Trong tất cả những cuộc phân ly,
có lẽ cuộc phân ly năm 1954 đă để lại trong ḷng người Việt Nam một sự chua
xót đầy cay đắng. Chua xót v́ nó không chỉ chia cắt đất nước với hai miền
Nam và Bắc mà c̣n chia cắt cả ḷng người ở bên này và bên chia chiến tuyến.
Lịch sử Việt Nam đă ghi lại nhiều giai đoạn đất nước
bị phân ly. Thời Trịnh - Nguyễn phân tranh để giành ảnh hưởng cho tộc họ;
Thời Pháp Thuộc với ba kỳ chia để trị của người Pháp và thời chiến tranh
Quốc - Cộng với tham vọng cộng sản hóa đất nước của Hồ Chí Minh.
Trong tất cả những cuộc phân ly nói trên, có lẽ cuộc
phân ly năm 1954, dẫn đến cuộc chiến tranh Quốc - Cộng đă để lại trong ḷng
người Việt Nam một sự chua xót đầy cay đắng. Chua xót v́ nó không chỉ chia
cắt đất nước với hai miền Nam và Bắc mà c̣n chia cắt cả ḷng người ở bên này
và bên chia chiến tuyến. Chua xót v́ người dân Việt Nam đă không có những
quyết định ǵ trong sự chia cắt này, trong khi một thiểu số người Việt Nam
v́ tham vọng quyền lực đă cấu kết với ngoại nhân chia cắt đất nước để làm
tay sai.
Hơn thế nữa, sự chia cắt đó, tuy đă nối lại vào năm
1975 sau cuộc tiến công quân sự để tiến chiếm miền Nam của đảng CSVN, nhưng
lại làm phát sinh một cuộc phân chia mới. Đó là làn sóng tỵ nạn Cộng sản của
người Việt phải bỏ nước ra đi sống lưu vong tại 70 quốc gia lớn nhỏ trên
toàn thế giới.
Những hậu quả tại hại
Những cuộc phân ly nào của đất nước cũng để lại những
hậu quả tại hại cho dân tộc đó.
Hậu quả đầu tiên là
do sự khác biệt về hành chánh của hai miền đă làm cho
nếp sống, nếp sinh hoạt của người dân trở nên khác biệt. Từ đó dẫn
đến những suy nghĩ, những quan tâm của con người cũng khác nhau.
Hậu quả thứ hai là do sự khác
biệt về thể chế chính trị của hai chính quyền đă khiến cho người dân rơi vào
hoàn cảnh đối nghịch. Về căn bản, người Việt Nam sống ở miền Bắc và người
Việt Nam sống ở miền Nam đă không có một chút ǵ thù hận, trái lại c̣n có
những liên hệ máu mủ ruột thịt. Thế nhưng do sự khơi động ḷng hận
thù của đấu tranh giai cấp hầu áp đặt chủ nghĩa vô sản chuyên chính lên cả
nước, CSVN đă đẩy người dân miền Bắc căm thù lẫn nhau và căm thù cả người
dân miền Nam. Sự căm thù đó, ngày hôm nay sau 24 năm đất nước gọi là "thống
nhất" dưới chế độ Cộng sản, vẫn c̣n tồn tại trong ḷng dân tộc Việt Nam.
Hậu quả thứ ba là do chia cắt
địa lư đă dẫn đến sự gián đoạn lưu thông văn hóa giữa hai miền, khiến cho
những tinh hoa văn hóa của dân tộc không c̣n phát triển toàn diện. Ví
dụ văn hóa ở miền Bắc hoàn toàn bị đảng Cộng Sản uốn nắn đi vào con đường
phục vụ chủ nghĩa xă hội, những áng văn chương, những câu chuyện lịch sử đă
bị bóp méo theo nhăn quan cộng sản. Từ những sự khác biệt này đă làm cho
ngôn ngữ trao đổi giữa hai miền, có một số từ trở nên khác biệt và trái
ngược ư nghĩa.
