tộc người và vùng đất bởi quá
tŕnh biểu trưng hóa (quá tŕnh liên tưởng so sánh giữa cái biểu đạt và
cái được biểu đạt) bị sự chi phối của môi trường tự nhiên và hoàn cảnh
xă hội. Xuất phát từ luận điểm này, chúng tôi t́m hiểu tính cách người
Việt Nam bộ qua các biểu trưng ca dao.
Biểu trưng với tinh thần trọng nghĩa khinh tài
Trọng nghĩa là tinh thần của những con người nghĩa khí, những con người
sẵn sàng xả thân ḿnh để cứu người, để làm những việc mà họ cho là hợp
với đạo lư và ḷng trung thành. Lục Vân Tiên, Hớn Minh của Nguyễn Đ́nh
Chiểu cũng là những nhân vật được xây dựng trên tinh thần "Nhớ câu kiến
nghĩa bất vi, làm người thế ấy cũng phi anh hùng". Tác giả ca dao Nam bộ
thường xuyên nói về chữ nghĩa cũng trên tinh thần đó. Trọng nghĩa là
thái độ ứng xử của người Việt Nam nói chung chứ không riêng của người
Việt Nam bộ. Có điều, đây là một nét trội trong tính cách của người dân
vùng đất mới. Họ vốn là những lưu dân đi t́m sự sống trong muôn ngàn cái
chết. Qua nhiều lần thoát hiểm nhờ sự liên kết, nhờ tinh thần hoạn nạn
tương cứu, sanh tử bất ly, họ càng thấm thía thế nào là t́nh huynh đệ
hào hiệp. Trọng nghĩa gắn với khinh tài. Nếu người xưa đă từng cay đắng
nhận rằng "nén bạc đâm toạc tờ giấy" hoặc chua chát "có tiền mua tiên
cũng được" th́ tác giả ca dao Nam bộ khẳng định:
Tiền tài như phấn thổ, Nghĩa trọng tợ thiên kim
Con le le mấy thuở chết ch́m Người bạc t́nh bạc nghĩa kiếm t́m làm chi.
Phấn thổ (bụi đất) và thiên kim (ngàn vàng) trong bài ca dao mang ư
nghĩa biểu trưng. Sự đối lập của hai h́nh ảnh nầy chính là sự đối lập
giữa cái tầm thường và cái cao quí. Nếu có cái gọi là bên trọng bên
khinh th́ nghĩa là bên trọng, tiền tài là bên khinh. Bài ca trên c̣n một
dị bản như là bằng chứng về sự phổ biến của thái độ trọng nghĩa khinh
tài:
Tiền tài như phấn thổ, Nhân nghĩa tựa thiên kim
Đứt dây nên gỗ mới ch́m Người bất nhân bất nghĩa kiếm t́m làm chi.
Biểu trưng vàng trong bài ca trên đă từng được tác giả ca dao Nam bộ sử
dụng. Nghĩa khái quát nhất, tập trung nhất của vàng là biểu trưng cho
cái quư giá. Đó là cái quư giá về vật chất, quư giá về tinh thần và con
người quư giá. Vàng trong ḷng vàng biểu trưng cho ḷng chung thủy trong
t́nh yêu:
Bướm ong bay lượn rộn ràng,
Em nguyền giữ tấm ḷng vàng với anh.
Trong ca dao Nam bộ, vàng thường xuất hiện với đá cùng với cách nói
nghĩa đá vàng. Ở đây tác giả dân gian không nhầm so sánh giá trị hơn kém
giữa chúng mà hướng tới đặc điểm chung của hai loại chất. Đá và vàng đều
có khả năng tồn tại lâu dài, bền vững cho nên chúng biểu trưng cho nghĩa
sắt son:
Ví dầu nước chảy đá ṃn,
Xa nhau ngh́n dặm ḷng c̣n nhớ thương.
Người nghĩa khí một mặt sẵn sàng xả thân v́ nghĩa xem tiền tài như cỏ
rác, một mặt chấp nhận cảnh sống bần hàn để giữ tṛn đạo nghĩa qua h́nh
ảnh biểu trưng của hai đại đệ tử Khổng giáo, Tăng Sâm và Tử Lộ:
Anh tỉ phận anh Thà ở lều tranh Như thầy Tăng, thầy Lộ,
Chớ không ham mộ Của Vương Khải, Thạch Sùng,
Đạo người anh giữ vẹn, bần cùng sá bao.
