|
Dân ca Nam bộ qua báo
chí hậu bán TK XX
Vietsciences- Vĩnh Phúc 05/04/2009
Những bài cùng tác giả
Nghiên cứu, phê b́nh, giới thiệu Dân ca Nam Bộ trong giai đoạn
này chúng tôi chỉ sưu tập được 15 bài, tuyển chọn và sử dụng 9 bài. Hầu
như đều nổi trội lên 2 thể loại chủ yếu là Ḥ và Lư, kể cả
những bài viết mang tính tổng quan về vùng dân ca này.
Sự thiên di của văn hóa nghệ thuật từ cội nguồn miền Bắc gắn
với lịch sử Nam tiến của dân tộc. Nam bộ, xét theo mối tương quan với
các vùng đất cũ trong tiến tŕnh phát triển mở mang bờ cơi của đât nước,
là một vùng đất mới. Văn hóa nghệ thuật Nam bộ, do đó không hẳn xuất
phát trực tiếp từ cội nguồn mà thông qua trạm trung chuyển là Thuận Hóa
xưa, nơi đă định h́nh một nền tảng văn hóa mới trên cơ sở hội nhập văn
hóa nghệ thuật thiên di của dân tộc với văn hóa bản địa. Hoặc nói như
Gs. Tô Vũ trong bài khảo cứu Âm nhạc cổ truyền Nam Bộ [1]:
" Âm nhạc Nam Bộ, là sự kế thừa truyền thống người Việt từ cái nôi
châu thổ sông Hồng, qua chuyển giao ở một khâu trung gian là âm nhạc
miền Ngũ Quảng, với trung tâm là Thừa Thiên - Huế”.
Hai thể loại dân ca tiêu biểu là Ḥ và Lư của Thuận Hóa xưa
theo bước chân của những người lưu dân cấy vào vùng đất mới này tỏ ra
hợp với "thổ nhưỡng", đă phát triển mạnh mẽ và phong phú hơn nhiều so
với cội nguồn thứ hai của nó là Thuận Hóa. Nguyễn Văn Hầu trong bài
nghiên cứu Ḥ miền Nam [2] cho là Ḥ từ miền Trung theo
đoàn người của Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh đi khai phá vùng đất mới.
Nhưng "tiếng ḥ ở đây không c̣n giống hệt tiếng ḥ ở chân đèo Hải Vân
hay trên ḍng sông Hương hôm nào nữa. Nó tha thiết năo nùng hơn. Giọng
ḥ miền Trung từ ấy v́ biến thái địa lư và hoàn cảnh kinh tế, dần dần
chuyển hóa, sai chạy...” Về thể loại Lư, nhạc sĩ Ngô Huỳnh trong bài
Dân ca Nam bộ, một kho tàng âm điệu dân gian phong phú
[3] cũng nhấn mạnh về sự phát triển này: " Từ bài Lư giao duyên của
vùng Trị Thiên, bài Lư giao duyên của Nam Bộ đă tiến lên trong một quá
tŕnh hoàn chỉnh hơn”.
Hai chuyên khảo về Ḥ sưu tập được đều không phải của giới
nghiên cứu âm nhạc, nhưng đây là những khảo cứu nghiêm túc về văn hóa
dân gian.
Nguyễn Văn Hầu trong Ḥ miền Nam đă cho thấy vị
trí quan trọng của Ḥ trong đời sống tinh thần của người dân miền Nam
trong buổi đầu đi khai phá. Tác giả tỏ ra là người rất sành ḥ
qua những tiếng dùng mà ông gọi là trong điệu nghệ ḥ, như:
bắt-bỏ, buông-đối, đứt-nối... Mặc dù công bố trên tạp chí năm 1962
nhưng văn phong vẫn nặng nề theo lối cổ, sử dụng nhiều từ Hán Việt. Đây
cũng là một đặc điểm trong các bài nghiên cứu ở miền Nam trước năm 1975;
trong lúc, cùng thời điểm, th́ văn phong nghiên cứu ở miền Bắc đă hiện
đại hơn nhiều.
Một vài suy nghĩ về Ḥ Nam Bộ của
Nguyễn Hữu Thu [4], rơ ràng là một khảo cứu đầy đặn về thể loại này. Mặc
dù vẫn là khảo cứu trên góc độ văn hóa dân gian, dân tộc học nhưng đă có
những dẫn chứng, thí dụ bằng bản kư âm ngũ tuyến. Đặc biệt, tác giả đă
dẫn ra 4 môtip điển h́nh quán xuyến trong Ḥ Nam Bộ mà theo ông,
như những cung bậc riêng để nói lên đặc điểm của ngôn ngữ địa phương
được phản ánh trong âm nhạc ḥ. Dù rằng, những môtip điển
h́nh ấy chỉ nêu mà không hề được lư giải triệt để theo hướng nghiên
cứu âm nhạc, nhưng cũng đă là một điều đáng quư trong lĩnh vực nghiên
cứu này.