Hậu quả thứ tư là do sự tuyên
truyền xảo quyệt để tiến hành cuộc chiến tranh ở miền Nam, đảng Cộng Sản
Việt Nam đă tạo một tâm lư sai lạc của người dân miền Bắc về h́nh ảnh nô lệ,
sống thiếu văn minh, nghèo đói của người dân miền Nam. Nhưng sau năm
1975, khi người dân miền Bắc vào Nam nh́n thấy sự trù phú và văn minh của
người miền Nam th́ họ lại phát sinh ra mặc cảm tự ti, tự tôn một cách vô lối
và cho đến ngày hôm nay vẫn c̣n trong một số người ở miền Bắc giữ tâm lư này.
Niềm tin và t́nh người.
Đương nhiên c̣n rất nhiều hậu quả tai hại xảy ra bàng
bạc trong cuộc sống của người dân hai miền sau tháng 4 năm 1975. Tuy nhiên
điều đáng nói nhất ở đây, hậu quả của sự phân ly đất nước từ năm 1954 đến
năm 1975 là niềm tin và t́nh người ở hai miền trong 20 năm chiến tranh đă bị
xuống cấp một cách thảm hại, nhất là tại miền Bắc VN. Ngày nay đă sau 24 năm
"thống nhất" mà nó vẫn c̣n là vết đau ray rứt trong ḷng mọi người.
Những hậu quả của cuộc phân ly trong giai đoạn từ
1954 đến năm 1975, tuy to lớn nhưng đang dần dần phục hồi. Điều đáng nói là
hậu quả của cuộc phân ly năm 1954 đă tạo ra cuộc phân ly mới với gần 3 triệu
người đang lưu vong tại hải ngoại sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975.
Cuộc phân ly sau năm 1975 không mang tính chia cắt
đất nước nhưng trong thực tế không khác ǵ mấy những cuộc phân chia trước
đây. Đó là sự ra đi của hàng triệu người để tránh khỏi làn sóng khủng bố và
đàn áp của đảng CSVN. Có điều là cuộc phân ly sau năm 1975 đă khiến cho ba
triệu người Việt phải hội nhập vào những xă hội mà ḿnh không bao giờ nghĩ
đến trước đó. Do sự khác biệt về văn hóa, chủng tộc, màu da và tŕnh độ ư
thức của mỗi quốc gia tạm dung, đă khiến cho tâm tư và lối sống của người
Việt Nam có những dị biệt đáng kể. Sự dị biệt này không chỉ giữa những người
ở trong và ngoài nước mà c̣n ngay cả giữa những người tỵ nạn với nhau.
Những ngộ nhận lịch sử
Sau 24 năm lưu lạc ở xứ người, người Việt tỵ nạn đă
có dịp quan sát những đổi thay của thế giới và nh́n ra bài toán phức tạp của
những quốc gia bị phân ly. Tại những quốc gia này, có lẽ yếu tố phức tạp
nhất làm hằn sâu thêm sự chia rẽ là do những ngộ nhận lịch sử, và v́ đa số
chưa chịu vượt lên trên những giới hạn của lịch sử nên đă chưa t́m ra sự cảm
thông cần có, hầu giúp nhau giải quyết những ngộ nhận của quá khứ. Người dân
tại những quốc gia cựu cộng sản ở Đông Âu cũng như trong Liên Bang Xô Viết
cũ cũng đă trải qua những xung đột sau khi gông cùm Cộng sản bị phế bỏ. Tất
nhiên những xung đột này mau chóng chấm dứt khi những ngộ nhận lịch sử được
giải quyết. Nhưng trường hợp Việt Nam lại khác, sự ngộ
nhận hay khác biệt giữa người dân ở miền Nam và miền Bắc hay ở giữa hải
ngoại với quốc nội, không do ngộ nhận lịch sử, mà do ngay chính sách cai trị
của đảng Cộng Sản Việt Nam. Tại sao?
Thứ nhất, Cộng sản Việt Nam
luôn luôn gieo rắc trong ḷng mọi người về sự nghi kỵ và căm thù lẫn nhau về
bất cứ vấn đề nào. Chính nó đă giết chết niềm tin lẫn nhau và tạo ra
sự ngờ vực giữa mọi người. Đây là lối cai trị thâm độc theo h́nh thức chia
cắt ḷng người để kiểm soát.