Ca dao Bắc bộ (ca dao các vùng khác nói chung) không thiếu những bài nói
về t́nh nghĩa, nghĩa bạn bè, nghĩa đồng bào, t́nh nghĩa lứa đôi... với
những h́nh ảnh biểu trưng như bầu bí, nhiễu điều - giá gương... bằng một
giọng điệu nhẹ nhàng:
Bầu ơi, thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn. (Ca dao Bắc bộ)
Ca dao Nam bộ cũng với tinh thần trọng nghĩa ấy nhưng được thể hiện bằng
t́nh huống và thái độ mạnh mẽ với biểu trưng sống qua h́nh ảnh ruột thắt
gan bào:
Ngó lên trời mây bay vần vũ, Ngó xuống âm phủ đủ mặt bá quan,
Ngó lên Nam Vang thấy cây trăm thước, Nh́n sông Trước thấy sóng bủa lao xao,
Anh thương em ruột thắt gan bào, Biết em có thương lại chút nào hay không?
Đạo nghĩa hay điệu nghệ là luật lệ riêng của lưu dân thời kỳ khai hoang,
những người bị giai cấp cầm quyền coi là kẻ tiểu nhân dốt nát. Lưu dân
thú nhận sự dốt nát của họ bằng thái độ tự tôn. Họ bất cần bọn quan lại
và luật lệ của chúng, để rồi hướng tới tinh thần điệu nghệ. Điệu (đạo),
là ḷng từ bi bác ái, t́nh nghĩa giữa con người, Nghệ (nghĩa) là nghĩa
khí, không lợi dụng quyền thế lấn áp kẻ yếu, không hại kẻ thất thế, ăn ở
thủy chung, kết giao không tính toán thiệt hơn, dám liều thân giúp người...
Quan niệm điệu nghệ tạo nên một kiểu anh hùng, một kiểu quân tử b́nh dân.
Biểu trưng chim quyên, một biểu trưng riêng của ca dao phương Nam, là
h́nh ảnh của kiểu quân tử b́nh dân đó:
Chim quyên xuống đất ăn trùn Anh hùng lỡ vận lên rừng đốt than.
Chính quan niệm điệu nghệ đề cao con người không phải ở tiền bạc, địa vị,
ḍng dơi mà ở thái độ sống tích cực, sống có nghĩa khí, sống với tinh
thần: "bần tiện chi giao mạc khả vong, lâm nguy bất cứu mạc anh hùng".
Quan niệm điệu nghệ cho người ta luôn luôn mở rộng cửa đón tiếp mọi
người không phân biệt tốt xấu giàu nghèo trong quá khứ. Nếu biết điệu
nghệ th́ mọi việc có thể giải quyết trong t́nh anh em không cần đến pháp
luật và quan lại: Đấng trượng phu đừng thù mới đáng, đấng anh hùng đừng
oán mới hay.
Cuối cùng, người nghĩa vẫn là những con người b́nh dị qua h́nh ảnh "con
chim nho nhỏ" trong ca dao Nam bộ. Công thức "con chim nho nhỏ" thường
mở đầu cho lời khuyên nhủ, mong ước. Lời khuyên nhủ thường phải là lời
của một ai đó cho nên h́nh ảnh trên biểu trưng cho con người biết trân
trọng, giữ ǵn đạo lư:
Con chim nho nhỏ,
Cái lông nó đỏ, Cái mỏ nó vàng, Nó kêu người ở trong làng,
Đừng ham lănh lụa phụ phàng vải bô.
Biểu trưng với tính cách ngang tàng
ảnh Trương Công Khả
Lối sống ngang tàng là hệ quả của tinh thần nghĩa khí hào hiệp trong con
người Nam bộ. Những con người tứ chiếng từ những huyện phủ khác nhau về
vùng đất mới mang trong ḿnh nhiều chất phản kháng, ít chịu sự ràng buộc
của lễ giáo, không bao giờ bị khuất phục. Họ chấp nhận mọi hiểm nguy,
mọi thử thách (nắng mai - mưa chiều) thậm chí trong những hoàn cảnh nhất
định, họ đă phải liều:
Ra đi là sự đánh liều,
Nắng mai không biết, mưa chiều không hay.