Vấn đề xếp loại, hai tác giả Nguyễn Hữu Thu và Nguyễn Văn Hầu
không thống nhất về tiêu chí. Nguyễn Văn Hầu căn cứ vào cách sử dụng
văn chương, chia Ḥ Nam Bộ làm ba loại chính : Ḥ mép (hay ḥ
môi), Ḥ văn (hay ḥ sách) và Ḥ truyện. Nguyễn Hữu Thu th́ căn cứ
vào phương thức diễn xướng của nghệ thuật Ḥ mà chia
thành Ḥ mép và Ḥ huê t́nh. Riêng việc giải thích Ḥ
mái ba là 3 mái chèo th́ chưa thỏa đáng và không khác ǵ mấy
cách giải thích của Lê Văn Hảo về Ḥ mái nh́ B́nh-Trị-Thiên đă
nêu ở trước.
Nhạc sĩ Ngô Huỳnh và Trần Kiết Tường cũng có đề cập đến Ḥ
trong bài viết về dân ca Nam Bộ [5]. Mặc dù có một vài
nhận xét âm nhạc trong ḥ nhưng chưa thể là một bài nghiên cứu âm nhạc
mà chỉ dừng lại ở mức độ giới thiệu.
Tản mạn quanh những điệu Lư [6] là một khảo cứu
gọn gàng nhưng súc tích của Gs. Tô Vũ. Được biết đây chỉ là một bài
Tựa cho sưu tập 150 điệu Lư của 2 nhà nghiên cứu Lư Nhất Vũ
và Lê Giang nhưng rơ ràng đă vượt qua ranh giới của kiểu lời tựa thông
thường, mà trở thành một khảo cứu âm nhạc nghiêm túc, sắc sảo về thể Lư
Nam Bộ.
Ngoài việc phân tích giá trị nội dung nghệ thuật của Lư, ông đă
đưa ra những nhận xét quan trọng, chính xác về thể loại này như : "
Lư là một thể hát dân gian đă có từ cái nôi xa xưa của truyền thống dân
gian và được phát triển (rộng) ở miền Trung và (mạnh hoặc rất mạnh) ở
miền Nam". Tuy nhiên, nếu chỉ căn cứ vào các điệu hát Quan họ trong
khối giọng vặt, nơi mà theo tác giả cho là thuộc thể điệu
Lư để xác định Lư có từ cái nôi xa xưa của truyền thống, th́ có
phần chưa hết nhẽ. Bởi v́, theo các nhà nghiên cứu Quan họ và kể cả các
nghệ nhân Quan họ, th́ khối giọng vặt là những làn điệu được thu
nhận từ dân ca của các vùng miền ngoài Quan họ do nhu cầu về bài bản để
đối giọng trong các cuộc hát thi, mà trong đó có cả Lư của miền
Trung và miền Nam.
Có thể thấy thể loại Lư phát triển rất mạnh ở Nam Bộ qua bài
nghiên cứu: Đặc trưng nghệ thuật của dân ca Nam Bộ
của nhạc sĩ Lư Nhất Vũ [7]. V́ rằng trong 36 thí dụ dẫn chứng về đặc
điểm âm nhạc dân ca Nam Bộ th́ đă có 32 thí dụ là các điệu lư. Tất nhiên
không phải hoàn toàn v́ Lư có số lượng nhiều hơn hẳn các thể loại khác
mà v́ một lư do khác: Đó là sự hoàn chỉnh về âm nhạc của bản thân các
điệu Lư. Bởi vậy, nên các vấn đề tác giả đặt ra như nghệ thuật phổ
nhạc, phổ lời; các thủ pháp dân gian trong tiến hành giai
điệu; phương pháp phát triển chủ đề âm nhạc trong dân
ca Nam Bộ, chủ yếu là được nhặt ra từ các điệu Lư. Hoặc nói cách
khác, không thể loại nào đầy đủ để dẫn chứng cho các vấn đề trên bằng
thể loại Lư.