Thứ hai, CSVN không muốn người
dân ở hai miền liên đới với nhau và bắt tay với khối người Việt tỵ nạn ở hải
ngoại. Họ rất lo sợ những sự hợp tác đấu tranh giữa trong và ngoài
nước qua thế liên kết, nên t́m mọi cách ngăn chặn.
Những điều cần khắc phục
Nhận ra những thủ đoạn nói trên của chế độ Cộng sản
Việt Nam, chúng ta cũng cần có những hướng suy tư tích cực hơn, nhân kỷ niệm
năm thứ 45 ngày 20 tháng 7 (1954 - 1999) để khắc phục những hậu quả xấu,
hướng về phía trước hầu chuẩn bị tâm lư cho sự hợp tác trong cả hai giai
đoạn đấu tranh cứu nước và dựng nước, đặc biệt là giai đoạn chấm dứt ách độc
tài cộng sản, canh tân quốc gia.
Thứ nhất là cần hiểu rơ bối
cảnh lịch sử cận đại, đặc biệt là giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975, để
chúng ta không bị lấn cấn những diễn biến của lịch sử. Bởi v́ Cộng
sản Việt Nam hay viện dẫn lịch sử theo nhăn quan riêng của họ để tô vẽ công
lao và giành quyền lănh đạo mà trong thực tế, những công lao đó lại chính là
trở ngại làm chuyển hướng tiến tŕnh ḥa b́nh tại Việt Nam mà đáng lư ra
không cần một giọt máu nào. Nh́n rơ bối cảnh lịch sử để thấy rơ công và tội
của đảng Cộng Sản để tránh đi những tuyên truyền sai lệch về lịch sử của
đảng Cộng sản Việt Nam và nh́n ra thủ phạm đồng t́nh với ngoại bang chia cắt
đất nước chính là thiểu số lănh đạo đảng Cộng sản Việt Nam.
Thứ hai là cần hiểu rơ khát
vọng chân chính của người dân miền Bắc cũng như của những người cựu đảng
viên đă phản tỉnh. Phải coi họ là nạn nhân của sự chia cắt đất nước
nên đă phải sống và làm theo các mệnh lệnh của chế độ. Ngày nay, những người
này đă có điều kiện nh́n lại quá khứ và đă phản tỉnh. Chúng ta không thể
tiếp tục coi những người này là kẻ thù mà phải giúp họ thực hiện các khát
vọng bằng cách vùng lên đấu tranh chống lại chế độ. Chính sự hỗ trợ và cộng
tác trong giai đoạn đấu tranh, chắc chắn sẽ giải tỏa rất nhiều ngộ nhận và
tiến đến sự hợp tác chân t́nh.
Thứ ba là phải mở ḷng chấp
nhận và tôn trọng sự khác biệt của nhau để có thể nương tựa, giúp nhau thăng
tiến trong giai đoạn thay đổi nhanh chóng hiện nay. Chấp nhận khác
biệt không có nghĩa là chấp nhận cả những người có lập trường ủng hộ cộng
sản, để làm những việc phản dân hại nước. Chấp nhận khác biệt là chấp nhận
những suy nghĩ, những cung cách hành xử khác nhau trong tiến tŕnh chống lại
chế độ CSVN, để giành lại tự do dân chủ cho đất nước.
Tóm lại, sự phân ly nào của đất nước cũng để lại
những hậu quả không tốt. Thế nhưng nếu chúng ta có cái nh́n lạc quan và vượt
lên trên những giới hạn của lịch sử, chắc chắn chúng ta sẽ khắc phục được
những dị biệt trong ḷng người, tạo sự cảm thông thật sự để cùng nhau đóng
góp cho Tổ Quốc Việt Nam. Muốn làm được việc này đ̣i hỏi mọi người Việt Nam
phải dẹp bỏ tính tự kỷ và kiêu ngạo th́ mọi sự sẽ tốt đẹp.
Đoàn Hùng
|