Cho dù phải luôn luôn đối mặt với t́nh huống khó khăn kiểu nắng mai -
mưa chiều, người Nam bộ vẫn muốn khám phá cuộc sống bất chấp non cao
sông sâu:
Lên non mới biết non cao, Xuống sông mới biết chỗ nào cạn sâu.
Con người Nam bộ ngang tàng được thể hiện qua các biểu trưng chim, cây
là con người cứng cỏi giữa cuộc đời. Chim biểu trưng cho con người sống
giữa cuộc đời rộng lớn, đầy biến động. Đó là con người đi xa, người có
chí khí thường là người đàn ông. Đó là chim trong các h́nh ảnh cánh chim
hồng, chim khôn, chim kia sớt cá, chim trên rừng, chim bay về rừng, chim
bay, chim trời, cánh chim...
Bể sâu con cá vẫy vùng,
Trời cao muôn trượng, cánh chim hồng cao bay.
Cây cứng lá dai là khí phách của người không biết luồn cúi, không sợ uy
quyền:
Trời sinh cây cứng lá dai, Gió lay mặc gió chiều ai không chiều.
Ngang tàng có nghĩa là dám sống, sống hết ḿnh đúng với chính ḿnh, dám
tin vào chân lư cuộc sống, tin vào t́nh yêu như h́nh ảnh cây khô chết
đứng:
Cây khô chết đứng giữa trời,
Chết thời chịu chết không quên lời anh than.
Chấp nhận tất cả rủi ro trên con đường phiêu bạt, người Nam bộ coi nhẹ
tính mạng nên sống ngang tàng. Mặt khác, việc khai thác vùng đất mới đầy
gian khổ hiểm nguy cũng góp phần tôi luyện tính cách trên. Nhưng cần
phải thấy rằng, ngang tàng ở đây không phải là phá phách, là làm loạn.
Ngang tàng là một nét nhân cách Nam bộ, đó là những con người không chấp
nhận sống mà phải cầu xin, phải khuất phục trước bạo lực. Đó là những
con người vươn tới những điều to tát, không quan tâm đến những cái vụn
vặt. Có thể trong cuộc sống hiện đại, đây đó vẫn có những con người Nam
bộ tầm thường. Điều này không có ǵ lạ. Nhưng trong ca dao, người Nam bộ
hướng tới một cánh nhạn bay cao quí mà không thèm để ư đến chim sâu tầm
thường. Và nếu chàng trai nào chỉ muốn bắt chim sâu th́ sẽ bị chê cười:
B́nh tích thủy đựng bông hoa lư, Chén chung vàng đựng nhụy bông ngâu,
Trách ai làm trai hưu nhăn vô châu, Chim oanh không bắn, bắn con chim sâu đậu nhành tùng.
Lối sống ngang tàng gắn với một thái độ dứt khoát kiểu đă tṛn cho ra
tṛn, vuông cho ra vuông. Một số không ít ca dao Nam bộ biểu lộ thái độ
quyết liệt bằng các phân biệt rạch ṛi giữa đỏ và đen, giữa tốt với xấu
giữa Nguyệt Nga - Vân Tiên với cha con Bùi Kiệm:
Con rắn hổ nó mổ con rắn rồng, Tiền kẽm xỉa với tiền kẽm tiền đồng xỉa riêng.
Nguyệt Nga kết với Vân Tiên, Cha con Bùi Kiệm ngồi riêng một ḿnh.
Tóm lại, tính cách Nam bộ vẫn là tính cách Việt Nam, vẫn là những con
người yêu nước có tinh thần dân tộc đă từng dũng cảm chiến đấu chống
ngoại xâm... Ở đây chúng tôi chỉ nêu ra hai nét nổi trội của tính cách
người Việt Nam bộ được khắc họa trong ca dao.
TRẦN VĂN NAM |