Đây là một bài nghiên cứu nghiêm túc, cẩn trọng, nhất là tác
giả là người đă thực sự tiếp cận tư liệu tại nơi sinh ra nó,
không thông qua những bản kư âm của người khác. (Điều này để nói rằng,
vẫn có một số người viết bài nghiên cứu về dân ca nhưng chẳng bao giờ
cần nghe, cần biết. Chỉ tập hợp qua sách báo, rồi tán !) Những nhận xét,
phân tích âm nhạc rơ ràng không quá lệ thuộc vào Lư thuyết Âm nhạc
cơ bản như một số bài nghiên cứu dân ca Nam Bộ thời kỳ trước đó.
Chẳng hạn: “Ḥ Đồng Tháp th́ kết ở một nốt thuộc “át âm”, nhưng trong
lúc ấy, tuy cùng một điệu thức “son”, nhưng ḥ Miền Đông...th́ lại dùng
nốt chủ âm để kết hoàn toàn” như trong bài Dân ca Nam Bộ một
kho tàng âm điệu dân gian phong phú của nhạc sĩ
Ngô Huỳnh.
Trong Một cách nghe, một cách hiểu bài dân ca Nam Bộ:
Lư ngựa ô [8] nhạc sĩ Tô Đông Hải "khuyến cáo" không nên
chỉ cảm thụ bài Lư ngựa ô qua dáng vẻ bên ngoài, là lời hát huênh hoang,
hợm hĩnh của một anh công tử nhà giầu; mà : toàn bộ vấn đề dường như
nằm ở một phía khác, mà người nghe chỉ có thể cảm nhận khi biết
“nghe” cả phần nhạc lẫn phần lời trong bài hát. Nhạc sĩ cho đây là
giấc mơ hạnh phúc của người nông dân ngày xưa tồn tại trong tâm tưởng
một chàng trai nghèo, nên khi nghe kết hợp cả lời ca và giai điệu mới
thấy nó mang một dư vị cay đắng, xót xa đến vậy. Bởi thế giai điệu bài
hát mới chứa đựng cả sự "gập ghềnh" trong tâm tư người nghe lẫn sự hài
hước đến chua xót...chứ không thấy sự hợm của hợm ḿnh như câu chữ ở
phần lời ca.
Những bài b́nh luận có giá trị như thế này không phải là nhiều.
Để khơi gợi và hướng người nghe tới những ư tưởng đẹp đẽ của dân ca bao
giờ cũng là việc làm cần thiết của những người nghiên cứu phê b́nh.
Nhưng đối với điệu Lư ngựa ô th́ xưa nay dường như mọi người đều
cảm nhận nó chứa đựng một tinh thần lạc quan yêu đời của người nông dân
trên bước đường đi mở cơi, chứ chưa bao giờ cho đó là lời lẽ hợm hĩnh
của một cậu công tử nào đó. Hơn nữa, với đường nét giai điệu đẹp như của
Lư ngựa ô th́ khó ḷng buộc mọi người cảm nhận cái dư vị cay đắng,
xót xa và sự gập ghềnh trong tâm tư lẫn sự hài hước đến chua xót
được ! Đến như điệu Lư ngựa ô xứ Huế, một vùng dân ca được xem là thấm
đẫm chất buồn thương mà điệu Lư này vẫn phơi phới tính chất lạc quan,
duyên dáng và trữ t́nh.
Vấn đề Điệu thức trong dân ca Nam Bộ [9] đă được
nhạc sĩ Ngô Đông Hải đề cập dưới h́nh thức một chuyên khảo từ năm 1965.
Trong hoàn cảnh đất nước c̣n bị chia cắt, nguồn tư liệu về dân ca chủ
yếu là từ các cán bộ, bộ đội Nam Bộ tập kết ra Bắc mà tác giả đă hoàn
thành và công bố một chuyên khảo nghiêm túc, khoa học về điệu thức quả
là một sự nổ lực vượt bậc.
Có thể nói một số kết quả nghiên cứu trong chuyên khảo này đến
nay vẫn c̣n nguyên giá trị về mặt học thuật. Ít nhất là trong phương
pháp, cách nh́n nhận về tính đặc thù trong truyền thống âm nhạc dân gian
của mỗi vùng, miền; không quy đồng toàn bộ dân ca Việt Nam vào hệ thống
thang 5 âm không bán cung. V́ như thế thang 5 âm nào cũng đều là dân
tộc, đều là Việt Nam cả. Chẳng hạn, trong mục II, mà tác giả gọi là
Điệu thức 5 âm đặc biệt có thể đă làm tiền đề cho cách đặt vấn đề
trong các khảo cứu về thang âm một số tác giả thời kỳ sau này, như
Oán 1, Oán 2 ...rất đặc trưng của âm nhạc cổ truyền Nam Bộ.
Tuy nhiên, nếu cứ chuyên chú xem xét, phân tích trên cơ sở dạng
thang âm điệu thức được tác giả tạm gọi là 5 âm đặc biệt
th́ giá trị khoa học của chuyên khảo càng cao hơn. Bởi v́ trong mục I,
dù gọi là Điệu thức 5 âm không bán cung trong dân ca Nam Bộ
và phân chia thành thành 5 dạng từ Điệu thức I đến Điệu thức V
th́ thực chất vẫn là xem xét trên hệ thống 5 âm Trung Hoa; dù gọi thế
nào th́ sự sắp xếp thứ tự trong chuyên khảo cũng vẫn là: Điệu thức I
= Chủy; Điệu thức II = Vũ; Điệu thức III = Cung; Điệu
thức IV = Thương; Điệu thức V = Giốc. Như vậy, nội dung của
mục I và mục II đă tạo ra sự không nhất quán trong cách thức lựa chọn
phương pháp khảo cứu, nếu không muốn nói là có thể bị hiểu khác đi: cái
chính trở thành cái phụ; cái tất nhiên trở thành cái ngẫu nhiên, ngoại
lệ, mà c̣n làm rối rắm thêm cho phần cuối, phần C: Sự kết hợp điệu
thức trong dân ca Nam Bộ; là nơi tỏ ra tác giả đă bỏ nhiều tâm huyết
để hệ thống, phân tích một cách công phu, cẩn trọng. Với nhăn quan ngày
nay có thể c̣n nhiều vấn đề cần luận bàn, nhưng giữa thời điểm năm 1965
mà một tiểu luận khoa học âm nhạc được công bố như Điệu thức
trong dân ca Nam Bộ th́ không phải là nhiều.
TẠM KẾT
Do điều kiện, hoàn cảnh của nước ta trong giai đoạn này, nhất
là từ những năm 50 đến 70, đội ngũ nghiên cứu lư luận âm nhạc đang từ
không có đến có với số lượng chỉ như đếm đầu ngón tay. Các bài viết về
dân ca Việt Nam đa phần do các tác giả là nhà nghiên cứu văn hóa dân
gian, dân tộc học sưu tầm nghiên cứu, dù sâu sắc về lịch sử, tổ chức xă
hội, đời sống vật chất và phong tục, tín ngưỡng, tôn giáo...nhưng lại
thiếu yếu tố âm nhạc học. Tuy vậy, các khảo cứu trên lĩnh vực này đă góp
phần không nhỏ cho lĩnh vực nghiên cứu âm nhạc dân tộc (và sau này là
dân tộc nhạc học). Đó là tạo tiền đề, cơ sở, tư liệu và kể cả cảm hứng,
hứng thú cho các nghiên cứu âm nhạc học về sau.
Trong lĩnh vực nghiên cứu âm nhạc, ngoài một số nghiên cứu có
giá trị nhưng khá hiếm hoi của các nhạc sĩ tên tuổi, c̣n lại phần nhiều
là các bài viết nặng về sưu tầm, giới thiệu mang tính chất điểm mặt
một số thể loại dân ca của một số địa phương hoặc như một báo cáo tư
liệu điền dă nên yếu tố nghiên cứu tỏ ra khá bị mờ nhạt (ngoại lệ
trường hợp một số bài nghiên cứu sau đó đă được tác giả hoàn thiện lại
và in thành sách).
Đầu thế kỷ XX Việt Nam mới bắt đầu tiếp xúc với âm nhạc phương
Tây, tiêu chuẩn thẩm mỹ âm nhạc với hệ thống lư thuyết âm nhạc cổ điển
châu Âu được xem là thước đo chuẩn mực để các nhạc sĩ soi xét, đánh giá
trong nghiên cứu âm nhạc dân gian nước ta. Đây là một thực trạng tồn tại
phổ biến trong nghiên cứu lư luận âm nhạc cổ truyền thời kỳ này. Việc
đứng trên quan điểm thẩm mỹ của một truyền thống âm nhạc này để nhận
xét, đánh giá một truyền thống âm nhạc khác thường sinh ra những trường
hợp kiểu như nhạc sĩ Pháp Hector Berlioz nhận xét nhạc Trung Hoa là
giống tiếng "chó ngáp mèo mửa", trái lại một ông hoàng ở Lahore
th́ rất sành nhạc Ấn Độ, c̣n nhạc Âu đối với ông chỉ là "tiếng sói
tru giữa sa mạc" 1. Hoặc như ư kiến của Gs. Trần Văn Khê
phê phán một nhạc sĩ khi ông này đặt hợp âm cho bài Trống cơm
dân ca quan họ v.v... Hiện tượng nghiên cứu, phân tích âm nhạc cổ truyền
như trên, kể cả nhiều trường hợp chúng tôi đă nhận xét trong các chương
là sự áp đặt, là kinh viện hóa âm nhạc dân gian, nếu không muốn nói là
đánh đồng truyền thống, đánh đồng ngôn ngữ cấu trúc âm nhạc phương Tây
cổ điển với dân ca dân gian Việt nam, chưa kể đến một số bài nghiên cứu
nhưng rất sống sượng khi lấy đối tượng dân ca Việt nam để “tiêu hóa”
kiến thức âm nhạc phương Tây đă học ở trường Âm nhạc.
Mặc dù c̣n những tồn tại về phương hướng, phương pháp trong một
số bài nhưng nh́n chung những khảo cứu dân ca Việt Nam trong thời kỳ này
đă để lại một hệ thống, một kho tàng tư liệu quư giá các thể loại dân ca
khắp mọi miền đất nước, giới thiệu cho công chúng biết được giá trị nghệ
thuật truyền thống của dân tộc, điều mà trước 1945 chưa biết đến và chưa
làm được bao giờ. Điều quan trọng trong khoa học âm nhạc là đă giải
quyết được một số vấn đề về dị bản, cải biên, kư âm, bảo tồn, phát triển
và nhất là đă đúc kết có hệ thống về giai điệu, thang âm điệu thức...
Chính những điều này đă tạo cơ sở, phương hướng mang ư nghĩa “mở lối,
dẫn đường” cho các nhà nghiên cứu âm nhạc thế hệ kế tiếp của thế kỷ
XXI.
Do điều kiện không cho phép, chúng tôi chỉ liệt kê danh mục tài
liệu được tuyển chọn để tổng lược và nhận xét vào cuối bài
viết, mà không thể in trọn vẹn các bài nghiên cứu đó để tiện đối chiếu
trực tiếp.
DANH MỤC TÀI LIỆU
TUYỂN CHỌN
[1] Tô Vũ. Âm nhạc cổ truyền Nam Bộ.
T/c VHNT số 3/1996.
[2] Nguyễn Văn Hầu. Ḥ miền Nam.
T/c Bách khoa số 135, 136/1962.
[3] Ngô Huỳnh. Dân ca Nam Bộ, một kho tàng âm điệu
dân gian phong phú.
T/c NCNT số 4/1977.
[4] Nguyễn Hữu Thu. Một vài suy nghĩ về Ḥ Nam Bộ.
T/c Dân tộc học số 4/1975.
[5] Trần Kiết Tường. Dân ca Nam Bộ.
T/c VHNT số 7/1974.
[6] Tô Vũ. Tản mạn quanh những điệu Lư.
T/c VHNT số 12/1995.
[7] Lư Nhất Vũ. Đặc trưng nghệ thuật của dân ca Nam
Bộ.
T/c NCNT số 2/1983.
[8] Tô Đông Hải. Một cách nghe, một cách hiểu bài
dân ca Nam Bộ: Lư ngựa ô.
Văn hóa dân gian số 4/1990.
[9] Ngô Đông Hải. Điệu thức trong dân ca Nam Bộ.
Những vấn đề Âm nhạc và Múa số 7, 8/1965.
SÁCH THAM KHẢO
- Âm nhạc Đông Nam Á. Trần Văn Khê.
Viện Âm nhạc. Hà Nội, 1998
- Dân ca Việt Nam. Nguyễn Hữu Ba. Tập
1,2. Bộ QGGD, Sài G̣n, 1961
- Dân ca Việt Nam. Phạm Phúc Minh.
Nxb Âm nhạc, 1994
- Dân ca người Việt. Tú Ngọc. Nxb Âm
nhạc, Hà Nội, 1994
- Đặc khảo dân nhạc ở Việt Nam. Phạm
Duy. Nxb Hiện Đại. Sài G̣n, 1972
- Lịch sử âm nhạc dân gian cổ truyền Việt
nam. Nguyễn Viêm. Viện Âm nhạc.Hà Nội,1996
- Những vấn đề cơ bản trong âm nhạc Tuồng.
Lê Yên. Nxb Thế Giới. Hà Nội, 1996
- Sức sống của nền âm nhạc truyền thống
Việt Nam. Tô Vũ. Nxb Âm nhạc. Hà Nội, 1996
- Lư Huế. Dương Bích Hà. Nxb. Viện Âm
nhạc
© http://vietsciences.free.frr
và
http://vietsciences.org Vĩnh Phúc
|